Phạm Minh Tuấn
(namhongson)
New Member
Mặc dù đất dụng võ của Ninjitsu(còn gọi là Ninjutsu) là Nhật Bản, nhưng thực ra môn võ này có nguồn gốc sâu sa từ Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Ninjitsu xuất phát từ Tôn tử hay Tôn Võ Tử, người đời Xuân Thu, sinh ở phía đông nũi La Phù, thao lược tinh thông. Ông đã soạn ra một bộ binh pháp gồm 13 thiên: Thuỷ kế, Tác chiến, Mưu công, Quân hình, Binh thế, Hư thiệt, Quân tranh, Cửu biến, Hành quân, Địa hình, Tựu địa, Hoả công, Dụng gián. Bộ sách trình bày những thuật dùng binh, đồng thời cũng là một áng văn chương bình dị, ý tứ dồi dào, nghĩa lý sâu sắc. Tôn tử từng làm thượng tướng quân cho Ngô Hạp Lư, giúp Ngô đánh Sở, sau khi yên việc chiến trường, ông đã trở về điền viên lấy chữ thanh nhàn làm thú. Môn Ninjitsu sử dụng hầu hết thuật binh pháp của Tôn Tử, tập trung nhất là thiên "dụng gián", tức thiên bàn về công tác sử dụng gián điệp trong chiến tranh. Nhưng chiến thuật về gián điệp của Tôn tử đã du nhập vào Nhật bản dướit thời lãnh chúa Shotoku(593-622) qua việc lãnh chúa này lần đầu tiên sử dụng các thuộc hạ của mình mặc thường phục để do thám địch tình phục vụ cho cuộc chiến tranh, từ đó Ninjitsu đã hình thành và phát triển tại Nhật Bản.
Tuy nhiên, mãi đến 500 năm sau, Ninjitsu mới bắt đầu lớn mạnh. Những nhà sư ở núi Yamaloushi đã làm rạng danh Ninjitsu vào thế kỷ thứ 12 qua việc sử dụng những kỹ thuật của môn phái này chống lại sự đàn áp của nhà vua trong những trận chiến đấu cá nhân và đồng đội. Đặc biệt, vào cuối thời vua Heian, khoảng năm 1185, kinh đô Kyoto bị rối tung lên do sự xâm nhập của các nhà sư ở núi Yamalousi sử dụng Ninjitsu trừng trị bọn ác ôn, tham quan ô lại. Cũng vào thời điểm này, nhiều võ đường đã được thành lập để truyền dạy Ninjitsu rộng rãi trong nhân dân. Trong đó, nổi bật nhất là võ đường của -một Ninja khét tiếng đương thời. Đến đời Kamakura, vào năm 1192, Ninjitsu bắt đầu phát triển mạnh và bành trướng rộng rãi suốt 400 năm tiếp theo. Vào thời gian này, có đến 25 võ đường được thiết lập để truyền dạy Ninjitsu, tập trung nhất ở hai tỉnh Iga và Koga. Một trong những thủ lãnh Ninja nổi tiếng của thế kỷ 16 là Sandayu Monochi từng chỉ huy một ngàn Ninja chống lại gần năm vạn quân của tướng Oda Nobunaga. Một thủ lãnh Ninja khác là Hanzo Hatori, sống vào thế kỷ 17, từng đắc lực giúp tướng quân Ieasu Tokugawa chiến thắng vẻ vảng bốn vạn quân phiến loạn ở Shimabara Kyushu vào năm 1637. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của các Ninja, dòng họ tướng quân Ieyasu Tokugawa đã trị vì đất nước của Thái dương thần nữ đến cuối thế kỷ 19. Sang thế kỷ 20, trong Đệ nhị thế chiến, cơ quan mật vụ Nhật bản đã phải cần đến sự hoạt động của các cao thủ Ninjutsu để góp phần chấm dứt cuộc phong toả của quân đội Mỹ do tướng Douglas chỉ huy đang chiếm đóng ở Nhật lúc bấy giờ. Sau thế chiến thứ hai, chính phủ Nhật đã đặt các Ninja ra ngoài vòng pháp luật. Tuy vậy, Ninjitsu vẫn được ngưỡng mộ. Vào tháng 5-1980, để đối phó với bọn khủng bố đánh chiếm sứ quán Iran tại Anh, người ta đã phải nhờ tới một chuyên viên Ninjitsu tổ chức giúp một cuộc tấn công cấp kỳ để giải thoát các con tin. Kết quả là với kỹ thuật đặc thù của Ninjitsu, cuộc tấn công đã hoàn tất chớp nhoáng chỉ trong mấy phút. Với công trạng diệu kỳ này, môn Ninjitsu đã được chấp nhập phục hồi, hầu truyền dạy cho những người đương đại các kỹ thuật huyền bí của môn võ "thần kỳ" này phục vụ cho những mục đíchtốt đẹp của xã hội và nhân loại.
Chương trình huấn luyện:
Chương trình huấn luyện môn Ninjitsu hiện đại bao gồm 8 phần:
1. Đánh bằng tay không.
2. Nhào lộn.
3. Đánh bằng côn gỗ
4. Sử dụng vũ khí lạnh và ném liệng đối thủ.
5. Đánh bằng dây xích và kiếm.
6. Cách tẩu thoát và đột nhập vào những nơi đã đóng kín.
7. Nghệ thuật nguỵ trang.
8. Chiến lược tác chiến.
Toàn bộ chương trình huấn luyện của Ninjitsu hiện đại phát triển theo ba cấp độ:
Cấp độ thứ nhất:
Người tập nắm vững được các phương pháp giao đấu sơ đẳng bằng tay không. Những nhóm cơ bắp và các dây chằng trong cơ thể được phát triển nhằm tạo cho nguời tập sự mềm deỏ, linh hoạt cao, nhào lộn giỏi. Sự tập luyện trong giai đoạn đầu rất gay go: người tập phải rơi xuống những sàn cứng, bò trườn một khoảng cách rất xa, cũng như phải tập vượt qua 300 km với nhiều chướng ngại vật trong một ngày. Người tập cũng học cách chuyển dịch không gây tiếng động và thoát khỏi cuộc phục kích của địch.
Cấp độ thứ hai:
Học tập và phân biệt năm trạng thái tâm lý của đối phương: thói hám danh, tính nhút nhát, sự nóng nảy, thói lười biếng, nhu nhược, cũng như nắm bắt được năm dục vọng của kẻ thù: đói, động dục, tự mãn, tham lam, tự kiêu. Với những bản lĩnh tâm lý này, môn đồ Ninjitsu bắt đầu trở thành những Ninja: vừa thành thạo các kỹ thuật song hành với việc hiểu biết tâm lý, đó là yếu tố của sự chiến thắng.
Cấp độ thứ ba:
Ninjitsu truyền dạy cho môn đồ tinh thần kiên tâm tối thượng, thông hiểu chín mức độ định thần bí mật của môn phái. Mỗi mức độ tương ứng với sự đan chéo những ngón tay một cách kỳ bí và một âm thanh đặc biệt cho phép họ kết hợp nghị lực tinh thần của con người với trí tuệ vạn năng của thiên nhiên.
Thực tế và huyền thoại:
Nhiều người nói rằng chương trình huấn luyện của Ninjitsu hiện đại rất sơ lược so với chương trình huấn luyện truyền thống. Họ đã viện dẫn những khả năng gần như huyền thoại của các Ninja để khẳng định thêm phán đoán trên. Chẳng hạn như các Ninja có thể chết vài giờ và sống lại sau đó, có thể đi trên tường, trên mặt nước, có thể tàng hình ...!
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu võ học thì Ninjitsu truyền thống và Ninjitsu hiện đại không cách xa nhau lắm. Chương trình huấn luyện Ninjitsu truyền thống cũng bao gồm việc rèn luyện cho các Ninja khả năng sử dụng thông thạo các môn võ, các loại vũ khí(bao gồm cả ám khí, hơi độc, hoả khí ...)các phương pháp di chuyển, đột nhập và đào thoát trong mọi điều kiện, cũng như cách nguỵ trang, ẩn thân, thậm chí giả chết ... nhằm mục đích tối thượng là hoàn thành tốt đẹp sứ mạng đã nhận lãnh. Tuy nhiên do quá bất ngờ trong sự chạm trán với các Ninja, người ta không lý giải được các hành tung đặc dị của những sát thủ vô hình này, nên đã gán vào đấy một bức màn sương mù huyền thoại. Thật ra, tất cả đều do quá trình khổ luyện môn Ninjitsu một cách thành thục mà thôi.
Chẳng hạn việc Ninja có thể sống dưới nước như loài cá mà dân gian vẫn thường truyền tụng, thực chất là các Ninja đã sử dụng các ống sậy rỗng hoặc bao kiếm làm ống thở, và như thế tha hồ ở dưới nước bao lâu cũng được. Thêm nữa, các Ninja có thể mang theo một túi da chứa đầy không khí để thở khi phải ở dưới
nước một thời gian.
Còn việc đi trên mặt nước chính là các Ninja đã sử dụng được loại giày da bơm đầy khí. Tuy nhiên, để sử dụng được loại giày này, họ phải khổ công tập luyện nhiều năm mới đạt được sự thăng bằng và sự kiểm soát thân thể để có thể đứng vững trên mặt nước.
Các Ninja cũng thường mang theo những ống thuốc nổ, khi túng cùng thì quăng ngay vào mặt địch thủ. ống thuốc nổ tung, khói bay mù mịt, làm loà mắt địch thủ trong giây lát và như thế Ninja có thể biến mất(hay tàng hình) trong đám khói mù y như các lão phù thuỷ vậy.
Các Ninja thường rất mạnh khoẻ và tập chạy nhảy, leo trèo rất kiên trì. Họ có thể nhảy rất xa và rất cao. Ngoài ra, có lúc Ninja đã dùng một đồ vật tương tự như chiếc dù để nhảy từ nơi cao xuống một cách an toàn. Điều này giải thích các huyền thoại về khả năng bay của họ.
Ninja cũng sử dụng một số dụng cụ giúp họ vào nhà, vào thành một cách dễ dàng. Họ mang những đôi giày xốp nên có thể bám vào tường hay vách đá mà leo lên. Một dụng cụ khác nổi tiếng của Ninjitsu là một miếng da cuốn chung quanh lòng bàn tay và vòng qua cổ tay, có gắn sẵn bốn mũi nhọn lồi ra phía lòng bàn tay. Những mũi nhọn này có thể dùng để bám vào tường, vào xà nhà trên trần và chuyền tay đi qua một căn phòng mà chân không hề chạm đất. Miếng da này còn là một khí giới lợi hại khi đối mặt với kẻ thù. Một cú đâm thẳng bằng dao hay bằng gươm có thể dùng một tay để đỡ, tay kia đánh cả bốn mũi nhọn vào mặt kẻ thù.
Còn khả năng của các Ninja có thể chết đi rồi vài giờ sau sống lại chính là nhờ ở những kỹ thuật hạn chế hơi thở giống như môn Yoga của ấn độ. Thật vậy, một Ninja có thể ở dưới nước trong một thời gian mà không cần ống sậy hay túi khí, cũng như có thể giả chết để lừa đối phương chính là nhờ khả năng hạn chế hơi thở của môn Ninjitsu. Khả năng han chế hơi thở này còn cho phép họ đứng im trong một lúc khá lâu, nhờ vậy mà có thể lẫn lộn vào các bụi cây hay các tảng đá và không động đậy để không bị kẻ địch khám phá.
Do tính đặc thù của môn phái là gắn bó chặt chẽ với sứ mệnh đặc biệt quan trọng cho nên Ninjitsu đòi hỏi những môn đồ khi nhập môn phải hội đủ ba điều kiện: ý thức trách nhiệm cao, trí phán đoán nhanh nhạy và một thân thể khoẻ mạnh để có thể chịu đựng được quá trình tập luyện cũng như quá trình hoạt động đầy gian lao nguy hiểm.
Ngoài ra, Ninjitsu còn đòi hỏi các Ninja phải biết chết ngay tức khắc hoặc giết chết đồng môn của mình, khi bị sa vào lưới của địch thủ và không có đường đào thoát.
Có thể xem những yêu cầu vừa nêu trên đã tạo cho Ninjitsu sắc thái độc đáo trong giới võ lâm, tạo ấn tượng sâu sắc cho mọi người khi nghiên cứu về môn phái này. Nhưng cũng phải chẳng chính yếu tố bảo mật này đã làm cho Ninjitsu hiện đại đã mất đi tính hấp dẫn như Ninjitsu truyền thống đã từng có?
(copy của bạn em) [-x
Tuy nhiên, mãi đến 500 năm sau, Ninjitsu mới bắt đầu lớn mạnh. Những nhà sư ở núi Yamaloushi đã làm rạng danh Ninjitsu vào thế kỷ thứ 12 qua việc sử dụng những kỹ thuật của môn phái này chống lại sự đàn áp của nhà vua trong những trận chiến đấu cá nhân và đồng đội. Đặc biệt, vào cuối thời vua Heian, khoảng năm 1185, kinh đô Kyoto bị rối tung lên do sự xâm nhập của các nhà sư ở núi Yamalousi sử dụng Ninjitsu trừng trị bọn ác ôn, tham quan ô lại. Cũng vào thời điểm này, nhiều võ đường đã được thành lập để truyền dạy Ninjitsu rộng rãi trong nhân dân. Trong đó, nổi bật nhất là võ đường của -một Ninja khét tiếng đương thời. Đến đời Kamakura, vào năm 1192, Ninjitsu bắt đầu phát triển mạnh và bành trướng rộng rãi suốt 400 năm tiếp theo. Vào thời gian này, có đến 25 võ đường được thiết lập để truyền dạy Ninjitsu, tập trung nhất ở hai tỉnh Iga và Koga. Một trong những thủ lãnh Ninja nổi tiếng của thế kỷ 16 là Sandayu Monochi từng chỉ huy một ngàn Ninja chống lại gần năm vạn quân của tướng Oda Nobunaga. Một thủ lãnh Ninja khác là Hanzo Hatori, sống vào thế kỷ 17, từng đắc lực giúp tướng quân Ieasu Tokugawa chiến thắng vẻ vảng bốn vạn quân phiến loạn ở Shimabara Kyushu vào năm 1637. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của các Ninja, dòng họ tướng quân Ieyasu Tokugawa đã trị vì đất nước của Thái dương thần nữ đến cuối thế kỷ 19. Sang thế kỷ 20, trong Đệ nhị thế chiến, cơ quan mật vụ Nhật bản đã phải cần đến sự hoạt động của các cao thủ Ninjutsu để góp phần chấm dứt cuộc phong toả của quân đội Mỹ do tướng Douglas chỉ huy đang chiếm đóng ở Nhật lúc bấy giờ. Sau thế chiến thứ hai, chính phủ Nhật đã đặt các Ninja ra ngoài vòng pháp luật. Tuy vậy, Ninjitsu vẫn được ngưỡng mộ. Vào tháng 5-1980, để đối phó với bọn khủng bố đánh chiếm sứ quán Iran tại Anh, người ta đã phải nhờ tới một chuyên viên Ninjitsu tổ chức giúp một cuộc tấn công cấp kỳ để giải thoát các con tin. Kết quả là với kỹ thuật đặc thù của Ninjitsu, cuộc tấn công đã hoàn tất chớp nhoáng chỉ trong mấy phút. Với công trạng diệu kỳ này, môn Ninjitsu đã được chấp nhập phục hồi, hầu truyền dạy cho những người đương đại các kỹ thuật huyền bí của môn võ "thần kỳ" này phục vụ cho những mục đíchtốt đẹp của xã hội và nhân loại.
