Tại sao Việt Nam thời đại mới ko có thành tựu đáng kể nào về Nghệ Thuật?

@ em:

Trong "chiếc là cuối cùng" bác Bơmen là người nghệ sĩ của "nghệ thuật vị nhân sinh" vì bác sáng tác lấy nguồn cảm hứng từ con người, cuộc sống hiện thực và sáng tác vì con người. Đó gọi là "nghệ thuật vị nhân sinh"

Nhưng bên cạnh "nghệ thuật vị nhân sinh" còn có "nghệ thuật vị nghệ thuật", khi sáng tác một tác phẩm, người nghệ sĩ đề cao hình thức, cái đẹp, cái hoa mĩ, tráng lệ của nghệ thuật. Người nghệ sĩ lúc này giành toàn bộ trí lực của mình cho nghệ thuật.

Hai cái đấy là hai xu hướng phát triển của nghệ thuật, em ạ ;)
 
Uh, tớ đọc trong quyển "Hiếu học và Tài Năng" cũng thấy người ta ca ngợi Đặng Thái Sơn, Bùi Công Duy, Tăng Thành Nam, Đỗ Hồng Quân nhiều lắm! :) Họ được coi là những "thần đồng đất Việt" về thể loại nhạc cổ điển, không thua kém gì những nghệ sĩ của phương tây.

Chân dung của Bùi Công Duy với đàn Violin:
buicongduy.jpg
trang40_150.jpg



Chân dung Đặng Thái Sơn (hiện nay) :

dtson.jpeg
images373725_DangThaiSon.jpg


Đặc biệt là Đặng Thái Sơn còn được coi là "nhà ảo thuật trên cây đàn piano", người có khả năng cảm thụ được tâm hồn của âm nhạc bác học! Huy chương vàng của cuộc thi âm nhạc Chopin 24 năm trước đây là kết quả của niềm say mê, tài năng, và lao động nghệ thuật không mệt mỏi của Đặng Thái Sơn, ngoài ra ông còn đạt tất cả các giải đặc biệt của cuộc thi. Lần đầu tiên một người Á châu giành huy chương vàng trong một cuộc thi âm nhạc quốc tế danh tiếng ở phương Tây. Thắng lợi của Đặng Thái Sơn còn đặc biệt rực rỡ hơn khi người ta biết rằng quá trình học piano thời niên thiếu của anh đã diễn ra trong điều kiện rất khó khăn thiếu thốn của một nước Việt Nam bị chiến tranh tàn phá.

Việt Nam mình đâu đã hết những tài năng!
 
hi`hi`, em đâu có nói vậy, nhưng thực sự là em đang nói đến tính phổ biến của âm nhạc mà.
à nhân tiện khoe luôn chị mà dạy em cách nghe nhạc chắc cũng đuợc coi là tài năng âm nhạc cho Vn nhỉ , mọi người đọc báo an ninh thủ đô nhé - Trịnh Mai TRang . Chị TRang đang học khoa piano Học viện âm nhạc Hoàng gia Anh ( RAM ) ( đuợc coi là truờng thứ 2 thế giới sau Julliard Mỹ và trên Tchaikovski đứng thứ 3 ;;).....năm đấy chỉ tuyển đuợc 16 người thôi và chị ấy là học sinh Vn trẻ nhất cũng như đầu tiên đuợc học bậc đại học đấy :D , vì truớc đó cũng có một vài người Vn nhưng toàn học cao học thôi , em chỉ đuợc chị kể là một chú đang làm ở BBC bên này :>
( cứ nhìn những người tài giỏi như thế mà tự hào cho Vn mình ---> thấy mình ngu vô cùng :(( )

em thấy anh Tuấn nói đúng quá. Về xu huớng phát triển cho nt Vn ấy, nhưng có điều là đã nền kinh tế thị truờng, thanh niên chạy theo nhạc sến ( em ko chỉ trích gì đâu ,em đã nói là mỗi dòng nhạc đều cần đuợc nhìn nhận công bằng mà , hic ) , thì phát triển âm nhạc dân tộc cũng là điều khó vì sợ là chỉ có các cụ , mà các cụ thì sẽ làm sao bằng đuợc các 'cháu' hehee. Sao ko phổ cập âm nhạc 'cao cấp' thành âm nhạc đời thuờng. Nhiều người ko thiếu điều kiện đâu, nhưng ko hiểu biết. Hoặc giả sử nếu người ta thấy loại nhạc này 'sành điệu', 'quý tộc', 'thời thuợng' thì ối người chạy rầm rập đi học ý chứ. : :)) :)) :)) .. cái đấy gọi là học cái thâm của bọn tàu b-) :)) chết cười
à post quả ảnh chị Trang lên sánh vai cùng anh Duy cái nhỉ, anh DUy trông đẹp trai quá :x

trangpiano9ot.th.jpg

2005_0124Image0112.jpg
 
Nguyễn Thu Hiền đã viết:
Thành tựu Nghệ Thuật Việt Nam thực ra cũng có nhiều bước tiến đáng kể so với trước đây!

Về Mĩ thuật: Thời gian qua Hội Mỹ thuật Việt Nam đã có nhiều hoạt động sôi nổi, các hội viên đã phát huy tính tự chủ, sáng tạo để có nhiều tác phẩm mới đáp ứng những nhu cầu văn hóa của nhân dân, hội nhập với mỹ thuật khu vực và thế giới. Tuy chưa có nhiều tác phẩm đỉnh cao, nhưng vẫn có bước phát triển đáng ghi nhận cả về số lượng và chất lượng tác phẩm. Một số triển lãm được mở ở nước ngoài như: Trung Quốc, Lào, Mỹ, Mêhicô... đã gây sự chú ý trên thế giới. nội dung đề tài được mở rộng, ngôn ngữ tạo hình được tiếp tục tìm tòi sáng tạo trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong nước, kết hợp với tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới. Nhiều chất liệu đã được các tác giả nghiên cứu, bổ sung. Điêu khắc tượng đài đã có bước phát triển về kích thước, ngôn ngữ nghệ thuật. Đồ họa ứng dụng phát triển, mỹ thuật ứng dụng đã đóng góp vào việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của các sản phẩm thủ công, mỹ nghệ, sản phẩm công nghiệp. Mỹ thuật môi trường, mỹ thuật điện ảnh đã có chuyển biến rõ nét...

Về nhiếp ảnh: Các nhà nhiếp ảnh Việt Nam vừa đoạt tới 20 giải đồng hạng tại cuộc thi nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế truyền thống Asahi Shimbun lần thứ 65, do Hiệp hội Nhiếp ảnh Nhật Bản và tạp chí Asahi Shimbun đồng tổ chức.

Về Điện ảnh: Việt nam cũng đạt được nhiều giải vị cao và dần khẳng định được vị trí của mình trong Liên Hoan Phim Châu Á Thái Bình Dương thời gian gần đây...

Không phải tất cả đều là hết hi vọng đâu!
Đúng là không hết hi vọng, nhưng những cái chị nhắc đến ở trên không phải là biểu hiện của những phát triển trong nghệ thuật thời kì hiện nay của VN đâu. Nghe nó giống như bản báo cáo thành tích trong đại hội Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam í 0:)
 
Oạch, hóa ra em Trang la` em này đấy a`??? Roomate của Yến a`???:D thảo nào hôm nọ xem trong cai album thấy có cái đàn đẹp thế, hóa ra là của cô bé này. Khi nào có dịp cho làm quen cái đê:))
Còn anh DUy thì thôi khỏi nói. gặp ngoài đời chắc các em gái chết luôn, cao to lắm. hơn 1m80, trông không giống nghệ sĩ violin tí nào nhưng mà năm nay anh về VN lấy vợ rồi, lấy con gái một nhạc sĩ nổi tiếng của VN. 2 người cùng học tại Tchaikovski, anh hoc violin, chị học piano thì phải.
Còn với cả trong nghệ thuật thì không thể so sánh thứ hạng được:p. Hơn nữa các chỉ tiêu đánh giá về thứ hạng cũng có nhiều yếu tố như tài chính, số lượng SV...Các nhân tài của VN mình chủ yếu được đào tạo tại Tchaikovski, một phần là do mối quan hệ tốt giữa hai nước, hơn nữa trong cách cảm thụ nghệ thuật của 2 nước cũng có khá nhiều điểm chung ( mình bị ảnh hưởng là chủ yếu). Mặc dù có rất nhiều SV VN xuất sắc tại các trường nhạc trên TG nhưng thực sự cứ phải đến Tchaikovski thì mới ra trò được. Thử tìm điểm chung của Đặng Thái Sơn, Đỗ Hồng Quân, Bùi Công Duy... xem thế nào:p.
Với cả tuy tự hào thật nhưng cũng phải nói rằng những người như thế của nước mình khá hiếm hơn nữa nếu thực sự nói là có thể vương ra tầm TG thì cũng chỉ có Đặng Thái Sơn thôi chứ còn có rất rất nhiều người khác "điên cuồng" hơn nhiều. Vì thực chất nước mình vẫn chưa vươn tới được đẳng cấp như các quốc gia hàng đầu TG trong lĩnh vực này.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Trần Minh Quân đã viết:
@ em:

Trong "chiếc là cuối cùng" bác Bơmen là người nghệ sĩ của "nghệ thuật vị nhân sinh" vì bác sáng tác lấy nguồn cảm hứng từ con người, cuộc sống hiện thực và sáng tác vì con người. Đó gọi là "nghệ thuật vị nhân sinh"

Nhưng bên cạnh "nghệ thuật vị nhân sinh" còn có "nghệ thuật vị nghệ thuật", khi sáng tác một tác phẩm, người nghệ sĩ đề cao hình thức, cái đẹp, cái hoa mĩ, tráng lệ của nghệ thuật. Người nghệ sĩ lúc này giành toàn bộ trí lực của mình cho nghệ thuật.

Hai cái đấy là hai xu hướng phát triển của nghệ thuật, em ạ ;)
"Nghệ thuật vị nghệ thuật" hay "nghệ thuật vị nhân sinh" là hai yếu tố cơ bản của nghệ thuật chân chính [tí nữa anh sẽ nói], trước đây người ta tranh cãi, rồi thành lập những quan điểm khác nhau, trường phái khác nhau, nhưng dù thế nào vẫn là nghệ thuật. Còn bây giờ, những cái mà như em nói [nhạc sĩ sáng tác nhạc sến, hay những công trình kiến trúc ăn cắp ý tưởng] thì có thể gọi là "nghệ thuật vị tiền" hay "nghệ thuật vị cá nhân". Những cái đó đối với quan điểm của anh thì không coi đó là nghệ thuật.
Đối với điện ảnh và nhiếp ảnh, có thể coi đó là những bước đầu tiên của nghệ thuật, còn vụng về và hơi sáo rỗng-nhưng đang cải thiện.
Đối với hội họa, âm nhạc và văn học, những hiện tượng như em Trang nói cũng mới là những phá cách bồng bột, nhằm phá bỏ những lối mòn cũ kĩ và bế tắc trong nghệ thuật những năm về trước. Cùng với nghệ thuật sắp đặt, một số nghệ sĩ sáng tác trẻ rất tiếc hơi có xu hướng tỏ ra khác người khá tiêu cực, không giúp ích gì nhiều cho sự phát triển của nghệ thuật: tác phẩm nhằm thể hiện cái tôi rỗng tuếch, phùng mang trợn má cho khác lạ, và cho rằng đấy là sáng tạo nghệ thuật.
Nhưng đấy cũng là bước chuyển mình cho một nền nghệ thuật mới. Rõ ràng những năm gần đây, do điều kiện kinh tế có bước phát triển hơn, nghệ thuật cũng đã được cải thiện, trưng bày có nhiều hơn, nhiều người có điều kiện quan tâm đến nghệ thuật hơn, mặc dù vẫn chủ yếu ở các trung tâm lớn. Mặc dù vậy, đây vẫn là những bước đi rất chập chững. Coi đó là không có gì, hay coi nó quá lớn so với những gì nó có đều không có ích cho sự phát triển nghệ thuật.
 
Nguyễn Thu Hiền đã viết:
Uh, tớ đọc trong quyển "Hiếu học và Tài Năng" cũng thấy người ta ca ngợi Đặng Thái Sơn, Bùi Công Duy, Tăng Thành Nam, Đỗ Hồng Quân nhiều lắm! :) Họ được coi là những "thần đồng đất Việt" về thể loại nhạc cổ điển, không thua kém gì những nghệ sĩ của phương tây.

Chân dung của Bùi Công Duy với đàn Violin:
buicongduy.jpg
trang40_150.jpg



Chân dung Đặng Thái Sơn (hiện nay) :

dtson.jpeg
images373725_DangThaiSon.jpg


Đặc biệt là Đặng Thái Sơn còn được coi là "nhà ảo thuật trên cây đàn piano", người có khả năng cảm thụ được tâm hồn của âm nhạc bác học! Huy chương vàng của cuộc thi âm nhạc Chopin 24 năm trước đây là kết quả của niềm say mê, tài năng, và lao động nghệ thuật không mệt mỏi của Đặng Thái Sơn, ngoài ra ông còn đạt tất cả các giải đặc biệt của cuộc thi. Lần đầu tiên một người Á châu giành huy chương vàng trong một cuộc thi âm nhạc quốc tế danh tiếng ở phương Tây. Thắng lợi của Đặng Thái Sơn còn đặc biệt rực rỡ hơn khi người ta biết rằng quá trình học piano thời niên thiếu của anh đã diễn ra trong điều kiện rất khó khăn thiếu thốn của một nước Việt Nam bị chiến tranh tàn phá.

Việt Nam mình đâu đã hết những tài năng!
Em nghĩ rằng ca tụng những tài năng không có lợi cho sự phát triển và phấn đấu của thế hệ những nghệ sĩ tiếp theo [thế mà báo chí cứ vớ được ai lại ca tụng ầm ầm, làm người khác và chính người được khen ngợi rất khó mà tự vươn lên tiếp được nữa].Làm như thế theo cảm giác của em làm tốc độ phát triển hiện nay của nghệ thuật Việt Nam dù chậm, nhưng mà vẫn tăng, lại trở về gần với đứng im, thậm chí thụt lùi.
 
Sao lại không có lợi hả em... họ có phải người của quá khứ đâu, là "người đương thời" cả đấy chứ... Nhìn tấm gương của họ có thể làm cho người khác thấy phấn khích mà cố gắng....! Có 1 cái mốc để mình vượt lên!

Bọn em nói về 2 trường phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật" và "nghệ thuật vị nhân sinh" là từ thời những năm 1942... khi có 1 cuộc chiến giữa các nhà văn Hiện Thực như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phung.... Và các nhà văn thơ Lãn mạn như Khái Hưng, Nhất Linh, nhóm "Hồn Bướm mơ tiên'' và nhóm "Tự Lực Văn Đoàn"...

:D Công nhận anh Bùi Công Duy đẹp trai thật! Còn Trịnh Mai Trang vẫn còn trẻ quá... Thế mà đã giỏi thì về sau còn nhiều tiềm năng lắm... Được ở với roomate kiểu này thì vinh dự quá Yến nhỉ... :)
 
Để bắt đầu với vần đề nghệ thuật của Việt Nam trong những năm gần đây, em xin bắt đầu với phạm vi hoạt động nghệ thuật. Chúng ta chưa xác định ngay mà chỉ liệt kê các thành phần của nó theo chức năng:
-Hoạt động cơ bản của nghệ thuật và những thứ liên quan trực tiếp: sáng tác, biểu diễn [đối với âm nhạc, múa, điện ảnh] và phê bình.
-Hoạt động trưng bày/đưa tác phẩm tới công chúng: trưng bày, concert, buổi trình chiếu.
-Hoạt động tiếp cận của công chúng đến với nghệ thuật: thông qua báo chí, tham gia vào các hoạt động nghệ thuật
-Hoạt động kĩ thuật, đạo cụ bổ trợ: đạo cụ, ánh sáng, trang phục, đạo cụ...
-Hoạt động Kinh tế liên quan đến nghệ thuật: môi giới tác phẩm/hay trả công cho người sáng tác hay biểu diễn, xuất bản tác phẩm và các thứ liên quan[đối với văn học, âm nhạc]
-Hoạt động Tổ chức quản lí: quản lí nhân sự, tổ chức hoạt động biểu diễn trưng bày.v.v...
-Hoạt động Sư phạm, đào tạo
-Hoạt động Nghiên cứu Nghệ thuật: Lịch sử, nghiên cứu ngôn ngữ của các nghệ thuật, Mĩ học...
-Hoạt động ứng dụng nghệ thuật
Những hoạt động này tác động lẫn nhau, và nương tựa vào nhau, vì thế không thể có một nền nghệ thuật mạnh nếu không có sự phát triển của tất cả các mặt này [còn làm thế nào đạt được nó thì là chuyện khác].
Đơn vị của nghệ thuật là tác phẩm nghệ thuật. Tất cả các hoạt động nghệ thuật trực tiếp hay gián tiếp đều xoay quanh các tác phẩm nghệ thuật và hệ thống các tác phẩm nghệ thuật. Vì thế có 3 yếu tố cơ bản nhất trong các hoạt động nghệ thuật:
-Tạo nên tác phẩm nghệ thuật: Sáng tác
-Đưa tác phẩm nghệ thuật đến đích - công chúng: Biểu diễn, trưng bày, xuất bản
-Phản hồi những tác phẩm nghệ thuật: Phê bình, Phản ứng của công chúng.
Qua 3 bước này thì tác phẩm mới thực sự thành hình. Theo thời gian, bước thứ 3 sẽ cho câu trả lời chính thức về giá trị của tác phẩm.
Tương ứng với 3 bước này là 3 lớp người tham gia vào nội tại bên trong nghệ thuật: Nghệ sĩ sáng tác, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng. Tất nhiên đối với một số ngành như văn học, hội họa điêu khắc và kiến trúc, nhiếp ảnh thì chỉ có nghệ sĩ sáng tác và công chúng [hiển nhiên do đặc thù của ngành].
Để tìm hiểu thực tế nghệ thuật Việt Nam hiện nay thì chúng ta sẽ đi theo các bước này và xem xét ba đối tượng nói trên để đánh giá.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
huhu , khổ thế đấy ạ, ai tâng bốc cho lên làm roomate của chị ý thế ạ, em thì ở Lewes, chị Trang thì ở London, :D , chả nhẽ mỗi tối phi về ngủ cùng à, hichic, em tình cờ quen chị rồi bi h chơi với chị ý thôi mà ( tuần nào cũng ăn vạ nhà chị ý :"> )

em ko nghĩ là chuyện lăng xê hay khen ngợi lại là ko tốt nói chung , ...người có tài người ta sẽ biết cái gì là quan trọng , sự nghiệp hay những điều lăng xê phù phiếm - vốn chỉ tồn tại cùng với tài năng thực sự và cách đối nhân xử thế của họ. Những truờng hợp bị ảnh hưởng do sự lăng xê hay hào quang của nổi tiếng thì dù có hay ko có lăng xê sớm hay muộn những con người đó cũng ko đứng vững đuợc truớc sự thách thức của quá trình đi lên thành công ---------> Mỗi thế đã lảo đảo thì làm sao có thể vuợt qua chính mình mà thành tài năng đuợc ?

Còn những tấm guơng như thế mà ko để mọi người cùng biết , cùng nghe thấy, thì có phải là điều quá phi lý ko?
thứ nhất là về mặt nghệ sỹ phải thấy rõ trách nhiệm của mình với người hâm mộ, từ đó cũng vì thế mà có trách nhiệm với nghề nghiệp hơn, cố gắng hơn để có đuợc tình yêu của người mến mộ ( ở đây ko mang nghĩa tiêu cực nghệ thuật guợng ép - đó là tình yêu của khán giả dành cho nghệ sỹ thúc đẩy họ )
Thứ 2 , người đọc là ai? là học sinh, thanh niên, thế hệ trẻ, người mới vào nghề, thế hệ lớn tuổi, người trẻ thì thấy khâm phục, rồi thấy bản thân mình cũng có chút ghen tỵ, nguỡng mộ nhưng cũng cay cú chứ sao nữa, thế nên phải cố gắng , nhìn những người giỏi như thế nhìn bản thân mình kém hơn mà ko thấy cú phải cố gắng hơn mới là lạ. Rồi đọc những người như thế rồi cũng thấy lạc quan về tài năng của đất nuớc này, thấy ờ hóa ra Vn cũng giỏi phết, các cụ đọc thì bảo ờ bọn trẻ bây giờ cũng khá phết chứ đùa..vô hình tạo ra một niềm tin và hy vọng cho mọi thế hệ. Xã hội này xây dựng là do niềm tin chứ do cái gì . hehee. chẳng thế mà cách mạng mình đánh tơi bời mấy thằng Pháp Mỹ, ko là cổ động vào lòng người thì bằng cái gì ?
ngay bản thân em , nếu ko đuợc đọc, đuợc nhìn, đuợc gặp, đuợc nói chuyện với những anh chị rất giỏi, còn rất trẻ nhưng đầy hoài bão và tài năng, chắc chắn em đã khác rất nhiều bây giờ. Có thể sau này mình cũng chẳng là gì nhưng cứ có cố gắng, có tâm huyết là đã đuợc rồi. Còn hơn người chẳng nghĩ gì . Em nghĩ những điều em cố gắng phần lớn bị ảnh huởng bởi những gì em đuợc nhìn và chứng kiến các anh chị đi truớc mình. Con người ta bản chất vốn ko muốn thua ai - tính cạnh tranh mà.
Những người giỏi là những tấm guơng của đất nuớc - nhất thiết phải để công chúng biết - để học tập và đấu tranh - đó là sự cần thiết ko thể bỏ .
:D hăng hái quá mọi người thông cảm cho em :p
 
Oạch, hóa ra em Trang la` em này đấy a`??? Roomate của Yến a`??? thảo nào hôm nọ xem trong cai album thấy có cái đàn đẹp thế, hóa ra là của cô bé này. Khi nào có dịp cho làm quen cái đê

Chị đâu có lăng xê :) Tại đọc đoạn này nên nghĩ Yến ở cùng với Trang... :) Quả thực là chị cũng khâm phục người tài lắm! Đi đâu nghe thấy người ta khen dân mình giỏi cũng sướng
đọc những người như thế rồi cũng thấy lạc quan về tài năng của đất nuớc này, thấy ờ hóa ra Vn cũng giỏi phết, các cụ đọc thì bảo ờ bọn trẻ bây giờ cũng khá phết chứ đùa..vô hình tạo ra một niềm tin và hy vọng cho mọi thế hệ. Xã hội này xây dựng là do niềm tin chứ do cái gì

Vì thế có 3 yếu tố cơ bản nhất trong các hoạt động nghệ thuật:
-Tạo nên tác phẩm nghệ thuật: Sáng tác
-Đưa tác phẩm nghệ thuật đến đích - công chúng: Biểu diễn, trưng bày, xuất bản
-Phản hồi những tác phẩm nghệ thuật: Phê bình, Phản ứng của công chúng.
Qua 3 bước này thì tác phẩm mới thực sự thành hình. Theo thời gian, bước thứ 3 sẽ cho câu trả lời chính thức về giá trị của tác phẩm

Theo Tú nói thì bước thứ 3 là câu trả lời cuối cùng! Nhưng để có được một TPNT được thế giới công nhận thì rất cần đầu tư cho bước đầu tiên là đào tạo nhân tài và cung cấp cơ sở vật chất cho Nghệ Sĩ sáng tác!
Tất nhiên cả 3 phần này đều tồn tại như một mắt xích có liên quan chặt chẽ với nhau! :)
 
Vâng, tại em hôm qua hết giờ nên không kịp viết tiếp. Bây giờ em mới trả lời rõ về vấn đề này được. Em nghĩ rằng chúng ta nên xem xét đầy đủ và tổng thể một chút thì sẽ rõ hơn về vấn đề này và tìm cách cải thiện nó. Có lẽ tiếp cận như thế hơi khó đọc, nhưng em hi vọng là mọi người có thể bỏ chút thời gian đọc nó.
I.Nghệ thuật ở đây có thể hiểu là "Sự biểu hiện cách nhìn nhận cá nhân của con người về thế giới xung quanh bằng cái đẹp".
Nghệ thuật tồn tại dưới dạng những đơn vị hữu hạn và là một chỉnh thể trọn vẹn gọi là Tác phẩm nghệ thuật. [gọi tắt là Tác phẩm]
Rõ ràng, yếu tố cấu thành nên một tác phẩm nghệ thuật bao gồm:
1. Hình tượng nghệ thuật: đây là biểu hiện của cái đẹp ở tác phẩm nghệ thuật. Nó giữ vai trò Hình thức của tác phẩm. Những yếu tố cấu thành nên hình tượng nghệ thuật có thể chia làm 2 nhóm:
-Nhóm chi tiết: tình tiết, nhân vật [truyện], từ ngữ [thơ], chủ đề, câu nhạc hay môtip [âm nhạc], đường nét, màu sắc [hội họa],...
-Nhóm cấu trúc tổng thể: cốt truyện [truyện], qui cách, vần luật, mạch thơ [thơ], thể thức, cấu trúc âm nhạc [âm nhạc], mảng, bố cục [hội họa],...
Chúng ta thấy rõ, như học trong văn các thầy giảng nhiều, có tác phẩm đẹp trong những chi tiết, có tác phẩm đẹp trong sự hài hòa của bố cục tổng thể. Một tác phẩm lớn hầu như cả hai nhóm này đều phải xuất sắc ở một mức độ nào đó, có thể nhóm nào trội hơn, dễ thấy hơn thôi.
2.Tư tưởng: đây là biểu hiện của cách nhìn nhận cá nhân tác giả. Nó đóng vai trò nội dung của tác phẩm. Nó bao gồm:
-Tình cảm của tác giả
-Cách hiểu, quan niệm, lập trường của tác giả về cuộc sống
-Mong muốn cá nhân và niềm tin của tác giả
Có một điều cần chú ý rằng không phải tác phẩm nào cũng phải có đủ cả các yếu tố trên, thậm chí nhiều tác phẩm hầu như không biểu hiện gì để có thể thấy được. Những yếu tố này chỉ có thể khám phá thông qua hệ thống tác phẩm và nghiên cứu sự nghiệp sáng tác. Tư tưởng của tác giả dựa trên một lập trường nào đó, và thường ổn định trong từng thời kì sáng tác.
Tư tưởng và hình tượng nghệ thuật phải phù hợp với nhau một cách tương đối. Nếu không tác phẩm rất dễ "bị vỡ". Những tác phẩm lớn bao giờ cũng phải có sự hài hòa giữa tư tưởng của tác phẩm và hình tượng nghệ thuật [tư tưởng lớn đòi hỏi hình tượng nghệ thuật cũng phải sáng tạo và kiệt xuất ở mức độ tương ứng].
Nếu sự phù hợp đó tốt, sự thay đổi về tư tưởng thường đòi hỏi sự thay đổi về hình tượng nghệ thuật một cách tương ứng. Bước chuyển đó đánh dấu sự thay đổi trong thời kì sáng tác của tác giả.
Biểu hiện của sự đề cao một cách thái quá một trong 2 yếu tố trên chính là hai quan niệm "Nghệ thuật vị nghệ thuật" [đề cao việc tìm kiếm cái đẹp] và "Nghệ thuật vị nhân sinh" [đề cao tư tưởng, mà chính xác hơn là đề cao biểu hiện quan niệm về con người]. Quan niệm thứ nhất sẽ tạo ra những tác phẩm đẹp [ở một mức độ nào đó] nhưng nông cạn và hời hợt, nhưng trường phái thứ hai có thể rất dễ rơi vào "lực bất tòng tâm", thể hiện tư tưởng một cách quá lộ liễu hoặc biểu tượng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
II.Hoạt động nghệ thuật: Xét trong phạm vi xã hội, nghệ thuật cũng là một trong những dạng hoạt động của xã hội, một hình thức biểu hiện của quan hệ giữa người với người. Nó thuộc phạm trù ý thức xã hội. Tính xã hội của nghệ thuật biểu hiện thông qua những hoạt động xã hội đặc trưng gọi là Hoạt động nghệ thuật. Các loại hoạt động nghệ thuật bao gồm:
1.Hoạt động nghệ thuật cơ sở: Là hoạt động nghệ thuật mang tính chuyên sâu nhất, và ở vị trí đầu tiên. Nó bao gồm:
-Sáng tác
-Biểu diễn [đối với những ngành nghệ thuật như: Âm nhạc, Kịch, Điện ảnh, Múa ballet]
-Phê bình
2.Hoạt động trưng bày/đưa tác phẩm tới công chúng bao gồm: Triển lãm, Trưng bày, Buổi trình chiếu, Concert. Ở hoạt động này có sự tiếp xúc trực tiếp giữa công chúng và tác phẩm.
3.Hoạt động tiếp cận của công chúng đến nghệ thuật bao gồm: Phổ biến, Tìm hiểu, Tham dự, Phản hồi - phản ứng trước tác phẩm. Hoạt động này diễn ra trước và sau hoạt động ở nhóm trên. Phương tiện của chúng là các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Hoạt động bổ trợ về kĩ thuật: phục vụ cho việc sáng tác, biểu diễn, trưng bày tác phẩm. Nó bao gồm: đạo cụ, trang phục, âm thanh [các nghệ thuật sân khấu], ánh sáng [các nghệ thuật sân khấu, kiến trúc và cho các triển lãm], nhạc cụ và các thiết bị âm thanh [âm nhạc], các phương tiện sáng tác đối với hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh...
5. Hoạt động Tổ chức và quản lí: nhằm vận hành và phối hợp các hoạt động nghệ thuật, bao gồm: Tổ chức các hoạt động nghệ thuật, quản lí nhân sự, bản quyền.
6. Hoạt động Kinh tế liên quan đến nghệ thuật: Nó đóng vai trò cung cấp "năng lượng" cho tất cả các hoạt động nghệ thuật. Bao gồm: kinh doanh tác phẩm [hội họa, điêu khắc, kiến trúc, nhiếp ảnh], xuất bản và sao in tác phẩm, kinh doanh trong hoạt động biểu diễn tác phẩm như bán vé, trả công cho người biểu diễn [âm nhạc, văn học, các nghệ thuật sân khấu]
7. Hoạt động Sư phạm và đào tạo
8. Hoạt động Nghiên cứu nghệ thuật bao gồm: Lịch sử nghệ thuật, Ngôn ngữ nghệ thuật [và một số ngành khác gọi chung là Lí luận nghệ thuật], Mĩ học...
Hai hoạt động trên nhằm mục đích duy trì sự tồn tại, sự liên tục và sự phát triển của nghệ thuật. Chúng cũng có tính chuyên sâu cao.
9. Hoạt động Ứng dụng nghệ thuật: nhằm mở rộng phạm vi nghệ thuật vào cuộc sống, vào các lĩnh vực khác.Trên thực tế chúng có thể phát triển thành một ngành tương đối đầy đủ và độc lập với nghệ thuật thuần túy.
Đi sâu vào trong nội tại những hoạt động nghệ thuật này, có thể thấy mỗi loại hoạt động nghệ thuật có một vai trò khác nhau, nhưng tất cả đều xoay quanh, hướng vào tác phẩm nghệ thuật, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhau. Chính vì vậy chúng ta sẽ xem xét các mối quan hệ này.
III. Các yếu tố cơ bản cấu thành hoạt động nghệ thuật: Đây cũng là các khâu cơ bản trong quá trình hình thành và tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Nó gồm có 3 khâu. Chúng ta sẽ thấy từ đó sinh ra các loại hoạt động nghệ thuật như thế nào.
1. Tạo ra tác phẩm nghệ thuật:
-Sáng tác: các hoạt động cần thiết trước đó là: Sư phạm, Nghiên cứu [người sáng tác cần phải được đào tạo] và Kinh tế [cần phải được trả lương] [có thể ai đó nói còn cần những thứ khác nữa, tất nhiên, nhưng những thứ đó nằm trong nội tại công việc sáng tác]
-Bổ trợ về kĩ thuật [phải có phương tiện để sáng tác]. Cái này phụ thuộc vào hoạt động Kinh tế.
2. Đưa tác phẩm tới công chúng:
-Biểu diễn: cần thiết trước đó: Sư phạm, Nghiên cứu [người biểu diễn cũng cần được đào tạo], Bổ trợ về kĩ thuật [phương tiện biểu diễn] và đằng sau là Kinh tế.
-Tổ chức quản lí: cái này cũng cần có hoạt động Kinh tế trước đó.
3. Phản hồi về tác phẩm từ công chúng:
-Phê bình: trước đó là: Sư phạm, Nghiên cứu [nhà phê bình cũng cần phải đào tạo], Kinh tế [được trả công]
-Phản hồi của công chúng: đòi hỏi trước đó là: Tìm hiểu, Tham dự[từ phía công chúng], Trưng bày [từ phía những người hoạt động nghệ thuật] và đằng sau là Giáo dục xã hội, Kinh tế xã hội [chứ không phải Sư phạm và Kinh tế trong các hoạt động nghệ thuật]
[Mọi người có thể bỏ qua đoạn này]Ba bước trên tiến hành theo trình tự thời gian. Nhưng chúng luôn gắn liền với nhau, và phải được thực hiện cả 3 mỗi tác phẩm. Cơ sở liên hệ của các hoạt động bên trong chúng là liên hệ logic. Thực tế luôn luôn là trình tự xuất hiện sẽ ngược với trình tự logic. Dần dần khi sự xuất hiện các thành phần ngày càng đầy đủ thì những liên hệ lịch sử và liên hệ cấu trúc sẽ tạo ra những mối liên hệ giữa chúng với nhau theo những chiều ngược lại, từ đó thúc đẩy nhau tiếp tục phát triển. Đây sẽ là cơ sở để tìm cách phát triển cho nghệ thuật Việt Nam.
IV. Các đối tượng tham dự vào nghệ thuật:
Đó là bất kì cá nhân nào tham gia vào một trong những hoạt động nghệ thuật. Tuy vậy chúng ta sẽ chỉ xem xét trước hết những cá nhân tham gia vào nội dung của tác phẩm nghệ thuật - đó cũng là những đối tượng tham gia cơ bản. [chú ý cơ bản không có nghĩa tất cả]
1. Nghệ sĩ sáng tác: Là người tạo ra tác phẩm. Công việc của nghệ sĩ sáng tác có đặc thù là tạo ra toàn bộ nội dung và hình thức của tác phẩm một mình, có thể có sự trợ giúp về công cụ và phương tiện. Để thực hiện được điều đó, người sáng tác phải có kĩ thuật sáng tác, có đề tài và có vốn sống. Yếu tố thứ nhất được đem lại từ năng khiếu, sư phạm, nghiên cứu; thứ hai từ cuộc sống hiện tại, từ lịch sử phát triển của nội tại nghệ thuật cũng như cuộc sống; và thứ ba từ kinh nghiệm sống, tính cách cá nhân và hệ tư tưởng.
2. Nghệ sĩ biểu diễn: Là người thể hiện toàn bộ tác phẩm cùng những tư tưởng của nghệ sĩ sáng tác trong mỗi tác phẩm. Để thực hiện được điều này, người biểu diễn cần phải có kĩ thuật biểu diễn, có vốn hiểu biết và vốn văn hóa. Yếu tố thứ nhất được đem lại từ năng khiếu, sư phạm; thứ hai từ nghiên cứu và sư phạm; thứ ba từ tính cách cá nhân và giáo dục. Khái niệm này tồn tại trong các nghệ thuật biểu diễn như âm nhạc, điện ảnh, các loại hình sân khấu.
3. Công chúng: Là người tiếp nhận toàn bộ tác phẩm và tiếp đó tìm hiểu nội dung ý nghĩa của tác phẩm. Để thực hiện điều này đòi hỏi cần có nhu cầu tìm kiếm cái đẹp, có điều kiện tiếp xúc và có vốn văn hóa. Yếu tố thứ nhất tự vốn có, do tâm lí chung và do giáo dục; thứ hai từ điều kiện kinh tế và sự mở cửa của các hoạt động nghệ thuật; thứ ba từ giáo dục, hệ tư tưởng và quan niệm xã hội.
[Mọi người có thể bỏ qua đoạn này] Sự giao tiếp giữa các đối tượng này chính là các khâu trong quá trình tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Từ nhóm 1 đến 2 hoặc 3 [tùy theo có nhóm 2 hoặc không có nhóm 2] là khâu thứ nhất, từ nhóm 2 đến nhóm 3 là khâu thứ hai, từ nhóm 3 trở lại nhóm 1, 2 và chính nhóm 3 là khâu thứ ba. Sau những lần đầu tiên các khâu khép kín, quá trình lại tiếp tục [nhạc sĩ chỉnh sửa tác phẩm], tác phẩm được tiếp tục biểu diễn hoặc trưng bày, công chúng tiếp tục tiếp nhận và phản hồi. Chính vì thế giá trị của tác phẩm được biểu hiện trên hình thức là sự kéo dài [thường là không kết thúc và nhất là phạm vi mức độ của chu trình tồn tại của nó. Nói một cách nôm na, những tác phẩm lớn được biểu diễn, đón nhận rộng rãi, và tồn tại cùng thời gian, cho dù có thể ban đầu không được đón nhận nhiều.
 
em nghĩ đơn giản hơn, ko đầy đủ các bước như anh Tú
em chỉ thấy có 3 yếu tố đơn giản mà em nhận thấy qua 1 người quen đang hoạt động âm nhạc, cũng đã lâu năm :
- môi trường: thời kì đang chuyển tiếp, ngay cả xã hội vẫn chưa định hình để phát triển ổn định nên các nghệ sĩ vẫn đang phải tìm 1 con đừong đi phù hợp cho nền nghệ thuật Việt Nam. Tuy nhiên bản thân chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy là gần đây, chất lượng biểu diễn nghệ thuật cũng đã đựoc nâng cao, Hà Nội vẫn là trung tâm của các tài năng thực sự ^^, những nghệ sĩ của thị trường đã biến mất dần hoặc là chững lại, ko còn phát triển đựoc hơn nữa, nếu có, cũng là sự kết hợp hoặc phát triển theo 1 phong cách mới, chuyên nghiệp hơn

- công chúng: công chúng Việt Nam đang dần đựoc thay thế bằng lớp trẻ như chúng ta nên về quan điểm cũng khác, các nghệ sĩ đang phải thăm dò công chúng mà sáng tác hoặc là đang phải tìm tòi ra 1 phong cách mới để tạo nên hiêu ứng làn sóng đi đầu cho công chúng

- bản thân nghệ sĩ: em thấy ở nước ngoài nó đào tạo từ nhỏ và có hẳn 1 mô hình phát triển, bản thân các nghệ sĩ đã đựoc đào tạo đầy đủ, thuờng thì phải có thành tích từ khi còn là teenager. Sau khi ra trường thì nghề nghiệp của nó đảm bảo đựoc cuộc sống, thậm chí nghệ sĩ ở 1 số nước phát triển rất đựoc tôn trọng và coi là 1 nghề cao cấp ko giống như ở mình, bụng còn đói, tay còn run thì cầm bút cầm đàn sao nổi??
 
V. Phân chia tất cả những đối tượng có thể được gọi tên cùng chữ "nghệ thuật"Ở đây chúng ta sẽ dùng một nghĩa rộng hơn của Nghệ thuật so với định nghĩa ban đầu. Nghệ thuật theo nghĩa rộng được hiểu là "Sự thực hiện một mục đích nào đó bằng/với cái đẹp". [cách hiểu mới về "nghệ thuật vị nghệ thuật"] Lúc này cái cơ bản để nhận biết nghệ thuật chỉ còn là cái đẹp, và vì thế nó rất rộng, có thể lan sang rất nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống. Nhưng trước hết chúng ta vẫn sẽ nêu phạm vi theo nghĩa cũ. Đó cũng là nghệ thuật [theo nghĩa rộng] xuất hiện đầu tiên.
1. Nghệ thuật kinh điển/hàn lâm [Academic]
Như đã nói đối tượng này xuất hiện đầu tiên, hay nói chính xác hơn, cái nghệ thuật [theo nghĩa rộng] xuất hiện đầu tiên [nghệ thuật tối cổ:sự cảm nhận cái đẹp] là tiền thân của những nghệ thuật này. Những nghệ thuật khác xuất hiện do sự thâm nhập hoặc kết hợp của cái nghệ thuật tối cổ đó với các lĩnh vực khác của cuộc sống sau này theo thời gian. Những lĩnh vực đó có thể hầu như là tất cả các lĩnh vực cơ bản khác của cuộc sống như khoa học, kĩ thuật, quân sự, chính trị, kinh tế, đời sống thường ngày v.v.... và như sẽ thấy đây chính là cách hình thành các loại nghệ thuật [theo nghĩa rộng] khác.
Chính vì vậy, có thể gọi Nghệ thuật này [hay nghệ thuật theo nghĩa cũ] là nghệ thuật thuần túy. Nó là sự phát triển và thích nghi của nghệ thuật tối cổ trong những thời kì lịch sử cận đại mà không thêm vào các yếu tố khác trong nội dung cơ bản của nó. Thứ nghệ thuật này cũng là thứ nghệ thuật đạt được những thành tựu cao nhất [theo tiêu chí của ý nghĩa cơ sở: cái đẹp; và vì thế không phải nó cao hơn nếu xét tổng thể so với các nghệ thuật[theo nghĩa rộng] khác]. Qua thời gian nó đã chứng minh rằng cái đẹp đạt được ở mức cao nhất khi nó gắn liền với bản chất con người [trở lại định nghĩa hẹp: Nghệ thuật là sự biểu hiện cách nhìn nhận cá nhân của con người bằng cái đẹp]. Vì thế có thể coi đây là cách hiểu mới về "nghệ thuật vị nhân sinh".
Xem xét quá trình phát triển của Nghệ thuật hàn lâm kinh điển chúng ta thấy không phải chúng có đầy đủ các đặc điểm ngay. Quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hàn lâm ban đầu vẫn là những sự thử nghiệm kết hợp nghệ thuật tối cổ với các mặt khác nhau của cuộc sống: Với việc giải trí, với việc sản xuất, với tôn giáo, hay với chính trị. Quá trình thử nghiệm đó để đến cái đẹp cao nhất kết thúc khi nghệ thuật tối cổ kết hợp với tư tưởng của con người. Tiếp đó, sự phát triển của nghệ thuật hàn lâm là dựa vào nội tại của nó, và vẫn tiếp tục được tiếp sức từ các nghệ thuật không thuần túy khác. Chính vì nó vẫn giữ liên hệ với các nghệ thuật đó mà theo lịch sử danh sách các nghệ thuật hàn lâm được thêm vào. Những nghệ thuật hàn lâm mới xuất phát từ các nghệ thuật [theo nghĩa rộng] khác, chúng được xếp vào nghệ thuật hàn lâm khi mà chúng thỏa mãn đặc điểm "biểu hiện cách nhìn nhận cá nhân của con người". Lúc đó chúng cũng thoát khỏi mục đích ban đầu của nghệ thuật nguồn gốc của chúng. Một điều khác nữa do sự liên hệ giữa các nghệ thuật [theo nghĩa rộng] mà mỗi trong số chúng đều có những dấu ấn của nhau, và nghệ thuật hàn lâm cũng không khác, nó vẫn thừa hưởng những cái tinh hoa của những nghệ thuật khác.
Nghệ thuật hàn lâm có thể coi là bắt đầu xuất hiện từ thế kỉ XV, XVI, thời kì Phục hưng [nhớ lại đặc điểm tư tưởng của thời kì này là đề cao con người, vì thế nghệ thuật từ thời kì này mới bắt đầu được gọi là nghệ thuật hàn lâm]. Những nghệ thuật hàn lâm đầu tiên gồm có Kịch, Thơ ca, Nhạc cổ điển, Hội họa, Điêu khắc, Kiến trúc. Trong số này, Kịch và Thơ ca bắt nguồn chủ yếu từ nghệ thuật (trong) dân gian và nghệ thuật (trong) chính trị; Âm nhạc từ nghệ thuật (trong) tôn giáo, nghệ thuật (trong) dân gian, Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc bắt nguồn từ nghệ thuật (trong) sản xuất, nghệ thuật (trong) tôn giáo. Tiếp đó thế kỉ XVI-XVII là Văn xuôi từ nghệ thuật (trong) chính trị và nghệ thuật (trong) dân gian; Múa ballet từ nghệ thuật (trong) dân gian và nghệ thuật (trong) giải trí của tầng lớp quí tộc. Đầu thế kỉ XX chứng kiến sự tham gia của Nhiếp ảnh và Điện ảnh từ nghệ thuật (trong) giải trí và nghệ thuật (trong) cuộc sống, và nhờ sự tiến bộ của kĩ thuật. Cuối thế kỉ XX chứng kiến sự tham gia của nghệ thuật hàn lâm trẻ nhất là Nghệ thuật sắp đặt xuất phát từ nghệ thuật ứng dụng. Sự phát triển tiếp theo của các nghệ thuật hàn lâm sau khi chúng ra đời bên cạnh sự tiếp nhận những nguồn nghệ thuật [nghĩa rộng] khác, bên cạnh sự phát triển nội tại trong chúng còn là sự tương tác với nhau trong các ngành nghệ thuât hàn lâm. Trên thực chất đó là sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật cùng với sự xuất hiện và kết hợp với những tư tưởng khác nhau theo thời đại từ các nguồn khác nhau. Đó chính là cơ sở để phân chia thời kì, trường phái trong các nghệ thuật hàn lâm này. Các nghệ thuật hàn lâm cũng tương tác với nhau để tạo ra những dạng trung gian kết hợp một hay vài loại hình như: các dạng nghệ thuật sân khấu chẳng hạn Kịch, Nhạc kịch, Vũ kịch, Điện ảnh và đặc biệt hiện nay Nghệ thuật sắp đặt với sự tự do và cơ động của nó đã thâm nhập vào rất nhiều nghệ thuật hàn lâm khác.

Phân chia các loại hình nghệ thuật hàn lâm có thể thực hiên trên nhiều tiêu chí khác nhau:
a. Về chất liệu
-Ngôn ngữ: Văn xuôi, Thơ ca, Kịch
-Âm thanh: Nhạc cổ điển, Nghệ thuật sắp đặt âm thanh
-Hình ảnh, màu sắc: Hội họa, Nhiếp ảnh.
-Hình khối: Điêu khắc, Kiến trúc.
-Sự kiện: Các loại hình Sân khấu
-Vật thể, hay những chi tiết bất kì trong cuộc sống gợi cảm giác hoặc cảm xúc: Nghệ thuật sắp đặt.
b. Về cách tiếp nhận
-Theo thời gian: Văn xuôi, Kịch cũng như các loại hình sân khấu, Nhạc cổ điển, Điện ảnh, Nghệ thuật sắp đặt âm thanh.
-Theo không gian: Hội họa, Điêu khắc, Kiến trúc, Nhiếp ảnh, Nghệ thuật sắp đặt.
-Thơ ca có thể coi thuộc cả hai, hay thuộc một trong hai hoặc không thuộc cái nào cả vì một lần tiếp nhận tác phẩm không dài, nhưng cũng không tiếp nhận một cách rõ ràng bằng sự chuyển động trong không gian.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
2. Nghệ thuật dân gian [Folklore]
Trong các loại hình nghệ thuật ngoài hàn lâm thì đây là loại hình nghệ thuật gần với hàn lâm nhất theo nội dung của nó ["sự biểu hiện cuộc sống đời thường và tình cảm của số đông người dân bằng cái đẹp - chính xác hơn với những chất liệu ban đầu của nghệ thuật]. Vì thế nó cũng có các ngành gần giống như nghệ thuật hàn lâm, sự phát triển cũng có nhiều nguyên nhân động lực và biểu hiện như Nghệ thuật hàn lâm:
-Âm nhạc dân gian
-Văn học dân gian
-Hội họa, điêu khắc, kiến trúc dân gian
-Múa dân gian
-Các loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian
Ở đây cũng có sự đan xen ảnh hưởng của các ngành lên lẫn nhau, ảnh hưởng của hệ tư tưởng thời đại, của biến động chính trị, kinh tế, sản xuất... những ảnh hưởng đó thể hiện rõ ràng, hiển hiện và chất phác trên tác phẩm.
Do đặc điểm của nghệ thuật dân gian, chúng rất phong phú, tương ứng với từng vùng, đất nước và khu vực. Đồng thời điều kiện ra đời của tác phẩm cũng hạn chế phạm vi tiếp nhận của nó, cũng hạn chế sự phát triển độc lập của bất kì ngành nào trong số các ngành nghệ thuật dân gian thành một ngành nghệ thuật độc lập. Thời kì hiện nay, các loại hình nghệ thuật dân gian đang tồn tại trong trạng thái duy trì. Phát triển nghệ thuật dân gian thành một nghệ thuật dân gian mới thì cần phải tạo cho nó những đặc điểm đủ để nó đứng độc lập, và tự phát triển được.
3. Nghệ thuật ứng dụng [Applied Art]
Loại hình này thì lại đi từ nghệ thuật hàn lâm trở lại với cuộc sống và các lĩnh vực trong nó, vì vậy có thể định nghĩa nó là "Sự ứng dụng những chất liệu cổ điển của cái đẹp nhằm phục vụ những lĩnh vực không phải vốn sử dụng chất liệu đó". Nghệ thuật này có thể được ứng dụng trong sản xuất, xây dựng, chính trị, xã hội và cuộc sống thường ngày. Kể cả trong số đó là ứng dụng của nghệ thuật vào một nghệ thuật khác - thường là các hình thức sân khấu. Vì xuất phát của loại nghệ thuật này và mục đích của nó, nó vẫn có một số tiêu chí đánh giá từ Nghệ thuật hàn lâm [đánh giá về cái đẹp] và những tiêu chí khác dựa vào mục đích của nó [đánh giá về hiệu quả, tác dụng]. Có thể kể 3 nhóm
a. Nghệ thuật ứng dụng trong nghệ thuật, kĩ thuật
-Mĩ thuật ứng dụng: Có thể kể đến Mĩ thuật công nghiệp; Quảng cáo; Thiết kế sân khấu, trang phục cho các loại hình sân khấu;Tranh minh họa cho báo chí, xuất bản
-Âm thanh, Nhạc nền cho các loại hình sân khấu.
b. Nghệ thuật phục vụ chính trị và xã hội: Có thể kể đến các loại hình Nghệ thuật cổ động như Tranh cổ động, Thiết kế biểu tượng, Bài hát cổ động, Thơ cổ động, Múa cổ động; đặc biệt là Tranh châm biếm, Truyện cười.
c. Nghệ thuật phục vụ nhu cầu đời sống: Ở đây là các ngành Thiết kế và Trang trí như Tạo mẫu thời trang, Tạo mẫu tóc, Thiết kế nội thất,....
Trong các loại hình nghệ thuật Ứng dụng thì rõ ràng Nghệ thuật ứng dụng trong nghệ thuật mang tính chất gần với nghệ thuật hàn lâm nhất. Trên thực tế, Nghệ thuật sắp đặt sinh ra từ nghệ thuật ứng dụng này.
4. Tiền nghệ thuật [Pre-art]
Xuất phát từ giải trí hoặc từ cuộc sống, những ngành nghệ thuật này "sử dụng chất liệu mới hoặc kết hợp các chất liệu cổ điển theo cách mới, nhưng chỉ dừng lại ở việc kết hợp các chất liệu thành tác phẩm". Những ngành nghệ thuật này do lí do kĩ thuật hoặc khả năng thể hiện, hoặc do mới nên chưa có đủ khả năng biểu hiện những suy nghĩ cảm xúc của con người, nên hiện tại chỉ tạm dừng lại ở những trò diễn, hay những thủ thuật. Có thể kể đến như:
-Kịch câm
-Xiếc
-Trượt băng nghệ thuật
-Ẩm thực: văn hóa ăn, văn hóa uống [trà chẳng hạn]
-Truyện tranh
-Những thủ thuật khéo tay hay làm: Origami, cắm hoa chẳng hạn.

Những ngành này nếu thoát khỏi được khó khăn của kĩ thuật hoặc mục đích phục vụ của chúng thì có khả năng phát triển độc lập nhiều hơn nữa. Mặc dù vậy cũng không nhất thiết phải đi theo con đường đấy, chúng cũng có thể giữ nguyên vị trí và vai trò của mình như hiện tại sẽ tốt hơn.
5. Nghệ thuật phục vụ giải trí [Entertainment]
Có thể hiểu rõ trên tên đây là loại hình nghệ thuật gì, nhưng cũng có điểm cần có là chúng sử dụng những chất liệu cổ điển để tạo ra những sản phẩm mục đích để giải trí. Thường chúng cũng mang tính chất thương mại:
-Các dòng nhạc thương mại
-Nhảy các loại + Khiêu vũ
-Phim ảnh thương mại
v.v...
6.Những thứ có thể gọi là nghệ thuật nhưng nên gọi bằng tên khác hơn:
Đây là những hoạt động thuộc những lĩnh vực khác của cuộc sống như khoa học, kĩ thuật, thương nghiệp, chính trị,.... có một vài tính chất đặc điểm của nghệ thuật, thường là mang dấu ấn cá nhân và mang tính ấn tượng. Chúng gọi theo tên chính lĩnh vực của chúng sẽ hợp lí hơn, vì chúng cũng chỉ giới hạn trong phạm vi lĩnh vực ấy mà thôi. Chẳng hạn:
-Nghệ thuật làm toán, nghệ thuật lập trình
-Nghệ thuật sáng tạo công nghệ
-Thuật hùng biện
-Nghệ thuật làm giàu, nghệ thuật chiếm lĩnh thị trường
-Nghệ thuật võ [Martial Art]
7. Những thứ vì một lúc cao hứng nào đó gọi là nghệ thuật: Chúng không đáng gọi là nghệ thuật và cũng không đáng đề cập. Chẳng hạn nghệ thuật tán gái, nghệ thuật chiếm lĩnh cảm tình,...
 
Hic,sau khi thử đọc một bài viết,em rút ra kết luận là không nên đọc tất cả từ đầu làm gì,đơn giản vì đọc toàn bộ chỗ này cùng lúc là điều không thể.Nguy cơ chập não sẽ rất cao :((
Em chỉ nêu ý kiến của riêng em,thông thường những thành tựu đáng kể về nghệ thuật không phải lúc nào cũng được công nhận ngay lập tức.Biết đâu những tác phẩm trong thời đại ta đang sống bị coi thường,rẻ rúng mà sau vài trăm năm nữa lại được thế giới công nhận?Đơn cử năm nay là năm kỉ niệm 200 năm ngày mất của nhà văn Đan Mạch H.C.Anderxen,chính ông trong khi còn sống bị cả đất nước Đan Mạch coi thường đó thôi.Từ những năm 45 tới giờ còn chưa qua hết một đời người,nếu xuất hiện một thành tựu đáng kể nào đó cũng khó lắm thay.
Thêm nữa,khi đọc qua vài bài,em thấy ý kiến hệ thống giáo dục của Việt Nam mình còn lạc hậu,nhiều khi bóp chết những tài năng là chuyện có thật.Bức xúc đấy,nhưng chẳng thể làm gì.
 
VI. Những nguồn gốc của nghệ thuật Việt Nam
[Nghệ thuật ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp]
Sự phát triển của nghệ thuật thường mang tính kế tiếp, nó thừa hưởng rất nhiều từ những thời kì đi trước [thậm chí trước nữa]. Những cái thừa hưởng đó có cả những mặt tốt và những mặt xấu, và tùy theo điều kiện thì cái nào chiếm ưu thế hơn. Vì thế để xem xét nghệ thuật Việt Nam trong thời kì mới [từ khoảng cuối những năm 80 đến nay] chúng ta sẽ điểm qua những tiền thân của nó.
1.Nghệ thuật dân gian Việt Nam
Đây có thể coi như là nguồn gốc sâu xa nhất và lâu dài nhất đối với nghệ thuật Việt Nam trong nhiều thời kì tiếp sau. Đây là nơi bộc lộ ra những cái cội rễ nhất trong con người Việt Nam, mà cụ thể hơn là về quan niệm, về cách tư duy, về niềm tin và tình cảm. Có thể nói những thời kì sau này phát triển được lên đỉnh cao chỉ khi chúng những nguyên tắc sáng tác, những thể thức của nghệ thuật thích nghi được với những đặc điểm đó của con người Việt Nam.
Nếu xét về thể loại, nghệ thuật dân gian Việt Nam cũng có nhiều ngành chủ yếu, trong đó phong phú về thể loại và hình thức. Những ngành phát triển mạnh nhất là văn học, sân khấu và âm nhạc. Có đặc điểm khá quan trọng khác là giữa các ngành có sự đan xen khá lớn, vai trò ảnh hưởng chủ đạo của văn học và qui mô tác phẩm thường nhỏ [có những ngoại lệ ở nghệ thuật của các dân tộc thiểu số]. Đặc điểm thứ ba hầu như phổ biến chung cho các phạm vi và thời kì nghệ thuật tiếp theo [qui mô tác phẩm thường bé]. Nguồn gốc của những đặc điểm này nằm trong đặc điểm của con người Việt Nam như sẽ nói sau đây.
Trước hết về mặt tình cảm và niềm tin, thì con người Việt Nam có hai tình cảm chủ đạo là lòng nhân hậu và lòng tự hào. Biểu hiện ở nghệ thuật đó chính là hai tình cảm chung của nghệ thuật Việt Nam là tình cảm nhân đạo và tình cảm yêu nước. Tuy vậy lòng tự hào ở đây rộng hơn, đôi khi không phải là tự hào dân tộc, mà là tự hào cá nhân, tự hào tập thể. Thái cực này có thể dẫn tới tự ti, tự ái... Vì thế nó cũng có một phần nhược điểm của nó và cũng có thể hiện một phần ở trong nghệ thuật. Tuy vậy những thứ tiêu cực này thường bị đào thải chỉ còn lại những mặt tốt của lòng tự hào như lòng yêu nước, yêu quê hương, con người [thể hiện đặc biệt rõ ở văn học]. Vì thế tình cảm và niềm tin vẫn là mặt ưu điểm của tư tưởng nghệ thuật Việt Nam.
Tuy vậy có một mặt rất quan trọng đối với tư tưởng nghệ thuật nữa là cách tư duy về thế giới của con người. Ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến những phần của phạm vi rất rộng này, mà chúng liên quan mật thiết đến nghệ thuật mà thôi. Nếu chúng ta so sánh những tác phẩm của Việt Nam với những tác phẩm của những nền nghệ thuật lớn xung quanh như Trung Quốc, Ấn Độ hay xa hơn nữa nghệ thuật Châu âu chúng ta có thể thấy chí ít là hai tính chất rất đặc trưng đó là qui mô thường nhỏ, và hầu như rất mang tính diễn giải và ít trừu tượng hơn. Điều này thể hiện chính cách tư duy về sự vật và đối tượng của con người chúng ta. Có thể nói, qui mô tác phẩm nhỏ là hệ quả của sự thiếu hụt khả năng tư duy tổng thể và tư duy cấu trúc, còn tính ít trừu tượng là hệ quả của cách tư duy trên biểu hiện dễ thấy của sự vật. "Nói nôm na..." hay "chẳng qua là..." là những biểu hiện dễ thấy khi tiếp cận vấn đề hay tìm hiểu đối tượng [nói lại một cách nôm na câu trước :D ]. Hiểu hay quan niệm trên biểu hiện dễ thấy chưa thực sự có vấn đề, mà tư duy và tác động lên sự vật trên những biểu hiện đó mới là những hạn chế chủ yếu. Hệ quả là văn học phát triển mạnh nhất và ảnh hưởng đến những ngành khác, bởi chất liệu của nó là ngôn ngữ tự nhiên và cơ bản của con người [chẳng nhẽ nói còn không hiểu]. Tuy vậy những nhà văn hóa lớn của Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh và cả nhiều những tên tuổi lớn khác của nghệ thuật Việt Nam và đặc biệt là dân gian, cho dù những tác phẩm của họ vẫn mang tính chất dễ hiểu đó, nhưng đằng sau bao giờ cũng có rất nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu xa. Cái dễ hiểu ở những tác phẩm đó, chỉ là những cái dễ hiểu về hình thức, về ngôn ngữ nghệ thuật, song về ý nghĩa nội dung không hề dễ hiểu chút nào. Rất nhiều tác giả, tác phẩm yếu là do bị rơi vào dễ hiểu về nội dung ý nghĩa ["văn kị lộ mạch" là thế]. Có thể nói tóm lại, cách tư duy về sự vật và thế giới đã hạn chế rất nhiều khả năng và tầm cỡ, vị trí của nghệ thuật Việt Nam.
Còn một mặt nữa, đó là hệ tư tưởng. Đây chính là đặc điểm quan trọng để phân biệt các thời kì nghệ thuật của Việt Nam, cũng là đặc điểm đặc trưng cho mỗi nền nghệ thuật. Vì thế, hệ tư tưởng không chỉ có một, mỗi nền nghệ thuật dựa trên một hệ tư tưởng của riêng nó, từ đó phát triển lên đỉnh cao. Không thể lấy đánh giá hệ tư tưởng để quyết định đánh giá nền nghệ thuật, chính xác hơn, hệ tư tưởng không quyết định ưu hay nhược điểm của của nền nghệ thuật. Đánh giá sự phát triển nền nghệ thuật luôn phải dựa vào những thành phần bên trong nó. Chỉ có một điều quan trọng là một nền nghệ thuật bao giờ cũng phải có và cần có một hệ tư tưởng làm cơ sở.
Đối với Nghệ thuật dân gian Việt Nam, hệ tư tưởng chi phối có nền móng từ những quan niệm cổ, tín ngưỡng cổ của người Việt Nam. Tiếp đó tư tưởng Phật giáo đã thâm nhập sâu vào trong tư tưởng Nghệ thuật dân gian và cũng trở thành một thành phần cơ bản. Thời kì phong kiến, ảnh hưởng thêm từ tư tưởng Nho giáo cũng đã thâm nhập, song vai trò không lớn bằng Phật giáo, tuy vậy cũng khá đáng kể. Đó là những nội dung chủ yếu của tư tưởng Nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Đối tượng phản ánh của nghệ thuật dân gian Việt Nam là cuộc sống xung quanh con người Việt Nam, trong quá khứ [so với hiện nay]. Đó là cuộc sống nông nghiệp, và vì thế nó cũng qui định đối tượng phản ánh chủ yếu. Cũng vì thế mà nghệ thuật dân gian bao giờ cũng tự nhiên và thuần hậu hơn cả.
Tuy vậy, sự phát triển của xã hội, của cuộc sống đã đi quá xa so với những thời kì ban đầu của nghệ thuật dân gian, và vì thế hiện nay, đó không còn là nền nghệ thuật chủ đạo nữa [đây cũng phổ biến cho các nền nghệ thuật dân gian khác]. Đối với nó, điều tốt nhất là bảo tồn, gìn giữ. Nếu phát triển cũng cần cẩn trọng, có thể nếu để nó ảnh hưởng quá nhiều từ cuộc sống hiện nay thì nó sẽ không còn giữ được bản thân chính nó nữa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên