[Tìm hiểu] Dịch Cân Kinh

Phạm Minh Tuấn
(namhongson)

New Member
A- Nguồn gốc

Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu-lâm bên Trung-quốc (*). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền-công vào Trung-quốc, và làm cho quảng bá.

Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-hiến xuất bản xã Bắc-kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:

"Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời Thanh Khang-hy (1662-1723), Ung-chính (1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang-tự (1875-1909), chính Phúc-sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-sơn Thiếu-lâm tự, người ta mạo ra tập Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".

Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các Đạo-gia Trung-quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, hút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai.

Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chinh xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma của chùa Thiếu-lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực.

Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân Kinh trên, họ phịa ra nhiều bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền "một phương pháp" luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khởi ung-thư gan, lao thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân Kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-hải, Giang-tô, Hồ-Nam, Phúc-kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-lâm ở Hương-cảng, Đài-loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975.

Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên Hoa-kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-luật-tân, và cộng tác với Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành bác sĩ. (Tài liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác nhận sau.

Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu:

- Lão khoa,
- Thần kinh,
- Não khoa, (Neurology)
- Niệu khoa (Urology)
- Phong thấp (Rhumatology)
- Phế khoa (Pneumology)
- v.v...

Đến đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:

1. Dịch Cân kinh,
2. Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe).
3. Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú).
4. Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm).
5. 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
6. Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh).
7. Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu).

Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:

- Dễ luyện,
- Luyện mau kết quả,
- Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả.

Tuy vậy nếu bàn về kết quả luyện thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24 thức luyện của Trần Hy Di.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Re: Dịch Cân Kinh

1.- Điều kiện để luyện,

_ Từ sáu tuổi trở lên.
_ Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20 đến 30 độ C).
_ Ăn vừa đù no, không đói quá, không no quá, không say rượu.
_ Y phục rộng.
_ Giải khai đại tiểu tiện trước khi luyện.
_ Luyện từng thức theo thứ tự.
_ Không nhất thiết phải luyện đủ 12 thức một lúc.
_ Khi mới luyện, luyện từng thức một. Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức đầu rồi luyện thức thứ ba.
_ Mỗi ngày luyện một hay hai lần.
_ Trong toàn bộ tôi dùng chữ: thổ nạp để chỉ thở hít hay hô hấp. Thổ (hô) để chỉ thở ra. Còn gọi là thổ cố nạp tân (thở khí cũ ra, nạp khí mới vào). Nạp (hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài ngắn tùy ý, không bắt buộc.
_ Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng dẫn khí theo hướng nhất định.

2.- Trường hợp không nên luyện Dịch Cân kinh,

_ Đang bị cảm, cúm, sốt.
_ Bị thương các vết thương chưa đóng sẹo.
_ Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ nữ đang cho con bú luyện rất tốt).
_ Ăn no quá hay đói quá.
_ Sau khi làm việc quá mệt.

3.- Tư thức dự bị lúc mới luyện.

Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên.
_ Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai,
_ Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng,
_ Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ,
_ Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình, cảnh, Tiến hành toàn thân buông lỏng: Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng, bụng, đùi, chân... Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý, không suy nghĩ.
_ Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh.
_ Hơi thở bình thường. Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc khởi đầu cho nhiều thức.

Tất cả các thức Dịch Cân kinh đều là lập thức (thức đứng). Không có Ngọa thức (thức nằm) và Tọa thức (thức ngồi).

4.- Hiệu năng,

_ Điều thông khí huyết,
_ Tăng vệ khí,
_ Ích tủy thiêm tinh,
_ Kiên cân, ích cốt.
_ Gia tăng chân-nguyên khí,
_ Minh tâm, định thần,
_ Giữ tuổi trẻ lâu dài.
_ Gia tăng nội lực.

5.- Chủ trị,

_ Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y, Châm-cứu, Trung-dược v.v.
_ Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh: Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí, khí hãm. Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư, bần huyết. Trị tất cả các chứng phong thấp. Trị tất cả các bệnh về thần kinh. Trị tất cả các bệnh tâm, phế.
 
Re: Dịch Cân Kinh

12 thức Dịch Cân kinh


Thức thứ nhất: Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực).

Thức Thứ Nhì: Lưỡng Kiên Hoành Đản (Hai vai đánh ngang).

Thức Thứ Ba: Chưởng Thác Thiên Môn (Hai tay mở lên trời).

Thức Thứ Tư: Trích Tinh Hoán Đẩu (Với sao, đổi vị).

Thức Thứ Năm: Trắc Sưu Cửu Ngưu Vỹ (Nghiêng mình tìm đuôi trâu).

Thức Thứ Sáu: Xuất Trảo Lượng Phiên (Xuất móng khuất thân).

Thức Thứ Bảy: Bạt Mã Đao Thế (Cỡi ngựa vung đao).

Thức Thứ Tám: Tam Thứ Lạc Địa (Ba lần xuống đất).

Thức Thứ Chín: Thanh Long Thám Trảo (Rồng xanh dương vuốt).

Thức Thứ Mười: Ngoạ Hổ Phốc Thực (Cọp đói vồ mồi).

Thức Thứ Mười Hai: Đề Chủng Hợp Chưởng (Đưa gót hợp chưởng).
 
Re: Dịch Cân Kinh

Thức thứ nhất

Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực)

1.- Động tác tư thế,

cungthuduonghung1.gif


(1), Tý tiền bình cử (hai tay đưa ngang về trước), hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay từ từ úp vào nhau, rồi đưa lên tới vị trí ngang ngực. (H1).

(2) Cung thủ hoàn bao (vòng tay khép lại): cùi chỏ từ từ co lại, cho đến khi hai cánh tay ép nhẹ vào thân. Hai bàn tay hướng thượng. Hai vai hạ xuống, xả khí trong lồng ngực. Xương sống buông lỏng. Khí trầm đơn điền. Lưỡi đưa sẽ chạm lên nóc vọng (palais). Giữ tư thức từ 10 phút đến một giờ, mắt như nhìn vào cõi hư vô, hoặc nhìn vào một vật thể thức xa. Cứ như vậy trong khoảng một thời gian nhất định, tâm trung cảm thấy thông sướng. Đó là cách thượng hư hạ thực.(H2).

cungthuduonghung2.gif


2.- Hiệu năng,

Trừ ưu, giải phiền, Giao thông tâm thận.

3.- Chủ trị,

Mất trí nhớ, tim đập thất thường. Dễ cáu giận, Nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, Trong lòng lo sợ vô cớ, Thận chủ thủy, tâm chủ hỏa. Khi tâm thận bất giao, tức thủy không chế được hỏa, sẽ sinh mất ngủ, mất trí nhớ. Thức này có thể điều hòa tâm thận.

4.- Nguyên bản

cungthuduonghungnguyenban.gif
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Re: Dịch Cân Kinh

Thức thứ nhì

Lưỡng kiên hoành đản, (Hai vai đánh ngang)

1.- Động tác, tư thế,

(1), Án chưởng hành khí (án tay, khí lưu thông), tiếp theo thức thứ nhất, hai bàn tay từ hợp rời nhau, úp xuống tới bụng, rồi đưa ra sau lưng (H3), đồng thời ý-khí theo bàn tay trầm đơn điền.

luongkienhoanhdan1.gif


(2), Lưỡng tý hoành đản ( hai tay ngang vai), hai tay từ từ đưa lên ngang vai, hai bàn tay hướng lên trời, mắt khép lại, dùng ý dẫn khí phân ra hai vai, bàn tay. Mắt từ từ mở ra. Lưỡi từ nóc vọng hạ xuống. Ý khí trên đầu, hông, đùi buông lỏng. Giữ tư thức càng lâu càng tốt.(H4)

luongkienhoanhdan2.gif

2.- Hiệu năng,

Tráng yêu, kiên thận (làm cho lưng mạnh lên, giữ thận chắc chắn.) Xả hung lý khí (làm cho lồng ngực mở ra, giữ khí điều hòa).

3.- Chủ trị, Trị chứng yếu thắt lưng, Bảo vệ thận, Trị chứng uất kết lồng ngực (thần kinh), Giữ toàn thể xương sống khi bị yếu (sau khi bệnh, tuổi già).

4.- Nguyên-bản

luongkienhoanhdannguyenban.gif
 
Thức thứ ba

Chưởng thác thiên môn, (Hai tay mở lên trời)

1.- Động tác, tư thế,

(1), Cử tý triển mục (nâng tay, phóng mắt) : đưa tay, mở mắt, tiếp theo thức thứ 2, hai tay đưa thẳng lên trời, hai lòng bàn tay đối nhau. Đồng thời ngửa mặt nhìn trời (H5). Giữ tư thức dài, ngắn tùy hoàn cảnh. Như nhìn trời lâu mỏi mắt, thì hai mắt khép nhỏ lại dùng ý dẫn khí, tưởng như dẫn thiên khí vào não, theo xương sống (Đốc-mạch) tới ngang thắt lưng (huyệt Mệnh-môn) rồi tỏa nạp sang thận.

chuongthacthienmon1.gif






(2), Chưởng thác Thiên-môn (chưởng xuyên cửa trời) : chưởng thác thiên môn: Tiếp theo, ngửa hai bàn tay lên trời, các ngón hai bàn tay đối nhau. Lưỡi từ từ nâng lên. Mặt nhìn trời, hướng vào chân trời xa xa (H6). Luyện càng lâu càng tốt. Khi mắt mỏi, thì từ khép nhỏ lại, tưởng tượng nhìn thấy đôi mắt trời.



chuongthacthienmon2.gif




(3), Phủ chưởng quán khí (úp chưởng thu khí) : tiếp theo thức trên, hai chưởng quay ngược hướng hạ. Hai cùi chỏ vòng như vòng cung. Đầu, cổ thẳng, mắt nhìn về trước, lưỡi hạ xuống (H7). Khi trở chưởng, ý niệm tưởng tượng thu được thiên khí, chuyển thẳng xuống ngang lưng; rồi lại thu thiên khí vào bàn tay nhập não (huyệt Bách-hội), qua hầu đưa tới hậu môn (huyệt Hội-âm).


chuongthacthienmon3.gif





Những vị bị huyết áp cao, thì dẫn khí từ hậu môn xuống đùi, rồi tỏa xuống bàn chân, đưa xuống đất. (4), Án chưởng tẩy tủy (án tay, tẩy tủy) : tiếp theo thức trên, hai tay từ từ hạ xuống tới bụng, rồi buông thõng (H3). Ý niệm khí từ não (huyệt Bách-hội) theo não, dọc xương sống (Đốc- mạch) xuống xương cụt, đùi, bắp chân, thoát ra bàn chân.

2.- Hiệu năng,

Ích tủy kiên thận,

3.- Chủ trị,

Trị đau ngang lưng, Đau phía sau vai, Trị tất cả các bệnh phiền táo, cáu giận. Nữ kinh nguyệt thất thường, Nam khó khăn sinh lý, Hay quên. Trẻ con chậm lớn, Thần kinh suy nhược.

4.- Nguyên bản
chuongthacthienmonnguyenban.gif
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thức thứ tư

Trích tinh hoán đẩu (Với sao, đổi vị)
1,- Động tác tư thế,

(1), Chỉ thủ kích thiên (bàn tay chỉ trời): tiếp theo thức trên, chưởng phải di chuyển tới vị trí ngang lưng, úp bàn tay vào sống ngang lưng (huyệt Lao-cung áp vào huyệt Mệnh-môn). Đồng thời tay trái đưa lên cao, chưởng mở rộng hướng sang phải . Lưỡi từ từ nâng cao. Mắt nhìn vào tay. (H8). Thức này phải buông lỏng cần cổ, dẫn khí từ não (huyệt Bách-hội) theo xương sống (Đốc-mạch tới huyệt Mệnh-môn).


trichtinhhoandau1.gif



(2), Phủ chưởng quán khí (úp chưởng thu khí) : tiếp thức trên, chưởng trái hơi hạ xuống, đầu cổ ngay. Đỉnh lưỡi từ từ hạ xuống. Hai mắt nhìn thẳng, hơi khép lại. (H9). Ý niệm khí từ lưng bàn tay trái thoát ra.


trichtinhhoandau2.gif




(3), Án chưởng tẩy tủy (giữ bàn tay, tẩy tủy): tiếp theo thức trên, tay trái từ từ hạ xuống ngực, bụng (H10). Ý niệm như trên.


trichtinhhoandau3.gif



2.- Hiệu-năng,

Điều lý tỳ vị (điều hòa khí tỳ vị).

3.- Chủ-trị,

Trị tất cả các bệnh tỳ vị, ruột. Trị các bệnh vai, cổ, lưng.

4.- Nguyên bản
trichtinhhoandaunguyenban.gif
 
Thức thứ năm,



Trắc sưu cửu ngưu vỹ (Nghiêng mình tìm đuôi trâu).



1.- Động tác tư thế, (1), Cung bộ quan chưởng, (bước khom, quay chưởng) : đổi tư thức , hai bàn tay nắm nhẹ, đưa ra sau lưng, chưởng tâm hướng thượng. Chân trái bước về trước một bước, gối khom xuống hình cung, đồng thời tay trái đưa lên ngang với đầu đỉnh, chưởng tâm hướng nội. Trong thức này, mắt nhìn vào chưởng trái. Tay phải hơi đưa về sau. Hô hấp tự nhiên, lưỡi đưa lên trên. (H11).


tracsuu1.gif




Đổi thức, phải, trái giống nhau, duy phương hướng khác biệt. (2), Thanh hư tẩy tủy (buông lỏng tẩy tủy) : vẫn tư thức trên, hai chưởng mở ra buông lỏng, đỉnh lưỡi hướng thượng, mắt khép nhẹ. Dùng ý dẫn khí từ bàn tay (Huyệt Lao-cung) đưa khí vào thân, hàm, răng, nhập não (Huyệt Bách-hội), rồi đưa theo xương sống (Đốc-mạch) xuống đùi, chân, bàn chân (Huyệt Dũng-tuyền). (H12).



tracsuu2.gif


Đổi thức, phải, trái giống nhau, duy phương hướng khác biệt. (3) Tiếp cốt tẩy tủy (thấm xương tẩy tủy), tiếp thức trên. Chân trái thu hồi, cùng chân phải song song. Hai tay cũng thu hồi, buông thõng bên hông, rồi từ từ đưa lên cao như phần (3) và (4) thức thứ ba.

2.- Hiệu năng, Cường kiên tứ chi, Ích tủy, trợ dương.

3.- Chủ trị, Tất cả các chứng đau nhức tứ chi, Đau ngang lưng, Dương ủy (Impuissances sexuelles) Di, mộng tinh. Nữ lãnh cảm, Tất cả các bệnh thời kỳ mãn kinh.

4. Nguyên bản,
tracsuunguyenban.gif
 
Thức thứ sáu

Xuất trảo lượng phiên, (Xuất móng khuất thân)

1.- Động tác tư thế, (1), Quật quyền liệt yêu ( móc quyền chuyển lưng) : tiếp theo thức trên, gập người về trước 90 độ. Hai tay tự nhiên buông thõng. Mắt nhìn thẳng về trước. Sau đó từ quyền biến ra chưởng (bàn tay mở ra), rồi người từ từ thẳng dậy, hai cánh tay ép nhẹ vào thân, bàn tay hướng thượng. (H13). Khi người gập xuống thì Thổ. Lúc người thẳng dậy thì Nạp.


xuattraoluongphien1.gif




(3), Hấp khí hồi thu ( hít khí, trở lại bình thường), tiếp thức trên, bàn tay buông lỏng, cùi chỏ gập, hai tay từ từ thu lại, đưa ngang lưng, Nạp khí Nếu sức yếu, hoặc tuổi cao thì chỉ luyện một lần. Còn như thanh tráng niên muốn tăng cường thể lực có thể tiếp tục: hai tay đưa lên, chưởng tâm hướng thượng Thổ ra rồi hạ xuống Nạp vào. Luyện liền 7 lần.

2.- Hiệu năng, Bổ tinh ích thận, Dưỡng tâm kiên phế,

3.- Chủ trị, Trị tất cả các bệnh tâm, phế, thận mãn tính. Trị các bệnh cườm tay.

4. Nguyên bản,
xuattraoluongphiennguyenban.gif
 
Thức thứ bẩy

Bạt mã đao thế (Cỡi ngựa vung đao)

1.- Động tác tư thế (1), Định thân bối kiến (đứng vững, nhận lưng): trở lại tư thức dự bị lúc đầu. Tay phải đưa ra lưng, xương sống nơi ngang thắt lưng (huyệt Mệnh-môn), chưởng tâm quay về sau (tức lưng bàn tay áp vào xương sống). Đồng thời tay trái cử cao hơn đầu. Co cùi chỏ lại, tay úp vào gáy, ngón tay ép lên tai phải. Chưởng tâm hướng về trước. Sau khi đạt thức rồi, đầu đỉnh, sống lưng đồng thời nghiêng phải , mắt nhìn vào ngón chân. (H15). Đỉnh lưỡi đưa lên.


[IMG]http://vothuattre.free.fr/upload/images/batmadaothe1.gif


Đổi, phải trái cùng thức, duy phương hướng khác nhau.


batmadaothe2.gif



(2), Đầu trắc thượng quan ( đầu nghiêng, nhìn lên) : tiếp thức trên. Thân trở về chính vị. Nghiêng đầu, nhìn lên, hai mắt hướng về phương xa. (H16).


batmadaothe3.gif



Đổi, phải trái cùng thức, duy hướng trái ngược nhau.


batmadaothe4.gif



2.- Hiệu năng, Làm mạnh, làm chắc chắn lưng bụng, lồng ngực, cùng cổ.

3.- Chủ trị, Trị tất cả các bệnh bụng, lưng, ngực, cổ, Bàn tọa, ngang lưng.

4.- Nguyên bản, Hình cổ bị mờ, bỏ qua, vì không cần thiết. Tuy nhiên nguyên bản vẫn còn đủ:
batmadaothenguyenban.gif
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thức thứ tám

Tam thứ lạc địa (Ba lần xuống đất)

1.- Động tác tư thế, (1), Hạ án tẩy tủy (án phía dưới, tẩy tủy) : tư thức như dự thức đầu. Hai tay từ từ cử lên trên, chưởng tâm hướng thượng tới đầu đỉnh. Hai chưởng tâm đối nhau, đồng thời ngước mắt nhìn trời. Hai mắt nhìn về phía vô tận của bầu trời. Lưỡi đưa lên cao. Sau đó đầu cổ thẳng, úp chưởng hướng trở xuốngï, rồi hạ tay xuống ngang bụng. (H17). Ý niệm "Chưởng thác thiên môn" như đệ tam thức.



tamthulacdia1.gif

tamthulacdia2.gif



(2), Mã bộ tồn án (xoạc chân trên lưng ngựa) : tiếp thức trên, gập gối như ngồi trên lưng ngựa, đồng thời hai tay phân hướng hai bên thân, các đầu ngón tay hướng ngoại. Đó là thức mã bộ, mắt nhìn về trước. Lồng ngực, lưng, đùi như mở ra thành thức thượng hư hạ thực. (H18).


tamthulacdia3.gif

tamthulacdia4.gif




(3) Chưởng thác thiên cân (chưởng đẩy nghìn cân): tiếp theo thức trên. Hai chân đang xoạc, thu hẹp lại. Hấp khí. đỉnh lưỡi hướng trời. Đồng thời hai chưởng hướng thượng như đẩy vào một vật nặng nghìn cân, khi tới ngang vai thì đưa hai tay thành vị trí với vai thành đường thẳng. Hô khí. Hai bàn tay hướng lên trời. Giữ nguyên tư thức, một thời gian. Kế tiếp hai tay hạ xuống, gối gập như ngồi trên yên ngựa. Hai tay ép sát người, bàn tay hướng ngoại. Hô khí. Luyện liền ba thức. (H19). Những người huyết áp cao, hay thấp khi luyện thức này phải rất khoan thai. Thanh tráng niên trái lại luyện với tốc độ nhanh.


tamthulacdia5.gif

tamthulacdia6.gif




(4), Hạ án tẩy thủy (án dưới tẩy tủy): sau khi hoàn thành thức cuối, thì đứng thẳng dậy, hai tay từ từ đưa ngang đầu, chưởng tâm đối nhau, nghiêng đầu nhìn ra xa, đỉnh lưỡi nâng cao. Đầu cổ thẳng, hai tay hạ xuống ngang bụng như thức thứ 8 (H17).

2.- Hiệu năng, Bồi bổ nguyên khí, Cường kiên cân lực, (làm mạnh, làm gân chắc chắn).

3.- Chủ trị, Trị lưng đau, Dương ủy (bất lực sinh lý). Các bệnh về chân.

4.- Nguyên bản,
tamthulacdianguyenban.gif
 
Thức thứ chín

Thanh-long thám trảo (Rồng xanh dương vuốt)

1.- Động tác tư thức, (1), Khuất quyền liệt yêu (gập quyền, xuyên lưng) : như thức thứ 6, Xuất trảo lượng phiên và Khuất quyền liệt yêu. (H13). (2), Khuất thân thám chưởng (nhiêng mình xuất chưởng) : quyền phải đưa ra sau lưng (huyệt Mệnh-môn). Quyền trái đưa lên khỏi đầu. Lưng, đầu từ từ nghiêng qua phải. Tay trái vòng qua đỉnh đầu nghiêng theo, tay phải tự nhiên bị vòng ra phía hông. Sau đó toàn thân chuyển sang phải, trong khi hai chân giữ nguyên vị trí. Mắt nhìn đầu bàn tay trái. (H20).



thanhlong1.gif



Đổi hướng phải trái giống nhau, duy phương hướng khác nhau.





thanhlong2.gif




(3), Khuất thân quá mạch (hạ thân dưới gối) : quyền phải áp vào giữa sống lưng, gập gối, xoạc chân. Chưởng tâm trái hướng thượng, lưng bàn tay cách mặt đất khoảng 10 cm, chuyển tay song song với mặt đất từ bên phải sang phía chân trái. Tay phải từ quyền biến thành chưởng đưa xuống thấp. Thân thể do nghiêng chuyển sang ngay, song chưởng đưa ra hai bên đùi. (H21).


thanhlong3.gif



Đổi hướng phải, trái giống nhau, duy phương hướng khác nhau.


thanhlong4.gif


thanhlong5.gif

(4), Tiếp cốt tẩy thủy: giống như thức thứ 5.

thanhlong6.gif




2.- Hiệu năng, Cường yêu kiên thận (làm mạnh lưng, kiên cố thận).

3.- Chủ trị, Trị tất cả các bệnh đau xương sống kinh niên. Trị các bệnh về thận: Yếu sinh lý, hay quên, răng lung lay,

4.- Nguyên bản,
thanhlongnguyenban.gif
 
Thứ thứ mười

Ngoạ hổ phốc thực (Cọp đói vồ mồi).

1.- Động tác tư thế, (1), Hổ cứ thâm sơn (hổ ngồi trong rừng sâu) : khởi từ dự bị thức. Hơi cúi về trước, hai bàn tay khum khum thành quyền đưa về trước. Quyền tâm hướng thượng. Tới ngang với ngực, chưởng tâm hướng nội, gối hơi khum lại. (2), Cung bộ tiền phó (khum người hướng trước) : chân trái bước về trước một bước, khum lại, đồng thời hai tay đưa thẳng về trước, hai bàn tay như móng cọp. (H22-1-2). Hai mắt nhìn vào song chưởng, miệng gầm thành tiếng "Huồm" như cọp gầm.


ngoahophocthuc1.gif


ngoahophocthuc2.gif



Kế tiếp, hai bàn tay án ở hai bên chân trái, lồng ngực xả khí, đầu ngước lên, mắt nhìn thẳng (H22-3).



ngoahophocthuc3.gif


Hai chân bất động, đứng dậy, hai tay nắm thành quyền song song ngang hông (H22-4-5).


ngoahophocthuc4.gif


ngoahophocthuc5.gif


Đổi hướng, phải trái giống nhau, duy phương hướng khác nhau. (3) , Tiếp cốt tẩy tủy, xem thức thứ 5, phần Tiếp cốt tẩy tủy.

2.- Hiệu năng, Cường yêu tráng thận.

3.- Chủ trị, Trị thận hư bất túc.

4.- Nguyên bản,
ngoahophocthucnguyenban.gif
 
Đính chính cho anh Phạm Minh Tuấn:
"vấn đề mà anh bảo là tập sai chỉ thu được kết quả ít,cúng không nguy hiểm " thực tế lại là rất nguy hiểm .
Em không biết anh tìm các chiêu thức Dịch cân kinh này ở đâu và không rõ anh đã tập thử chưa.Nhưng đối vời người có học về võ thuật thì có một nguyên tắc:Tất cả các chiêu thức đều phải hiểu rõ thì mới tập.Nếu phạm sai lầm dù một ly cũng đi một dặm.
Nếu anh post bài với mục đích tham khảo thì không sao, nhưng cũng không nên để câu bất cẩn như vậy.Đặc biệt ,dịch cân kinh lại là môn tập cả nội lẫn ngoại khí, chuyện sai lầm của người tập sẽ gây rất nguy hiểm, vấn đề này nếu anh tập chác anh cũng biết rõ.
Rất đề cao kiến thức mà anh có được,mong anh vui vẻ xuề xòa mà rút kinh nghiệm cho các lần post sau :)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Cảm ơn chị Dương Hà đã góp ý về suy nghĩ sai lầm của Tuấn, và em đã xóa bỏ dòng kết luận ấy! :)

Bất cứ cái gì cũng thế, nếu đọc để tham khảo thì không sao, nhưng nếu đã quyết định bắt tay vào tập rồi thì không bao giờ nên tập không đáng hoàng. "Dịch Cân Kinh" là một phép dưỡng sinh, tác dụng thì như trong bài viết Tuấn sưu tầm:
_ Điều thông khí huyết,
_ Tăng vệ khí,
_ Ích tủy thiêm tinh,
_ Kiên cân, ích cốt.
_ Gia tăng chân-nguyên khí,
_ Minh tâm, định thần,
_ Giữ tuổi trẻ lâu dài.
_ Gia tăng nội lực.
Nhìn vào những tác dụng ấy, sao dám kết luận là nếu tập không đúng bài bản thì cũng không ảnh hưởng nhiều ? Cái gì cũng thế, nếu làm đúng mà đạt kết quả cao thì làm sai sẽ đạt kết quả ngược lại.

Một lần nữa cảm ơn chị Dương Hà, và mong Tuấn rút kinh nghiệm! :)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên