VI.
Những nguồn gốc của nghệ thuật Việt Nam
[Nghệ thuật ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp]
Sự phát triển của nghệ thuật thường mang tính kế tiếp, nó thừa hưởng rất nhiều từ những thời kì đi trước [thậm chí trước nữa]. Những cái thừa hưởng đó có cả những mặt tốt và những mặt xấu, và tùy theo điều kiện thì cái nào chiếm ưu thế hơn. Vì thế để xem xét nghệ thuật Việt Nam trong thời kì mới [từ khoảng cuối những năm 80 đến nay] chúng ta sẽ điểm qua những tiền thân của nó.
1.
Nghệ thuật dân gian Việt Nam
Đây có thể coi như là nguồn gốc sâu xa nhất và lâu dài nhất đối với nghệ thuật Việt Nam trong nhiều thời kì tiếp sau. Đây là nơi bộc lộ ra những cái cội rễ nhất trong con người Việt Nam, mà cụ thể hơn là về quan niệm, về cách tư duy, về niềm tin và tình cảm. Có thể nói những thời kì sau này phát triển được lên đỉnh cao chỉ khi chúng những nguyên tắc sáng tác, những thể thức của nghệ thuật thích nghi được với những đặc điểm đó của con người Việt Nam.
Nếu xét về thể loại, nghệ thuật dân gian Việt Nam cũng có nhiều ngành chủ yếu, trong đó phong phú về thể loại và hình thức. Những ngành phát triển mạnh nhất là văn học, sân khấu và âm nhạc. Có đặc điểm khá quan trọng khác là giữa các ngành có sự đan xen khá lớn, vai trò ảnh hưởng chủ đạo của văn học và qui mô tác phẩm thường nhỏ [có những ngoại lệ ở nghệ thuật của các dân tộc thiểu số]. Đặc điểm thứ ba hầu như phổ biến chung cho các phạm vi và thời kì nghệ thuật tiếp theo [qui mô tác phẩm thường bé]. Nguồn gốc của những đặc điểm này nằm trong đặc điểm của con người Việt Nam như sẽ nói sau đây.
Trước hết về mặt tình cảm và niềm tin, thì con người Việt Nam có hai tình cảm chủ đạo là lòng nhân hậu và lòng tự hào. Biểu hiện ở nghệ thuật đó chính là hai tình cảm chung của nghệ thuật Việt Nam là tình cảm nhân đạo và tình cảm yêu nước. Tuy vậy lòng tự hào ở đây rộng hơn, đôi khi không phải là tự hào dân tộc, mà là tự hào cá nhân, tự hào tập thể. Thái cực này có thể dẫn tới tự ti, tự ái... Vì thế nó cũng có một phần nhược điểm của nó và cũng có thể hiện một phần ở trong nghệ thuật. Tuy vậy những thứ tiêu cực này thường bị đào thải chỉ còn lại những mặt tốt của lòng tự hào như lòng yêu nước, yêu quê hương, con người [thể hiện đặc biệt rõ ở văn học]. Vì thế
tình cảm và niềm tin vẫn là mặt ưu điểm của tư tưởng nghệ thuật Việt Nam.
Tuy vậy có một mặt rất quan trọng đối với tư tưởng nghệ thuật nữa là cách tư duy về thế giới của con người. Ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến những phần của phạm vi rất rộng này, mà chúng liên quan mật thiết đến nghệ thuật mà thôi. Nếu chúng ta so sánh những tác phẩm của Việt Nam với những tác phẩm của những nền nghệ thuật lớn xung quanh như Trung Quốc, Ấn Độ hay xa hơn nữa nghệ thuật Châu âu chúng ta có thể thấy chí ít là hai tính chất rất đặc trưng đó là qui mô thường nhỏ, và hầu như rất mang tính diễn giải và ít trừu tượng hơn. Điều này thể hiện chính cách tư duy về sự vật và đối tượng của con người chúng ta. Có thể nói, qui mô tác phẩm nhỏ là hệ quả của sự thiếu hụt khả năng tư duy tổng thể và tư duy cấu trúc, còn tính ít trừu tượng là hệ quả của cách tư duy trên biểu hiện dễ thấy của sự vật. "Nói nôm na..." hay "chẳng qua là..." là những biểu hiện dễ thấy khi tiếp cận vấn đề hay tìm hiểu đối tượng [nói lại một cách nôm na câu trước
]. Hiểu hay quan niệm trên biểu hiện dễ thấy chưa thực sự có vấn đề, mà tư duy và tác động lên sự vật trên những biểu hiện đó mới là những hạn chế chủ yếu. Hệ quả là văn học phát triển mạnh nhất và ảnh hưởng đến những ngành khác, bởi chất liệu của nó là ngôn ngữ tự nhiên và cơ bản của con người [chẳng nhẽ nói còn không hiểu]. Tuy vậy những nhà văn hóa lớn của Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh và cả nhiều những tên tuổi lớn khác của nghệ thuật Việt Nam và đặc biệt là dân gian, cho dù những tác phẩm của họ vẫn mang tính chất dễ hiểu đó, nhưng đằng sau bao giờ cũng có rất nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu xa. Cái dễ hiểu ở những tác phẩm đó, chỉ là những cái dễ hiểu về hình thức, về ngôn ngữ nghệ thuật, song về ý nghĩa nội dung không hề dễ hiểu chút nào. Rất nhiều tác giả, tác phẩm yếu là do bị rơi vào dễ hiểu về nội dung ý nghĩa ["văn kị lộ mạch" là thế]. Có thể nói tóm lại,
cách tư duy về sự vật và thế giới đã hạn chế rất nhiều khả năng và tầm cỡ, vị trí của nghệ thuật Việt Nam.
Còn một mặt nữa, đó là hệ tư tưởng. Đây chính là đặc điểm quan trọng để phân biệt các thời kì nghệ thuật của Việt Nam, cũng là đặc điểm đặc trưng cho mỗi nền nghệ thuật. Vì thế, hệ tư tưởng không chỉ có một, mỗi nền nghệ thuật dựa trên một hệ tư tưởng của riêng nó, từ đó phát triển lên đỉnh cao. Không thể lấy đánh giá hệ tư tưởng để quyết định đánh giá nền nghệ thuật, chính xác hơn, hệ tư tưởng không quyết định ưu hay nhược điểm của của nền nghệ thuật. Đánh giá sự phát triển nền nghệ thuật luôn phải dựa vào những thành phần bên trong nó. Chỉ có một điều quan trọng là một nền nghệ thuật bao giờ cũng phải có và cần có một hệ tư tưởng làm cơ sở.
Đối với Nghệ thuật dân gian Việt Nam,
hệ tư tưởng chi phối có nền móng từ những quan niệm cổ, tín ngưỡng cổ của người Việt Nam. Tiếp đó tư tưởng Phật giáo đã thâm nhập sâu vào trong tư tưởng Nghệ thuật dân gian và cũng trở thành một thành phần cơ bản. Thời kì phong kiến, ảnh hưởng thêm từ tư tưởng Nho giáo cũng đã thâm nhập, song vai trò không lớn bằng Phật giáo, tuy vậy cũng khá đáng kể. Đó là những nội dung chủ yếu của tư tưởng Nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Đối tượng phản ánh của nghệ thuật dân gian Việt Nam là cuộc sống xung quanh con người Việt Nam, trong quá khứ [so với hiện nay]. Đó là cuộc sống nông nghiệp, và vì thế nó cũng qui định đối tượng phản ánh chủ yếu. Cũng vì thế mà nghệ thuật dân gian bao giờ cũng tự nhiên và thuần hậu hơn cả.
Tuy vậy, sự phát triển của xã hội, của cuộc sống đã đi quá xa so với những thời kì ban đầu của nghệ thuật dân gian, và vì thế hiện nay, đó không còn là nền nghệ thuật chủ đạo nữa [đây cũng phổ biến cho các nền nghệ thuật dân gian khác]. Đối với nó, điều tốt nhất là bảo tồn, gìn giữ. Nếu phát triển cũng cần cẩn trọng, có thể nếu để nó ảnh hưởng quá nhiều từ cuộc sống hiện nay thì nó sẽ không còn giữ được bản thân chính nó nữa.