Chương trình huấn luyện:
Chương trình huấn luyện môn Ninjitsu hiện đại bao gồm 8 phần:
1. Đánh bằng tay không.
2. Nhào lộn.
3. Đánh bằng côn gỗ
4. Sử dụng vũ khí lạnh và ném liệng đối thủ.
5. Đánh bằng dây xích và kiếm.
6. Cách tẩu thoát và đột nhập vào những nơi đã đóng kín.
7. Nghệ thuật nguỵ trang.
8. Chiến lược tác chiến.
Toàn bộ chương trình huấn luyện của Ninjitsu hiện đại phát triển theo ba cấp độ:
Cấp độ thứ nhất:
Người tập nắm vững được các phương pháp giao đấu sơ đẳng bằng tay không. Những nhóm cơ bắp và các dây chằng trong cơ thể được phát triển nhằm tạo cho nguời tập sự mềm deỏ, linh hoạt cao, nhào lộn giỏi. Sự tập luyện trong giai đoạn đầu rất gay go: người tập phải rơi xuống những sàn cứng, bò trườn một khoảng cách rất xa, cũng như phải tập vượt qua 300 km với nhiều chướng ngại vật trong một ngày. Người tập cũng học cách chuyển dịch không gây tiếng động và thoát khỏi cuộc phục kích của địch.
Cấp độ thứ hai:
Học tập và phân biệt năm trạng thái tâm lý của đối phương: thói hám danh, tính nhút nhát, sự nóng nảy, thói lười biếng, nhu nhược, cũng như nắm bắt được năm dục vọng của kẻ thù: đói, động dục, tự mãn, tham lam, tự kiêu. Với những bản lĩnh tâm lý này, môn đồ Ninjitsu bắt đầu trở thành những Ninja: vừa thành thạo các kỹ thuật song hành với việc hiểu biết tâm lý, đó là yếu tố của sự chiến thắng.
Cấp độ thứ ba:
Ninjitsu truyền dạy cho môn đồ tinh thần kiên tâm tối thượng, thông hiểu chín mức độ định thần bí mật của môn phái. Mỗi mức độ tương ứng với sự đan chéo những ngón tay một cách kỳ bí và một âm thanh đặc biệt cho phép họ kết hợp nghị lực tinh thần của con người với trí tuệ vạn năng của thiên nhiên.
Thực tế và huyền thoại:
Nhiều người nói rằng chương trình huấn luyện của Ninjitsu hiện đại rất sơ lược so với chương trình huấn luyện truyền thống. Họ đã viện dẫn những khả năng gần như huyền thoại của các Ninja để khẳng định thêm phán đoán trên. Chẳng hạn như các Ninja có thể chết vài giờ và sống lại sau đó, có thể đi trên tường, trên mặt nước, có thể tàng hình ...!
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu võ học thì Ninjitsu truyền thống và Ninjitsu hiện đại không cách xa nhau lắm. Chương trình huấn luyện Ninjitsu truyền thống cũng bao gồm việc rèn luyện cho các Ninja khả năng sử dụng thông thạo các môn võ, các loại vũ khí(bao gồm cả ám khí, hơi độc, hoả khí ...)các phương pháp di chuyển, đột nhập và đào thoát trong mọi điều kiện, cũng như cách nguỵ trang, ẩn thân, thậm chí giả chết ... nhằm mục đích tối thượng là hoàn thành tốt đẹp sứ mạng đã nhận lãnh. Tuy nhiên do quá bất ngờ trong sự chạm trán với các Ninja, người ta không lý giải được các hành tung đặc dị của những sát thủ vô hình này, nên đã gán vào đấy một bức màn sương mù huyền thoại. Thật ra, tất cả đều do quá trình khổ luyện môn Ninjitsu một cách thành thục mà thôi.
Chẳng hạn việc Ninja có thể sống dưới nước như loài cá mà dân gian vẫn thường truyền tụng, thực chất là các Ninja đã sử dụng các ống sậy rỗng hoặc bao kiếm làm ống thở, và như thế tha hồ ở dưới nước bao lâu cũng được. Thêm nữa, các Ninja có thể mang theo một túi da chứa đầy không khí để thở khi phải ở dưới
nước một thời gian.
Còn việc đi trên mặt nước chính là các Ninja đã sử dụng được loại giày da bơm đầy khí. Tuy nhiên, để sử dụng được loại giày này, họ phải khổ công tập luyện nhiều năm mới đạt được sự thăng bằng và sự kiểm soát thân thể để có thể đứng vững trên mặt nước.
Các Ninja cũng thường mang theo những ống thuốc nổ, khi túng cùng thì quăng ngay vào mặt địch thủ. ống thuốc nổ tung, khói bay mù mịt, làm loà mắt địch thủ trong giây lát và như thế Ninja có thể biến mất(hay tàng hình) trong đám khói mù y như các lão phù thuỷ vậy.
Các Ninja thường rất mạnh khoẻ và tập chạy nhảy, leo trèo rất kiên trì. Họ có thể nhảy rất xa và rất cao. Ngoài ra, có lúc Ninja đã dùng một đồ vật tương tự như chiếc dù để nhảy từ nơi cao xuống một cách an toàn. Điều này giải thích các huyền thoại về khả năng bay của họ.
Ninja cũng sử dụng một số dụng cụ giúp họ vào nhà, vào thành một cách dễ dàng. Họ mang những đôi giày xốp nên có thể bám vào tường hay vách đá mà leo lên. Một dụng cụ khác nổi tiếng của Ninjitsu là một miếng da cuốn chung quanh lòng bàn tay và vòng qua cổ tay, có gắn sẵn bốn mũi nhọn lồi ra phía lòng bàn tay. Những mũi nhọn này có thể dùng để bám vào tường, vào xà nhà trên trần và chuyền tay đi qua một căn phòng mà chân không hề chạm đất. Miếng da này còn là một khí giới lợi hại khi đối mặt với kẻ thù. Một cú đâm thẳng bằng dao hay bằng gươm có thể dùng một tay để đỡ, tay kia đánh cả bốn mũi nhọn vào mặt kẻ thù.
Còn khả năng của các Ninja có thể chết đi rồi vài giờ sau sống lại chính là nhờ ở những kỹ thuật hạn chế hơi thở giống như môn Yoga của ấn độ. Thật vậy, một Ninja có thể ở dưới nước trong một thời gian mà không cần ống sậy hay túi khí, cũng như có thể giả chết để lừa đối phương chính là nhờ khả năng hạn chế hơi thở của môn Ninjitsu. Khả năng han chế hơi thở này còn cho phép họ đứng im trong một lúc khá lâu, nhờ vậy mà có thể lẫn lộn vào các bụi cây hay các tảng đá và không động đậy để không bị kẻ địch khám phá.
Do tính đặc thù của môn phái là gắn bó chặt chẽ với sứ mệnh đặc biệt quan trọng cho nên Ninjitsu đòi hỏi những môn đồ khi nhập môn phải hội đủ ba điều kiện: ý thức trách nhiệm cao, trí phán đoán nhanh nhạy và một thân thể khoẻ mạnh để có thể chịu đựng được quá trình tập luyện cũng như quá trình hoạt động đầy gian lao nguy hiểm.
Ngoài ra, Ninjitsu còn đòi hỏi các Ninja phải biết chết ngay tức khắc hoặc giết chết đồng môn của mình, khi bị sa vào lưới của địch thủ và không có đường đào thoát.
Có thể xem những yêu cầu vừa nêu trên đã tạo cho Ninjitsu sắc thái độc đáo trong giới võ lâm, tạo ấn tượng sâu sắc cho mọi người khi nghiên cứu về môn phái này. Nhưng cũng phải chẳng chính yếu tố bảo mật này đã làm cho Ninjitsu hiện đại đã mất đi tính hấp dẫn như Ninjitsu truyền thống đã từng có?
(copy của bạn em) [-x