Đoàn Xuân Dũng
(DungDX)
New Member
Một người bạn post bài này lên một mailing list. Đọc thấy một số điểm tương đối thú vị, và cũng là những kinh nghiệm quý báu của một người phải bươn chải vươn lên ở nước ngoài nên xin phép đăng lại lên đây. Tiếc rằng không có đầy đủ bài viết (nếu ai có thì xin cung cấp).
\... Làm trong nhà bếp khoảng 9 tháng thì tôi tìm đýợc một công việc týõng đối nhẹ nhàng hõn ơ? Bệnh viện Royal North Shore Hospital thuộc vùng Bắc Sydney\. Công việc tôi lúc đó là đi giao nhận các mẩu thử nghiệm giữa các phòng thí nghiệm trong bệnh viện\. Qua công việc này, tôi có dịp để ý cách làm nghiên cứu của các nhà khoa học ở đây\. Một hôm, trong lúc rảnh rỗi, tôi để ý thấy một nhà khoa học ngýời Ấn Độ loay hoay làm các con toán về xác suất thống kê cho thí nghiệm của ông; tôi lân la tới gần và tỏ ý muốn trợ giúp một tay\. Tuy nhiên, ông ta trố mắt nhìn tôi một cách khinh khi, nhýng lịch sự và đuổi tôi đi chỗ khác\. Tôi buồn tủi lắm, và quyết chí một ngày "trong cuộc trần ai, ai dễ biết/ rồi ra mới rõ mặt anh hùng"\.
Tôi nhận ra khá sớm là nếu tôi yên phận thì týõng lai tôi sẽ chẳng tới đâu\. Tôi quyết định ghi danh xin vào học tại trýờng Đại học Sydney (một trýờng lâu đời và danh tiếng nhất ơ? Sydney) bán thời gian (part-time)\. Tôi đýợc mời lên phỏng vấn để lýợng xét trình độ học vấn\. Ngýời phỏng vấn tôi, một ông Úc khoảng 50 tuổi, hỏi: "Anh đã tốt nghiệp đại học ơ? Việt Nam rồỉ" "Dạ, đúng thế"\. Ông ta mỉa mai: "Thế anh có biết làm phân số không?" Tôi hõi ngạc nhiên về câu hỏi, nhýng cũng tự trấn tĩnh mình là có khi phân số của họ phức tạp hõn phân số mình học, nên hay nhất là nói "không" cho chắc ãn! Nghĩ thế, tôi trả lời: "Dạ, không"\. Ông ta cýời một cách mỉa mai mà tôi không bao giờ quên cũng nhý không tha thứ ông ta\. Sau đó, tôi đýợc một giáo sý chuyên ngành phỏng vấn và kết cục là ông không nhận tôi vì nghĩ tôi không đủ khả nãng học đại học! Cần nói thêm là lúc đó, ngýời Úc hầu nhý không biết gì về khả nãng của học sinh Việt Nam và theo họ, một nýớc thýờng xuyên trải qua những cuộc chiến tranh khủng khiếp và triền miên nhý thế thì làm sao dân chúng có thể học hành đến nõi đến chốn đýợc!
Thất bại ở trýờng Sydney, tôi quay sang xin vào học ở trýờng Đại học Macquarie, một trýờng týõng đối nhỏ hõn trýờng Sydney (khoảng 20 ngàn sinh viên), nhýng có tiếng tốt về môn toán thống kê mà tôi muốn theo đuổi\. Ở đây, tôi đýợc một ông giáo tên là Donald McNeil, nguyên là giáo sý ở trýờng Đại học Princeton (Mỹ) mới về, trực tiếp phỏng vấn\. Sau khi hỏi sõ qua về vài lĩnh vực chuyên môn, ông ta nói tôi có thể sẽ không đủ khả nãng theo học chýõng trình cao học (masters), và chỉ cho tôi học chýõng trình Graduate Diploma (thấp hõn cao học) về toán mà thôi\. Ông ta nói nếu tôi học "đýợc" một nãm thì sẽ cho sang học chýõng trình cao học\. Tôi mừng lắm và tự nhủ mình sẽ quyết chí học hành cho ra hồn, cho "bọn Tây" này biết mặt!
Ngày đầu tiên vào giảng đýờng đại học Úc, tôi hõi sốc về cái tính lè phè của học sinh và thầy giáo\. Lớp học chỉ có khoảng 15 học sinh, phần đông là nam\. Họ ãn uống tự nhiên và ãn mặc\... không giống ai\. Anh chàng giảng viên cũng ãn mặc rất "bụi đời", không có vẻ gì là một ông tiến sĩ mà tôi thýờng týởng týợng cả\. Nhýng tôi đã gặp ngay khó khãn ngay từ ngày đầu vào giảng đýờng: tôi chẳng hiểu anh ta đang nói gì vì khả nãng nghe của tôi còn quá hạn chế\. Tuy nhiên, khi anh ta viết trên bảng thì tôi lại đoán biết anh ta đang dạy gì\. Vì không hiểu bài trên lớp nên hàng đêm tôi phải ngồi lại ở thý viện để đọc sách và làm bài\. Không đêm nào tôi về tới nhà trýớc 10 giờ khuya\. Song, chỉ khoảng ba tháng sau, tôi đã lấy lại tự tin của mình và bắt đầu nhận ra là chýõng trình học của họ cũng chẳng có gì là "ghê gớm" lắm, nếu không muốn nói là thấp so với chýõng trình toán mà tôi đã từng học ơ? Việt Nam\. Một hôm anh chàng giảng viên đang lúng túng giải một bài toán đa tích phân (multiple integration), tôi giõ tay xin giải hộ\. Anh ta và cả lớp tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn tôi, một tên học sinh thýờng ngày có vẻ rụt rè, nhút nhác, lại dám làm chuyện này! Tôi ngang nhiên lên bảng, "biểu diễn lả lýớt" một đýờng toán làm họ kinh ngạc hõn\. Sau vài lần nhý thế, tiếng đồn tới ông giáo sý McNeil\. Nên chỉ sáu tháng sau, ông McNeil đã cho tôi theo học chýõng trình cao học mà không phải qua chýõng trình Graduate Diploma\. Tôi còn đýợc cho một việc làm phụ giảng cho học sinh chýõng trình cử nhân\.
Từ đó, tôi lấy lại niềm tin và mạnh dạn hõn trên đýờng làm lại sự nghiệp\. Trong khi học ở trýờng Macquarie, tôi xin đýợc một công việc làm thý ký cho một trung tâm nghiên cứu thuộc Bô. Y tế tiểu bang New South Wales\. Trong vai trò thý ký, tôi chỉ có nhiệm vụ thu thập số liệu và phụ giúp đem các số liệu này vào máy vi tính (microcomputer), lúc đó còn dùng hệ điều hành CP/M\. Trong nhóm, chỉ có ba bác sĩ biết cách dùng máy vi tính để phân tích số liệu\. Họ huấn luyện tôi cách dùng máy vi tính và tôi cảm thấy thích thú khi làm việc với máy tính\. Nhýng tôi tự học nhiều hõn những gì họ chỉ tôi\. Liên tục nhiều tháng trời, tôi tự học cách viết chýõng trình bằng ngôn ngữ FORTRAN, cách điều khiển và liên kết các máy với nhau, v.v\... Một hôm, tôi thấy ông bác sĩ giám đốc đang để tâm giải một bài toán thống kê loại rất cãn bản\. Tôi xem cách ông ta làm và tỏ ý muốn giúp: "Tôi có thể giúp ông giải quyết việc này"\. Ông ta nhìn tôi một cách khinh khi và nói: "Anh làm không đýợc đâu, việc này phức tạp lắm"\. Tôi cảm thấy chạm tự ái và mạnh bạo thách thức: "Nếu tôi giải không xong trong vòng 5 phút, ông có thể cho tôi nghỉ việc"\. Ông giám đốc nhìn tôi một cách lạ lùng và nói "Đýợc rồi, làm đi!" Ngay sau đó, tôi đýợc chỉ định mở lớp dạy lại cho tất cả các nhân viên trong nhóm cách dùng, cách viết chýõng trình để giải các bài toán thống kê\. Từ đó, tôi đýợc chính thức bổ nhiệm tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hệ thống y tế công cộng\. Tôi cảm thấy sự miệt mài của mình đã có chút thành quả\. (Thực ra, bây giờ hồi týởng lại, tôi thấy những công việc làm lúc đó quá sõ đẳng và chẳng có gì đáng phải tuyên dýõng, tự hào)\.
Sau khi xong luận án cao học ở trýờng Macquarie, tôi lại chuyển sang trýờng Đại học Sydney\. Lần này tôi về lại đây để dạy học (11) đồng thời theo học chýõng trình tiến sĩ với ông giáo sý Alan Woodman\. Tôi vẫn còn nhớ "mối thù làm phân số", nên sau khi xong thủ tục hành chính, tôi tìm lại ông viên chức ngày trýớc để hỏi lại câu hỏi vô duyên "Ông biết làm phân số không?"\. Ông công chức giờ đây đã già, nhìn tôi ngõ ngác chẳng hiểu tôi nói gì\. Tôi kể lại cái giây phút lịch sử bốn nãm về trýớc cho ông nghe; ông ta ôm tôi xin lỗi rối rít và nói là không có ý xúc phạm, mà chỉ là một câu hỏi đùa\. Chẳng biết sao lúc đó khi nghe ông ta nói thế, tôi lại rất hối hận và thấy mình quá sai; tôi thấy thái độ ãn thua đó của mình quá ấu trĩ và tự thấy mình xấu hổ\. Tôi tự nhủ và quyết tâm gột rửa cái "Việt Nam tính" từ đó\. Bây giờ nhắc lại câu chuyện này tôi vẫn còn thấy mình xấu hổ\.
Đầu nãm 1991, sau khi xong luận án ở trýờng Sydney, tôi đýợc may mắn bổ nhiệm làm nghiên cứu viên (Research Fellow) ơ? Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Garvan Institute of Medical Research), một trong 10 viện nghiên cứu y khoa hàng đầu trên thế giới\. Viện này là một trung tâm đào tạo chuyên khoa cho trýờng Đại học New South Wales và Bệnh viện St Vincent''s, nõi tôi làm phụ bếp khoảng 9 nãm trýớc đó (12)\. Viện Garvan có khoảng 300 nhà khoa học với trình độ tiến sĩ hay cao học từ nhiều quốc gia trên thế giới nhý Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, v.v\... nghiên cứu trong các lĩnh vực ung thý vú (breast cancer), loãng xýõng (osteoporosis), sinh học thần kinh (neurobiology) và nội tiết (metabolism)\. Tôi làm trong bộ môn loãng xýõng cùng một giáo sý hàng đầu trong ngành là John A\. Eisman, ngýời sau này trở thành một ngýời thầy và bạn thân của tôi\.
Tôi dồn tâm trí vào việc học hành và nghiên cứu về nội tiết, xýõng và bệnh loãng xýõng, từ các vấn đề sinh học cãn bản tới lâm sàng\. Mýời nãm nghiên cứu trong lĩnh vực này, tôi và đồng nghiệp cũng gặt hái đýợc nhiều kết quả đáng kể\. Vài đóng góp của tôi trong ngành tập trung vào ba chủ đề: xác định các yếu tố dẫn đến sự mất xýõng, chứng loãng xýõng trong đàn ông và di truyền học trong xýõng\. Nãm 1994, trong một bận tán gẫu bên bàn cà phê ở một quán nýớc vùng Darlinghurst, tôi và hai anh nghiên cứu sinh tên là Nigel Morrison (ngýời Úc) và Qi Jiang (ngýời Trung Quốc) nảy ra ý týởng nghiên cứu vai trò của di truyền tố vitamin D receptor (còn gọi tắt là VDR gene) trong xýõng\. Sau nhiều tháng làm việc cật lực và cãng thẳng, nhóm tôi đã khám phá ra sự liên hệ giữa di truyền tố này và mật độ xýõng trong một nhóm phụ nữ sinh đôi\. Khám phá này đýợc công bố trên "Nature", tờ tạp chí khoa học hàng đầu trên thế giới, và lần lýợt đýợc đề cập trên hầu hết các hệ thông tin đại chúng nhý "The Times", "Newsweek", "New York Times", "Los Angeles Times", "Sydney Morning Herald", "The Australian", "The Telegraph" (London), v.v\... Tôi và ông Eisman đã rất bận trong việc trả lời phỏng vấn của các phóng viên, nhà báo quan tâm\. Tuy nhiên, trong chuyên ngành, khám phá của chúng tôi đã gây ra rất nhiều cuộc tranh luận trên thế giới và tôi đã phải tiêu khá nhiều thời gian, "đầu tắt mặt tối" để bảo vệ quan điểm của mình\. Tính tới nay, kể từ ngày đýợc công bố trên "Nature", đã có gần nãm trãm bài báo khoa học trong lĩnh vực này\. Qua việc làm này, tôi và ông Eisman đýợc trao tặng một số giải thýởng ơ? Úc, Âu châu và Mỹ nhý "Giải thýởng dành cho các nhà nghiên cứu trẻ" (Young Investigator Award), "Xuất sắc trong nghiên cứu bệnh loãng xýõng" (Outstanding Research in Osteoporosis), "Giải thýởng Neumann" (Neumann Award, dành cho ngành nghiên cứu xýõng), v.v\... Qua cách thức xét duyệt và trao giải thýởng, tôi mới nhận ra vài điều thú vị: thứ nhất, nhiều giải thýởng đýợc trao không hẳn chỉ dựa trên thành tích khoa bảng xuất sắc mà phần lớn lại nhờ vào sự móc ngoặc và vận động (lobby) của ngýời đýợc trao giải; thứ hai, nhiều giải thýởng mặc dù có những cụm từ rất kêu nhý "outstanding", "excellence", "distinction", v.v\... nhýng thực tế lại không phản ánh đúng khả nãng của ngýời đýợc giải\. Cũng tại viện Garvan này, tôi đã viết thêm một luận án về y khoa (medical epidemiology) tại Đại học New South Wales, sau nãm nãm trời học tập và nghiên cứu\. Luận án đó đýợc "Hội đồng Khoa bảng" (Academic Board) đánh giá khá cao, đýợc bình bầu là "Luận án xuất sắc trong nãm" (The Best Doctoral Thesis Award)\. Tuy nhiên, nhý đã nói ở trên, thực tình tôi không quan tâm và không đặt nặng mấy về các giải thýởng đó, mà chỉ chú tâm vào định hýớng trong nghiên cứu, mang lại kiến thức mới cho chuyên ngành (13).
Duyên nợ xứ Cờ Hoa
Đầu nãm 1997, tôi sang Mỹ dự hội nghị thýờng niên về xýõng tại thành phố Cincinnati, thuộc tiểu bang Ohio\. Trong hội nghị này, tôi đýợc đề cử làm đồng chủ tọa (co-chair) một phiên họp về di truyền trong xýõng (genetics of bone mass)\. Sau giờ giải lao, một đồng nghiệp ngýời Mỹ đến tự giới thiệu và làm quen\. Anh nói đại ý những câu xã giao lịch sự mà tôi đã nghe quá nhiều lần trong quá khứ, rằng anh ta đã biết tên tôi từ mấy nãm nay và hôm nay hân hạnh đýợc dịp gặp mặt\. Anh ta mời tôi, sau khi xong hội nghị, về thành phố Dayton để thỉnh giảng\. Tôi vui vẻ và lịch sự nhận lời, nhýng trong thâm tâm vẫn nghĩ là một lời mời viển vông\. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, trong khi còn đang dự hội nghị, tôi nhận đýợc một bao thý kèm theo một giấy mời của trýờng Đại học Wright State và một vé máy bay\. Tôi hõi ngỡ ngàng, nhýng nghĩ thầm: "Họ cho vé thì mình cứ đi!"
Tôi bay đến Dayton theo lời mời để nói về những việc mình đã làm trong lĩnh vực loãng xýõng\. Xong buổi nói chuyện, ông khoa trýởng y khoa có nhã ý mời tôi qua làm việc với họ vài nãm\. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên và thích thú\. Ngạc nhiên là mặc dù trýớc đây tôi đã từng sang Mỹ làm việc, họp hội nghị ít nhất là 15 lần và tôi cũng có rất nhiều đồng nghiệp ơ? Mỹ, nhýng tôi chýa từng nghĩ đến chuyện phải bo? Úc để qua Mỹ làm việc\. Thích thú là vì tôi thấy hay là mình làm một chuyến viễn du chõi qua Mỹ cho biết\. Nghĩ thế, tôi bèn trả lời là tôi sẽ suy nghĩ lại đề nghị của ông ta\. Sau hai ngày thãm trýờng Wright State và trao đổi với vài giáo sý ở đây, đến ngày tôi phải bay về làm việc trong trýờng Đại học California tại San Diego\. Ông khoa trýởng đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi của tôi: ông đã mýớn một chiếc xe limousine bóng loáng để chở tôi về lại Cincinnati và từ đó bay về California\. Lần đầu tiên trong đời đýợc ngồi trên chiếc xe limousine thýợng hạng, tôi thấy mình lúng túng, chẳng biết dùng nút bấm nào cho TV, nút nào mở máy hát, tủ lạnh, v.v\... Nhýng anh tài xế, trong bộ đồ nhý ông týớng nhà binh, ân cần chỉ cho tôi cách điều khiển hệ thống điện tử này\. Ngồi một mình trong xe rất tiện nghi, tôi thýởng thức quang cảnh bao la của miền Trung phía Tây nýớc Mỹ, và thỉnh thoảng nghĩ ngông rằng mình là nhà kinh doanh đang đi du lịch hõn là ngýời làm khoa học! Ông khoa trýởng còn dành cho tôi một sự ngạc nhiên hõn: chiều hôm đó, ông và ba giáo sý khác lái xe lên tận khách sạn tôi ơ? Cincinnati mời tôi ãn tối tại một nhà hàng sang trọng (mà sau này tôi đýợc biết là đắt tiền vào bậc nhất ở thành phố này)\. Sáng hôm sau, trên máy bay về lại California, tôi cứ cảm kích mãi tấm lòng của ông khoa trýởng và đồng nghiệp của ông, và chẳng hiểu tại sao họ lại tử tế với mình nhý thế\.
Về lại Úc, tôi lại bị lôi cuốn vào công việc hàng ngày và quên đi "mối tình" với Wright State\. Tuy nhiên, khoảng cuối nãm 1997, ông khoa trýởng gửi cho tôi một lá thý báo rằng ông ta đã vận động thành công để "tạo ra" (create) một chức vụ giáo sý mới và mời tôi đệ đõn\. Không muốn làm phật lòng ngýời tốt bụng với mình, tôi gửi một lá thý và một bản lý lịch rất sõ sài\. Khoảng hai tuần sau, ông khoa trýởng điện thoại cho tôi biết là "Hội đồng Bổ nhiệm Khoa bảng" (Academic Appointment Committee) đã đồng ý bổ nhiệm tôi vào phân khoa y của trýờng Wright State\. Tôi không ngờ sự việc lại xảy ra một cách nhanh chóng nhý thế\. Lúc này thì tôi mới biết chuyện đi Mỹ làm việc không còn là trò đùa lịch sự nữa mà đang thành sự thật\. Thực ra, họ đã đi "đýờng tắt" trong việc làm này (theo đúng nguyên tắc và qui định hành chính, họ phải quảng cáo trên các tạp chí quốc tế trýớc khi bổ nhiệm, và thông thýờng phải tốn cả nãm mới bổ nhiệm đýợc một giáo sý)\. Nhýng ngýời Mỹ, với một bản nãng cực kỳ thực tế, đã từng làm những chuyện tày trời khác nhý ngang nhiên dội bom xuống xứ sở ngýời khác, âm thầm tổ chức đảo chính các chính phủ dân chủ, đi đêm với kẻ thù, v.v\... thì sá gì chuyện họ đi tắt trong việc tổ chức mua khoa bảng nýớc ngoài! Tôi lại khãn gói lên đýờng, đi xa Việt Nam hõn nữa để làm một chuyến viễn du, "tỵ nạn" lần thứ hai\.
Nýớc Mỹ: ghét để thýõng
Nói chung, nýớc Mỹ đã đối đãi với tôi rất ân cần và có thể nói là cũng rất ýu ái\. Tất cả các cõ sở vật chất và điều kiện nghiên cứu, giảng dạy đều đýợc nhà trýờng đáp ứng đầy đủ, không thể nào chê đýợc\. Tôi còn đýợc hýởng nhiều đặc ân mà ngay cả những đồng nghiệp ngýời bản xứ đôi khi phải so bì\. Nhýng ngýời Mỹ rất thực tế: họ không ngần ngại cho tôi biết rằng nhà trýờng coi việc bổ nhiệm tôi là một cuộc đầu tý khoa bảng\. Họ đầu tý vào tôi và kỳ vọng tôi phải làm việc có hiệu quả, phải mang lại tài trợ cho nhà trýờng, và qua đó mang lại danh tiếng cho nhà trýờng\. Cho đến nay, có thể nói rằng họ đã không "lỗ vốn" vì trong vòng hai nãm đầu, tôi đã thiết lập thành công một nhóm nghiên cứu về xýõng trong khoa y, và nhóm tôi cũng đã mang lại cho nhà trýờng một số tài trợ khá lớn\. Tôi cũng thiết lập đýợc mối liên lạc giữa các cõ quan nhý Bô. Y tế tiểu bang, các hiệp hội địa phýõng và trýờng đại học\.
Trong thời gian ơ? Mỹ, tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn\. Nhiều hõn ơ? Úc\. Đối với tôi, Mỹ là một nýớc mà tôi rất "ghét để thýõng"\. Tôi ngýỡng mộ sự thành công của nýớc Mỹ và tinh thần làm việc của ngýời Mỹ\. Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, nýớc Mỹ vẫn là xứ sở của cõ hội, là miền "đất hứa" để những ai có thực tài thi thố tài nãng\. Tôi thấy ơ? Mỹ ai cũng có cõ hội để thành công, miễn là phải chịu khó\. Dĩ nhiên\. Nýớc Mỹ biết dùng (hay biết bóc lột) ngýời có tài và sẵn sàng nâng đỡ ngýời chịu khó làm việc, học hành\. Hãy so sánh một trýờng hợp tiêu biểu về sự nghiệp của một sinh viên mới tốt nghiệp tiến sĩ ơ? Pháp hay ơ? Úc và đồng nghiệp của anh ta ơ? Mỹ\. Ơ? Pháp hay Úc, chàng nghiên cứu sinh này sẽ phải "lận đận lao đao" trong nhiều nãm làm hậu tiến sĩ (Postđoctoral research) trýớc khi trở thành một nhà nghiên cứu độc lập hay có thể chỉ huy một nhóm nghiên cứu; ngay cả khi đã là một nhà nghiên cứu độc lập, anh ta sẽ vô cùng gian nan khi xin tài trợ, vì phải cạnh tranh với những ngýời cấp cao hõn nhý thầy của anh ta\. Trong khi đó ơ? Mỹ, đồng nghiệp anh ta, chỉ sau một hay ba nãm (hay thậm chí không qua nãm nào) làm hậu tiến sĩ, đã trở thành giáo sý, đýợc nâng đỡ và tài trợ để trở thành một nhà khoa học độc lập! Thành ra, không ai ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà khoa học trẻ tài nãng ở các nýớc Âu, Á và Úc châu đều tranh nhau đi Mỹ làm việc\. Những ngýời này đã góp một phần lớn đýa nýớc Mỹ vào vị thế siêu đẳng trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật ngày nay\. Trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học Mỹ đã mang về cho nýớc họ khoảng 60% các giải thýởng Nobel về khoa học và kinh tế học (so với 15% những nãm trýớc 1945)\. Thành tích này có sự đóng góp đáng kể của các nhà khoa học nýớc ngoài làm việc ơ? Mỹ\. Ngay cả ngày nay, mặc dù đã ở vào vị thế vô đối thủ trong khoa học, Mỹ vẫn có chính sách ýu tiên cho nhập cý ngýời có tài từ các nýớc trên thế giới\.
Mỹ là một nýớc đa quốc gia\. Do đó, Mỹ có đầy đủ những cái xấu và cái đẹp của thế giới\. Bên cạnh những bộ óc siêu việt cũng có những con ngýời ù lì nhất thế giới; ngoài những sinh viên sáng dạ nhất cũng có nhiều sinh viên làm con toán phân số không rành; bên cạnh những ngýời Mỹ tử tế cũng có những con ngýời kỳ thị khủng khiếp\... Nếu phải minh họa đạo lý nýớc Mỹ bằng một biểu đồ, tôi đoán rằng biểu đồ đó sẽ có hình cái chuông: số lýợng ngýời xấu xa ở phía bên trái sẽ týõng đýõng với số lýợng ngýời tuyệt vời ở phía bên phải, và phần đông những con ngýời bình thýờng dễ mến sẽ nằm chính giữa của biểu đồ\. Hõn mýời nãm ơ? Úc, một nýớc có tiếng kỳ thị chủng tộc, tôi chýa bao giờ gặp một thái độ phân biệt chủng tộc; nhýng một thời gian ngắn ơ? Mỹ lại cho tôi "nếm mùi" phân biệt đối xử qua một kỷ niệm nhỏ\. Một hôm, tôi đi thãm một anh bạn ngýời Mỹ ở thành phố Detroit (Michigan), nõi mà 90% dân số là ngýời da đen (hay nói cho đúng hõn, là "ngýời Mỹ gốc Phi châu")\. Tôi và anh bạn lái xe đến một quán ãn McDonald; sau khi đặt mua vài món ãn trýa và trả tiền ở quầy tính tiền, tôi lái đến quầy khác để nhận thức ãn, nhýng chờ cả 5 phút mà chẳng thấy ai phục vụ, trong khi đó phía sau xe tôi có cả 5 chiếc xe khác đang chờ\. Anh bạn tôi giục tôi phải rời ngay kẻo sẽ gặp trở ngại! Tôi không hiểu gì, nhýng thấy nét mặt anh ta nghiêm trọng hối thúc, nên cũng đành phải rời quán\. Anh bạn thản nhiên giải thích rằng có lẽ nhân viên bán hàng thấy anh là ngýời da trắng nên họ không muốn phục vụ! Trong khi tôi tiếc vì đã mất toi cả mýời đô-la mà bụng thì đói meo, anh bạn tôi lại không hề tỏ ra một lời nói tức giận hay một cử chỉ hằn học\. Dýờng nhý đó là một điều anh ta thýờng hay gặp phải\. Tôi hy vọng và tin rằng đó chỉ là một trýờng hợp biệt lập và tôi tuyệt nhiên không có ý ám chỉ nó đại diện cho sự týõng giao giữa hai sắc dân TrắngđDen ở nýớc Mỹ\. Trong thực tế, tôi có nhiều đồng nghiệp ngýời da trắng và chýa ai trong họ có thái độ hay lời nói để tôi có thể cho là "kỳ thị chủng tộc"\. Hay là họ biểu lộ nó ở một mức độ tinh tế hõn chãng\?
Nhýng tôi thấy một số chính khách ngýời Mỹ thật khó ýa\. Trong một bài diễn vãn đọc ở tiểu bang California, Ronald Reagan, nguyên tổng thống Mỹ, đã ta? Mỹ nhý "...một quốc gia do Thýợng đế ban cho, nằm giữa hai đại dýõng; một cãn nhà sáng chói trên đồi, một ngọn hải đãng soi sáng cho cả thế giới" (14)\. Những ngýời nhý Reagan có vẻ tự cho Mỹ cái quyền làm "sen đầm quốc tế", thích đi gây hấn với thiên hạ nhý một tên côn đồ chuyên nghiệp\. Tôi đã thấy các thýợng nghị sĩ, lãnh đạo chính trị và giới truyền thông Mỹ bàn luận với nhau trên TV về phýõng pháp trừng phạt nýớc này, cách thức trừng trị nýớc kia, bế môn tỏa cảng nýớc nọ, v.v\... làm nhý thế giới này nằm dýới quyền điều khiển của Mỹ! Có lẽ vì cái tâm tính này mà bộ máy quân sự của họ đã trực tiếp gây ra biết bao tan tóc trên nýớc Việt Nam trong thời chiến tranh\.
Một điều tôi thấy ngạc nhiên là một số không nhỏ ngýời Việt tỵ nạn ơ? Mỹ cũng có thái độ rất "gung-ho" và cách suy nghĩ ngạo mạn, tự phụ nhý của ngýời Mỹ bản xứ\. Đối với những ngýời Việt này, Mỹ là cái nôi vãn minh của nhân loại; mọi thứ đều xuất phát từ Mỹ và thế giới đang hýởng ân huệ của Mỹ; chỉ có Mỹ mới là nýớc mà tự do và phẩm giá cá nhân đýợc tồn tại và bảo đảm\. Từ đó, họ tự suy ra rằng họ là những đỉnh cao trí tuệ (nhý có lần những ngýời cộng sản ơ? Việt Nam thýờng tự nhận), là những ngýời Việt ýu việt trong tất cả ngýời Việt trên thế giới\. Có lẽ vì không chịu mở tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài nýớc Mỹ nên một số không ít ngýời Mỹ gốc Việt thiếu kiến thức cãn bản về thế giới chung quanh họ, nhýng họ lại cố tỏ ra là những ngýời thông thái một cách rất khôi hài và tội nghiệp\. Có lần tôi ghé thãm trýờng Đại học Boston và gặp một bác sĩ ngýời Việt; anh ta huyên thuyên bình luận về tình hình kinh tế, chính trị xứ Úc và tỏ ra ngạc nhiên là "tiếng Úc" cũng giống "tiếng Mỹ"! (Phần đông ngýời Việt ơ? Mỹ nghĩ là họ nói và viết tiếng Mỹ, chứ không phải tiếng Anh!?) Cũng may phýớc là anh ta không biết quê hýõng thứ hai của tôi là Úc châu! Có lần, tôi đi dự một buổi tiệc ở gia đình một anh bạn tại Ohio, các anh bạn ngýời Mỹ gốc Việt đều đồng ý rằng nýớc Đức quá "lạc hậu" đến nỗi dân chúng ở đó không biết dùng thẻ tín dụng (credit cards)! Tôi týởng mình nghe lầm\. Nhýng không: họ nhắc nhắc lại cái điệp khúc cực kỳ vô lý đó, và hỉ hả kết luận rằng trên thế gian này chỉ có Mỹ là nýớc vãn minh nhất\. Điều làm tôi kinh ngạc hõn là các anh này đều có trình độ học vấn đại học ơ? Mỹ! Khi ghé California, tôi bày tỏ ý định đi Anh làm việc, nhiều bạn bè ngýời Việt nhìn tôi với ánh mắt e ngại nhý thầm chia buồn với tôi nỗi "bất hạnh" phải về vùng địa ngục!
Trong thời gian ơ? Mỹ, tôi cũng có cõ duyên đýợc đọc nhiều báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ\. Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ quá phong phú\. Chỉ riêng ở vùng Little Saigon mà đã có hàng trãm tờ báo lớn nhỏ! Nhýng ngoài một số rất ít báo có phẩm chất cao, phần còn lại có thể cho là "bát nháo"\. Đại đa số các báo đều có mục tin tức liên quan tới Việt Nam\. Nhýng khác với các báo ngoại quốc thýờng týờng thuật, đýa tin về Việt Nam rất thẳng thắng, không mặc cảm, không trói buộc, các báo Việt ngữ ơ? Mỹ lại loan tin một cách rất chọn lựa và có chủ ý\. Dù không trực tiếp nói ra, nhýng chủ ý của họ là cố tạo ra một ấn týợng xấu về Việt Nam và những ngýời cầm quyền ở trong nýớc\. Họ không ngần ngại viết đại loại nhý "toàn bộ hạ tầng cõ sở xã hội, hệ thống giá trị đạo đức trong nýớc đang bị tan rã, hỗn loạn, mất hýớng, vô đạo đức..."\. Họ lấy tin từ Việt Nam, rồi thêm thắt, soạn lại với những lời lẽ nặng nề cảm tính, xúc động, lờ đi sự thật để nuôi dýỡng những hận thù vô lý\. Tôi có cảm giác là báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ vẫn còn bị lẫn lộn giữa chức nãng của ngýời làm việc thông tin và hýớng dẫn dý luận hay dùng báo chí làm diễn đàn chính trị\. Nhiều ngýời làm báo tự cho mình cái độc quyền hýớng dẫn dý luận, không cho đãng những bài báo có nội dung khác với ý của họ\. Nếu tờ báo là của đoàn thể chính trị thì điều đó không có gì đáng nói, nhýng là báo làm thông tin cũng tự cho mình quyền tuyên truyền và hýớng dẫn quần chúng! Ngoài ra, có lẽ do nhiễm thái độ tự cao tự đại của ngýời Mỹ, một số trong giới làm truyền thông Việt ngữ ơ? Mỹ cũng có thái độ phách lối, tự cho họ là những ngýời hýớng dẫn dý luận cho ngýời Việt ở hải ngoại\. Đối với họ, các báo Việt ngữ ở các nýớc khác chỉ là "báo výờn" và họ không cần để ý hay biết tới\.
Tôi nghĩ ngýời Việt tỵ nạn ơ? Mỹ có tinh thần quốc gia rất cao (so với ngýời tỵ nạn ơ? Úc hay Âu châu), và trong số này có nhiều ngýời yêu nýớc Mỹ giàu mạnh hõn nýớc Việt Nam nghèo yếu! Khi cố tổng thống Richard Nixon, ngýời chủ trýõng chính sách leo thang chiến tranh ơ? Việt Nam và ra lệnh ném bom xuống Hà Nội mýời hai ngày đêm liền, qua đời, tôi thấy một số ngýời Việt Nam ơ? California tham gia đýa linh cữu ông ra mộ và khóc rất thảm thiết, không khác gì đýa tiễn ngýời thân trong gia đình về phía bên kia thế giới\. Khi lính Mỹ sang tham chiến, dội bom ơ? Kosovo và Iraq, một số trong giới truyền thanh Việt ngữ ơ? California cũng lên đài cầu nguyện Thýợng đế mang lại sự an lành cho những ngýời lính viễn chinh này\. Tôi nghĩ nýớc Mỹ quả rất may mắn khi có những ngýời con trung thành đến mức ấy! Cố nhiên, không phải ngýời Việt nào ơ? Mỹ cũng bị "Mỹ hóa" nhý thế\. Trong thực tế, tôi cũng gặp và kết bạn thân với nhiều ngýời Việt Nam ơ? Mỹ, kể cả những anh chị ra đi từ miền Bắc, cực kỳ tốt lòng, đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian đầu ổn định cuộc sống ơ? Ohio (15).
Một vài suy tý & Nhìn về týõng lai
Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cý vĩ đại chýa từng có trong lịch sư? Việt Nam\. Tôi cũng nằm trong cõn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam\. Nhýng bây giờ, nhìn lại quãng đýờng đời và kinh nghiệm đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hýõng, tôi lại thừa hýởng đýợc một may mắn rất lớn: có cõ hội học tập và tiếp cận với những tri thức tiên tiến hàng đầu\. Các nýớc Tây phýõng nhý Mỹ, Úc, Pháp, v.v\... đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cõ hội bình đẳng với công dân của họ hầu nhý trong mọi lĩnh vực, kể cả đýợc trợ giúp để theo học ở những trýờng hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trãm nãm để gây dựng\. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả\. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ\. Khi tốt nghiệp, tôi đýợc khuyến khích, giúp đỡ để theo đuổi làm việc, nghiên cứu trong các lĩnh vực hàng đầu\. Nói chung, tôi đã đýợc thụ hýởng những cõ hội mà khi còn ở trong nýớc, tôi chẳng dám mõ tới\.
Song, so sánh với đồng nghiệp nýớc ngoài, tôi mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ý là ghê gớm\. Có thể nói so với các bạn trẻ ngày nay, tôi và nhiều ngýời cùng thế hệ là những "trâu chậm uống nýớc đục"\. Một ngýời ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40\. Trong khi đó, ở tuổi hai mýõi, vì hoàn cảnh lịch sử, tôi chẳng làm gì đýợc nhiều\. Khi xong tiến sĩ, tôi đã trở thành một trung niên hõn "tam tuần", trýớc một týõng lai còn rất xa, vô định, mà quá khứ thì đầy đau khổ, mịt mù: "Tuổi ba mýõi ta sống tháng ngày xa lạ - Tuổi ba mýõi ta có quá khứ mịt mù" (16)\. Ở những nãm cuối tuổi 30, tôi mới có dịp cống hiến\. Mà, cần phải nói ngay và nói rõ rằng những gì tôi đạt đýợc trong vài nãm qua chỉ là những đóng góp rất nhỏ trong khoa học; nó chýa xứng đáng đýợc đề cao và chýa phải là những đóng góp mà tôi muốn tự hào\.
Những nãm còn ở trong nýớc, tôi đã đọc nhiều bản tin về sự thành công výợt bực, có khi phi thýờng, của ngýời Việt hải ngoại\. Tôi đã từng nghe nhiều mẩu chuyện về những đóng góp quan trọng trong y khoa, khoa học không gian, toán học, vật lý học, v.v\... mà lấy làm tự hào cho ngýời Việt mình lắm\. Có lần, tôi đọc đýợc một lời tán dýõng về một giáo sý gốc Việt ơ? Mỹ nhý sau: "Nếu viết về tiểu sử của ông thật đầy đủ chi tiết thì cả tuyển tập này cũng không đủ, vì ở ông là cả một bầu trời rực rỡ ánh hào quang, và có rất nhiều huyền thoại về ông tuyệt vời nhý những câu chuyện thần thoại hoang đýờng"\. Một lời khen hết sức ấn týợng! Nhýng khi ra nýớc ngoài, có cõ hội tìm hiểu, đối chiếu trong kho tàng khoa học thế giới, tôi mới biết phần lớn những mẩu chuyện mình từng nghe biết ngày xýa quả đúng là những\... huyền thoại hoang đýờng\. Theo tôi, những cống hiến của các nhà khoa học gốc Việt cho khoa học thế giới còn rất khiêm tốn, và có thể nói là không đáng kể\. Cho tới nay, mặc dù cũng có vài nhà khoa học gốc Việt rất sáng giá và có uy tín trên thế giới trong các ngành nghiên cứu hẹp, nhýng theo tôi biết, vẫn chýa có ngýời nào đýợc bầu vào các hàn lâm viện ơ? Mỹ, Úc, hay chiếm các giải thýởng lớn nhý giải Nobel và Field Prize (trong toán học)\. Cũng theo tôi biết, chýa có khám phá nào của ngýời Việt Nam đýợc xem là có tầm cỡ quốc tế hay có giá trị thýõng mại lớn\. Trong hoạt động khoa học, số lýợng các bài báo đã đýợc công bố trên các tạp chí khoa học thýờng đýợc xem là một trong những chỉ số về nãng suất nghiên cứu và một thýớc đo về sự cống hiến cho kiến thức nhân loại\. Theo ýớc tính của tôi, trong suốt 25 nãm qua, các nhà khoa học gốc Việt ở hải ngoại đã cống hiến khoảng 14.000 bài báo khoa học trên các tạp chí y khoa, hóa học và sinh học\. Nếu đem con số này so với số lýợng của cả nýớc Thailand (5.200), Mã Lai (2.100) hay Singapore (6.900) thì đây là con số không nhỏ, nhýng nếu so với các cộng đồng sắc tộc khác nhý ngýời Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Ấn Độ, v.v\... thì con số này còn rất khiêm nhýờng.
Mặc dù trên trýờng quốc tế, các trí thức Việt Nam ta chẳng có cống hiến gì đặc biệt và thýờng rất khiêm tốn trýớc ngýời ngoại quốc, nhýng khi về lại với cộng đồng, họ lại rất hãng hái kể công và khệnh khạng với bằng cấp, chữ nghĩa, hù dọa bắt nạt đồng hýõng kém may mắn hõn họ\. Một số ngýời, do thiếu kinh nghiệm trong hoạt động khoa học hoặc do hám danh, đã tự họ quảng cáo một cách hết sức ngô nghê và tội nghiệp\. Những quảng cáo nhý "Ngýời Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp..." hay "Ngýời Việt Nam đầu tiên đýợc bổ nhiệm chức..." thực ra chẳng có ý nghĩa gì, nếu không muốn nói là rất khôi hài\. Ngoài ra, còn có nhiều ngýời, do không thông thạo các tổ chức khoa học hay cố tình lòe đồng hýõng, bằng các danh xýng nhý "viện sĩ" Viện Hàn lâm Khoa học New York, hay "có tên trong" các cuốn danh bạ kiểu "Who is Who in the World"\. Thực ra, bất cứ ai, kể cả sinh viên, cũng có thể trở thành viện sĩ hay có tên trong các cuốn sách loại này nếu họ đồng ý trả một khoản lệ phí hàng nãm\. Nó chẳng phải là một danh dự, càng không phải là chứng nhận về sự thành đạt trong hoạt động khoa học\. Có lẽ vì cái tâm tính "khôn nhà dại chợ" vẫn còn rất phổ biến trong nhiều trí thức gốc Việt, những danh hiệu do mua bán và tự quảng cáo này vẫn còn nhan nhản trong cộng đồng và ngay cả ở trong nýớc.
Cách đây hõn 60 nãm, cu. Đào Duy Anh đã viết nhý sau khi nhận xét về tính cách của ngýời Việt: "Về tính chất tinh thần thì ngýời Việt Nam đại khái thông minh, nhýng xýa nay thấy ít ngýời có trí tuệ lỗi lạc phi thýờng\. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hõn trí khoa học, giàu trực giác hõn luận lý\. Phần nhiều ngýời có tính ham học, song thích vãn chýõng phù hoa hõn là thực học, thích thành sáo và hình thức hõn là tý týởng hoạt động\... Tính khí cũng hõi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ýa hý danh và thích chõi cờ bạc" (17)\. Tôi thấy, cho đến nay, những nhận xét này vẫn còn chính xác, nhất là trong giới trí thức Việt Nam ở hải ngoại\.
Mới đây, theo một thống kê đýợc nhà nýớc Việt Nam công bố, có khoảng hai triệu rýởi ngýời Việt hiện đang sống rải rác trên toàn cầu\. Trong số này, có khoảng 300 nghìn ngýời có tay nghề cao hay có trình độ đại học trở lên\. Đây là một con số không nhỏ, nếu so với con số một triệu ở trong nýớc\. Có ngýời đã lạc quan cho rằng lực lýợng trí thức hải ngoại này có thể chắp cánh cho Việt Nam bay vào thế kỷ 21 cùng với các nýớc trong vùng\. Nếu chỉ đọc qua những bản tin về sự thành công của giới trí thức gốc Việt ở hải ngoại thì niềm tin týởng trên cũng có cõ sở\. Nhýng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi lại thấy đó chỉ là ảo vọng\. Tôi thấy cần phải cảnh giác những lời bình phẩm có tính cách tự cao tự đại nhý ngýời Việt Nam ta hiếu học, học giỏi, thông minh, v.v\... Trong thực tế, học lực của phần đông học sinh gốc Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, thậm chí dýới trung bình\. Tôi đã thấy nhiều sinh viên Việt Nam gặp khó khãn và cũng khốn đốn "vật lộn" để thi đỗ vào các trýờng đại học ơ? Úc và Mỹ\. Ngýời Việt ta chýa chắc đã hiếu học, nhýng chắc chắn là hiếu bằng cấp, hõn các dân tộc khác\. Thực ra, ở các nýớc Tây phýõng, học hành ra trýờng để có một mảnh bằng là một việc không khó, nhýng trở thành xuất sắc là việc không dễ chút nào\. Và cũng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi có cảm giác rằng sinh viên gốc Việt cũng không có gì gọi là xuất sắc trong học hành hay nghiên cứu so với sinh viên ngýời bản xứ\. Có ngýời đạt đýợc những thành tích výợt bực trong khi còn đi học, nhýng khi tốt nghiệp lại không có đóng góp hay sáng kiến gì đặc biệt, đáng kể\.
Tôi vẫn thýờng tự hỏi tại sao ta lại quá kém trong hoạt động khoa học nhý thế\? Có thể nói từ xýa, nýớc ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học\. Đọc lịch sư? Việt Nam từ các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần và Nguyễn, ai cũng thấy nýớc ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thõ, nhà sử học, nhýng rất ít nhà khoa học, kỹ sý hay nhà kinh tế\. Hệ thống giáo dục của nýớc ta ngày xýa đýợc bắt chýớc theo mô hình giáo dục của Trung Quốc, đòi hỏi ngýời học sinh phải tuân thủ sách vở một cách máy móc và không khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm, hay chất vấn\. Nó ca ngợi, tuyên dýõng những ngýời thuộc làu những điều rãn dạy của Khổng Tử, và coi thýờng những ai làm nghề tay chân (kỹ sý, khoa học gia, công nhân, nông dân, v.v...) hay làm thýõng mại\. Khi ngýời Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc đýợc thay thế bằng hệ thống giáo dục Pháp, một hệ thống có mục tiêu là đào tạo ra những thầy thông, thầy phán, hay quan chức để thực thi đýờng lối, chính sách của kẻ cai trị\. Hậu quả là nó làm cho học sinh tiêm nhiễm cái tâm lý hám danh và sính bằng cấp, học ra để làm quan, làm ông nghè hay nhằm giật đýợc một mảnh bằng để làm rạng danh gia đình hay khoe cùng ngýời hàng xóm, chứ không nhằm đóng góp kiến thức hay mang lại phúc lợi cho xã hội và nhân loại\. Với hệ thống giáo dục này, học sinh phải học thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao\. Lối giáo dục này vẫn còn kéo dài tới những nãm trong thập niên 60 và 70 mà tôi (và nhiều ngýời cùng thế hệ) từng là những "nạn nhân" của nó\. Chúng tôi không đýợc khuyến khích tìm hiểu những sự việc, hiện týợng chung quanh chúng tôi xảy ra nhý thế nào và tại sao\? Kết quả cuối cùng là nhiều thế hệ học sinh không có cõ hội nghiên cứu khoa học\. Và quan trọng hõn nữa, phần lớn những kiến thức về Việt Nam, về dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam\.
Tôi đã nói nhiều về những điều mà có thể quí độc giả cho là bi quan, nhýng tôi cũng có vài lý do để giữ mình lạc quan trong týõng lai\. Trong những nãm gần đây, tôi nhận thấy sự góp mặt của các nhà khoa học gốc Việt trên các diễn đàn quốc tế càng ngày càng đông đảo\. Trong thập niên 70 và 80, trung bình hàng nãm, các nhà khoa học gốc Việt công bố khoảng 258 bài báo khoa học; con số này tãng lên 683 trong những nãm 1990 và 1995 và vọt lên 1.170 vào những nãm cuối thập niên 90\. Một sự tãng trýởng theo cấp số nhân! Thực vậy, càng ngày tôi càng gặp gỡ nhiều anh chị em trẻ trong các hội nghị khoa học lớn trên thế giới, và họ cũng có nhiều ýu tý, ýớc muốn đýợc có mặt nhiều hõn trên các diễn đàn y khoa và khoa học quốc tế, để góp phần mang tên tuổi Việt Nam vào tri thức của nhân loại\. Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều nghiên cứu sinh từ Việt Nam trong các trýờng đại học ơ? Mỹ, Âu châu và Úc đã gia tãng một cách nhanh chóng và ở nhiều nõi, họ đã tạo đýợc sự kính nể của ngýời bản xứ\. Một số đã đýợc bổ nhiệm làm giáo sý trong các trýờng đại học lớn tại Mỹ\. Hy vọng rằng giải Nobel sẽ tới tay một nhà nghiên cứu tre? Việt Nam trong thế kỷ 21\.
Trong một bài nhạc thịnh hành thời thập niên 80 mà tôi thýờng nghe trong trại tỵ nạn ơ? Thái Lan, nhạc sĩ Trịnh Công Sõn có hỏi: "Em còn nhớ hay em đã quên..."\. Câu hỏi nhýng mà cũng là câu trả lời\. Nhý nhiều ngýời cùng cảnh ngộ khác, tôi ra khỏi quê hýõng không phải để tìm cái quên hay sự chối bỏ quê hýõng; ở trong tôi luôn tồn tại một cảm giác nhớ nhung day dứt, dằn vặt\. Mà thực ra con ngýời nào chả thế, con ngýời chẳng qua chỉ là một chủ thể luôn phải gắn mình với một nõi chốn nào đó, luôn phải chứng kiến sự hiện hữu của mình bằng một sự gắn bó với một địa điểm cụ thể\. Sự gắn bó đó chỉ có thể tạo dựng cái gọi là nỗi nhớ\. Cái nõi chốn cụ thể kia có thể gọi bằng hai tiếng "quê nhà"\. Một lần lênh đênh nguồn cội, tôi mới nghiệm ra rằng tôi là ai, nõi chốn của tôi là chỗ nào\. Vì lẽ đó, tôi là ngýời mãi mãi phát hiện, phát hiện một sự thực hiển nhiên rằng: đi không phải là chối bỏ mà để bắt đầu cho việc trở về tốt hõn\. Tôi vẫn tin rằng sẽ có một ngày không xa, tôi sẽ quay về quê nhà, để làm tròn bổn phận của một ngýời đýợc sinh ra và lớn lên ơ? Việt Nam\. Dĩ nhiên\.
Tôi coi bài tùy bút có lẽ quá dài này (chính tôi cũng không ngờ nó dài nhý thế!) là những tâm tình, chia sẻ tôi muốn gửi đến quí độc giả\. Thực ra, hai chữ "tùy bút" chýa chắc đã phân loại chính xác nội dung của bài viết, vì tôi chỉ ghi lại những kỷ niệm, thuật lại những hình ảnh mình đã thấy, những ngýời mình đã gặp trong một quãng đời định cý ở nýớc ngoài\. Có lúc phẫn nộ, có khi đau thýõng, có lần bất mãn\. Nhýng tất cả đó chỉ là những biểu hiện thông thýờng của một "nhân vô thập toàn"\. Có thể có bạn đọc đã tìm lại một kỷ niệm của mình trong bài này ở một nõi nào đó thuộc Việt Nam, Thái Lan, Úc hay Mỹ\. Tôi cảm thấy - chẳng biết có phách quá hay không\? - là ghi nhận những kỷ niệm, những điều mắt thấy tai nghe ấy, dù chỉ là những kinh nghiệm cá nhân, rất cần thiết trong giai đoạn lịch sử hiện tại, giai đoạn mà một thế hệ thứ hai ngýời Việt đang trýởng thành ở hải ngoại\. Tôi đọc đâu đó, ngýời ta có viết đại khái rằng, con ngýời học bằng ba phýõng pháp: ký ức, bắt chýớc và kinh nghiệm\. Hai phýõng pháp đầu thì rất dễ thực hiện, nhýng phýõng pháp thứ ba lại rất cay đắng\. Nhìn lại quãng đýờng đời đã đi qua, tôi thấy những nỗi nhục nhã, xấu hổ, những kinh nghiệm đắng cay thýờng là những đòn bẩy để tự mình výõn lên\. Có bị chê dốt thì mới học thêm cho bớt dốt\. Thực ra, điều này cũng chẳng có gì đặc biệt vì nói cho cùng, nó chỉ là bản nãng sinh tồn của con ngýời\. Dân tộc Việt Nam chúng ta còn dốt, còn thua kém các dân tộc khác rất nhiều, và vì lý do sinh tồn, mỗi chúng ta phải có nhiệm vụ làm cho dân tộc ta đỡ dốt để còn có thể ngẩng cao nhìn các dân tộc chung quanh\. Tôi nghĩ giới trí thức ngýời Việt thuộc thế hệ trýớc đã tạo nên một nền "vãn hóa giả trang" kiểu "áo thụng vái nhau" quá lâu\. Thành ra, thế hệ mới chúng ta cần phải tự mình tạo ra một cuộc cách mạng, đổi mới về tý duy học hành và làm việc, cụ thể là phải gột rửa những tri thức nửa mùa, phải từ bỏ cái truyền thống làm việc tài tử, phải chấm dứt lối học hành vặt vãnh, để phát triển một tinh thần khoa học duy lý, độc lập suy nghĩ, sáng tạo và thu nhận những tri thức đích thực khoa học\. Con đýờng học hành và khoa học rất mênh mông, nếu những kinh nghiệm cay đắng này của tôi có là một bài học - dù tốt để dùng hay xấu để tránh - cho các bạn trẻ thì âu cũng là một điều đáng khích lệ\. Đýợc nhý thế, tôi mới dám nhờ Tiên Điền tiên sinh nhắn hộ giùm tôi: "Của tin gọi một chút này làm ghi".
Dr\. Nguyễn Vãn Tuấn
_____________
Ghi chú:
(1) Tựa đề của bài tùy bút này đýợc mýợn từ ý của ca khúc "Cho đời chút õn" (trong bãng nhạc "Ru tình") của Trịnh Công Sõn, trong đó nhạc sĩ viết "Hãy còn býớc đi cho bình minh lên sớm": Trong thân phận mong manh vẫn còn hy vọng bình minh\.
(2) Trích ca khúc "Chiếc lá thu phai" (trong bãng nhạc "Ru tình") của Trịnh Công Sõn.
(3) Trích bài thõ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm, từng đýợc bầu là một trong mýời bài thõ hay nhất của 20 thế kỷ thõ Việt Nam.
(4) Tôi để chữ "tàu" trong ngoặc là vì nó không phải là một chiếc tàu theo nghĩa thông thýờng, mà chỉ là chiếc thuyền tam bản, dài khoảng 10 thýớc, ngang 4 hay 5 thýớc, đýợc chạy bằng hai cái máy dầụ
(5) Trích trong hai ca khúc đấu tranh của Nguyệt Ánh, rất thịnh hành trong trại tỵ nạn thời đó\. Tôi rất tiếc là không còn nhớ chính xác tựa đề của hai bài hát.
(6) Tôi có viết một bài về thảm trạng cýớp biển và tội ác của hải tặc Thái, đãng trên tạp chí "GoodWeekend" (1997) thuộc báo "Sydney Morning Herald" (Úc)\. Trong bài báo đó, tôi dùng chữ "Killing sea".
(7) Trích bài thõ "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" của Du Tư? Lê\. Bài thõ này đã đýợc nhạc sĩ Phạm Đình Chýõng phổ thành ca khúc có cùng tựa đề vào nãm 1980.
(8) Sau này tôi còn có dịp gặp anh ta nhiều lần ở trýờng Đại học Sydney\. Anh theo học chýõng trình cao học quản trị hành chính (MBA), và tôi là một trong những ngýời dạy anh về môn lý thuyết thống kệ
(9) Cabramatta nằm trong thành phố Fairfield, nay là nõi tập trung đông đảo cý dân ngýời Việt (khoảng 10 ngàn ngýời) và là một "Little Saigon" của Sydneỵ
(10) Sau này tôi mới biết là sau lần anh em tôi výợt biên, Ba tôi đã phải trình diện hàng ngày trong sáu tháng liền với công an xã để nghe họ giảng giải về chính sách của cách mạng\. Tất cả thý từ tôi gửi về nhà hoặc bị tịch thu, hoặc Ba tôi phải đọc trýớc các ông công an xã!
(11) Thực ra, chức vụ ban đầu của tôi lúc đó là phụ tá giảng viên (senior tutor).
(12) Ngày đầu nhận việc mới, tôi ghé qua nhà bếp bệnh viện thãm đồng nghiệp cũ\. Ai cũng ngạc nhiên và mừng rỡ gặp lại tôi sau một thời gian dài biệt tin, nhýng không ai biết là tôi đang làm trong một tòa nhà chỉ cách họ khoảng nãm phút đi bộ!
(13) Ngày nay, tôi và một số đồng nghiệp đang nghiên cứu vài phýõng pháp để tìm ra tất cả các di truyền tố có dính dáng tới cãn bệnh loãng xýõng\. Đây là một việc làm đầy tham vọng và "một ãn một thua"\. Hy vọng là các cõ quan tài trợ sẽ ủng hộ tôi và đồng nghiệp!
(14) Tạm dịch từ câu: "God-given place between two oceans\... a shining house on the hill\... a beacon to all the world" (diễn vãn của tổng thống Reagan đọc tại đại hội của nhóm Cựu chiến binh - Veterans of Foreign Wars - ơ? Chicago, ngày 18 tháng Tám nãm 1980).
(15) Trong thời gian ơ? Ohio, tôi đýợc hân hạnh quen biết một số bạn bè tỵ nạn nhý tôi và một số bạn đi từ miền Bắc Việt Nam\. Các anh chị này đã hết lòng giúp tôi trong thời gian ơ? Ohio, mặc dù chúng tôi chỉ quen biết nhau chýa quá một tuần! Tôi vẫn ghi đậm tấm lòng thịnh tình của những ngýời bạn thân thiết Ohiọ
(16) Trích từ bài thõ "Khi bắt đầu của những nãm ba mýõi" của Du Tư? Lê\. Bài thõ đýợc Trần Duy Đức phổ nhạc thành bài hát cùng tựa đề trong cuốn CD "K\. Khúc của Lê".
(17) Trích "Việt Nam vãn hóa sử cýõng" của Đào Duy Anh; Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản nãm 1992.; Trang 24-25.
\... Làm trong nhà bếp khoảng 9 tháng thì tôi tìm đýợc một công việc týõng đối nhẹ nhàng hõn ơ? Bệnh viện Royal North Shore Hospital thuộc vùng Bắc Sydney\. Công việc tôi lúc đó là đi giao nhận các mẩu thử nghiệm giữa các phòng thí nghiệm trong bệnh viện\. Qua công việc này, tôi có dịp để ý cách làm nghiên cứu của các nhà khoa học ở đây\. Một hôm, trong lúc rảnh rỗi, tôi để ý thấy một nhà khoa học ngýời Ấn Độ loay hoay làm các con toán về xác suất thống kê cho thí nghiệm của ông; tôi lân la tới gần và tỏ ý muốn trợ giúp một tay\. Tuy nhiên, ông ta trố mắt nhìn tôi một cách khinh khi, nhýng lịch sự và đuổi tôi đi chỗ khác\. Tôi buồn tủi lắm, và quyết chí một ngày "trong cuộc trần ai, ai dễ biết/ rồi ra mới rõ mặt anh hùng"\.
Tôi nhận ra khá sớm là nếu tôi yên phận thì týõng lai tôi sẽ chẳng tới đâu\. Tôi quyết định ghi danh xin vào học tại trýờng Đại học Sydney (một trýờng lâu đời và danh tiếng nhất ơ? Sydney) bán thời gian (part-time)\. Tôi đýợc mời lên phỏng vấn để lýợng xét trình độ học vấn\. Ngýời phỏng vấn tôi, một ông Úc khoảng 50 tuổi, hỏi: "Anh đã tốt nghiệp đại học ơ? Việt Nam rồỉ" "Dạ, đúng thế"\. Ông ta mỉa mai: "Thế anh có biết làm phân số không?" Tôi hõi ngạc nhiên về câu hỏi, nhýng cũng tự trấn tĩnh mình là có khi phân số của họ phức tạp hõn phân số mình học, nên hay nhất là nói "không" cho chắc ãn! Nghĩ thế, tôi trả lời: "Dạ, không"\. Ông ta cýời một cách mỉa mai mà tôi không bao giờ quên cũng nhý không tha thứ ông ta\. Sau đó, tôi đýợc một giáo sý chuyên ngành phỏng vấn và kết cục là ông không nhận tôi vì nghĩ tôi không đủ khả nãng học đại học! Cần nói thêm là lúc đó, ngýời Úc hầu nhý không biết gì về khả nãng của học sinh Việt Nam và theo họ, một nýớc thýờng xuyên trải qua những cuộc chiến tranh khủng khiếp và triền miên nhý thế thì làm sao dân chúng có thể học hành đến nõi đến chốn đýợc!
Thất bại ở trýờng Sydney, tôi quay sang xin vào học ở trýờng Đại học Macquarie, một trýờng týõng đối nhỏ hõn trýờng Sydney (khoảng 20 ngàn sinh viên), nhýng có tiếng tốt về môn toán thống kê mà tôi muốn theo đuổi\. Ở đây, tôi đýợc một ông giáo tên là Donald McNeil, nguyên là giáo sý ở trýờng Đại học Princeton (Mỹ) mới về, trực tiếp phỏng vấn\. Sau khi hỏi sõ qua về vài lĩnh vực chuyên môn, ông ta nói tôi có thể sẽ không đủ khả nãng theo học chýõng trình cao học (masters), và chỉ cho tôi học chýõng trình Graduate Diploma (thấp hõn cao học) về toán mà thôi\. Ông ta nói nếu tôi học "đýợc" một nãm thì sẽ cho sang học chýõng trình cao học\. Tôi mừng lắm và tự nhủ mình sẽ quyết chí học hành cho ra hồn, cho "bọn Tây" này biết mặt!
Ngày đầu tiên vào giảng đýờng đại học Úc, tôi hõi sốc về cái tính lè phè của học sinh và thầy giáo\. Lớp học chỉ có khoảng 15 học sinh, phần đông là nam\. Họ ãn uống tự nhiên và ãn mặc\... không giống ai\. Anh chàng giảng viên cũng ãn mặc rất "bụi đời", không có vẻ gì là một ông tiến sĩ mà tôi thýờng týởng týợng cả\. Nhýng tôi đã gặp ngay khó khãn ngay từ ngày đầu vào giảng đýờng: tôi chẳng hiểu anh ta đang nói gì vì khả nãng nghe của tôi còn quá hạn chế\. Tuy nhiên, khi anh ta viết trên bảng thì tôi lại đoán biết anh ta đang dạy gì\. Vì không hiểu bài trên lớp nên hàng đêm tôi phải ngồi lại ở thý viện để đọc sách và làm bài\. Không đêm nào tôi về tới nhà trýớc 10 giờ khuya\. Song, chỉ khoảng ba tháng sau, tôi đã lấy lại tự tin của mình và bắt đầu nhận ra là chýõng trình học của họ cũng chẳng có gì là "ghê gớm" lắm, nếu không muốn nói là thấp so với chýõng trình toán mà tôi đã từng học ơ? Việt Nam\. Một hôm anh chàng giảng viên đang lúng túng giải một bài toán đa tích phân (multiple integration), tôi giõ tay xin giải hộ\. Anh ta và cả lớp tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn tôi, một tên học sinh thýờng ngày có vẻ rụt rè, nhút nhác, lại dám làm chuyện này! Tôi ngang nhiên lên bảng, "biểu diễn lả lýớt" một đýờng toán làm họ kinh ngạc hõn\. Sau vài lần nhý thế, tiếng đồn tới ông giáo sý McNeil\. Nên chỉ sáu tháng sau, ông McNeil đã cho tôi theo học chýõng trình cao học mà không phải qua chýõng trình Graduate Diploma\. Tôi còn đýợc cho một việc làm phụ giảng cho học sinh chýõng trình cử nhân\.
Từ đó, tôi lấy lại niềm tin và mạnh dạn hõn trên đýờng làm lại sự nghiệp\. Trong khi học ở trýờng Macquarie, tôi xin đýợc một công việc làm thý ký cho một trung tâm nghiên cứu thuộc Bô. Y tế tiểu bang New South Wales\. Trong vai trò thý ký, tôi chỉ có nhiệm vụ thu thập số liệu và phụ giúp đem các số liệu này vào máy vi tính (microcomputer), lúc đó còn dùng hệ điều hành CP/M\. Trong nhóm, chỉ có ba bác sĩ biết cách dùng máy vi tính để phân tích số liệu\. Họ huấn luyện tôi cách dùng máy vi tính và tôi cảm thấy thích thú khi làm việc với máy tính\. Nhýng tôi tự học nhiều hõn những gì họ chỉ tôi\. Liên tục nhiều tháng trời, tôi tự học cách viết chýõng trình bằng ngôn ngữ FORTRAN, cách điều khiển và liên kết các máy với nhau, v.v\... Một hôm, tôi thấy ông bác sĩ giám đốc đang để tâm giải một bài toán thống kê loại rất cãn bản\. Tôi xem cách ông ta làm và tỏ ý muốn giúp: "Tôi có thể giúp ông giải quyết việc này"\. Ông ta nhìn tôi một cách khinh khi và nói: "Anh làm không đýợc đâu, việc này phức tạp lắm"\. Tôi cảm thấy chạm tự ái và mạnh bạo thách thức: "Nếu tôi giải không xong trong vòng 5 phút, ông có thể cho tôi nghỉ việc"\. Ông giám đốc nhìn tôi một cách lạ lùng và nói "Đýợc rồi, làm đi!" Ngay sau đó, tôi đýợc chỉ định mở lớp dạy lại cho tất cả các nhân viên trong nhóm cách dùng, cách viết chýõng trình để giải các bài toán thống kê\. Từ đó, tôi đýợc chính thức bổ nhiệm tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hệ thống y tế công cộng\. Tôi cảm thấy sự miệt mài của mình đã có chút thành quả\. (Thực ra, bây giờ hồi týởng lại, tôi thấy những công việc làm lúc đó quá sõ đẳng và chẳng có gì đáng phải tuyên dýõng, tự hào)\.
Sau khi xong luận án cao học ở trýờng Macquarie, tôi lại chuyển sang trýờng Đại học Sydney\. Lần này tôi về lại đây để dạy học (11) đồng thời theo học chýõng trình tiến sĩ với ông giáo sý Alan Woodman\. Tôi vẫn còn nhớ "mối thù làm phân số", nên sau khi xong thủ tục hành chính, tôi tìm lại ông viên chức ngày trýớc để hỏi lại câu hỏi vô duyên "Ông biết làm phân số không?"\. Ông công chức giờ đây đã già, nhìn tôi ngõ ngác chẳng hiểu tôi nói gì\. Tôi kể lại cái giây phút lịch sử bốn nãm về trýớc cho ông nghe; ông ta ôm tôi xin lỗi rối rít và nói là không có ý xúc phạm, mà chỉ là một câu hỏi đùa\. Chẳng biết sao lúc đó khi nghe ông ta nói thế, tôi lại rất hối hận và thấy mình quá sai; tôi thấy thái độ ãn thua đó của mình quá ấu trĩ và tự thấy mình xấu hổ\. Tôi tự nhủ và quyết tâm gột rửa cái "Việt Nam tính" từ đó\. Bây giờ nhắc lại câu chuyện này tôi vẫn còn thấy mình xấu hổ\.
Đầu nãm 1991, sau khi xong luận án ở trýờng Sydney, tôi đýợc may mắn bổ nhiệm làm nghiên cứu viên (Research Fellow) ơ? Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Garvan Institute of Medical Research), một trong 10 viện nghiên cứu y khoa hàng đầu trên thế giới\. Viện này là một trung tâm đào tạo chuyên khoa cho trýờng Đại học New South Wales và Bệnh viện St Vincent''s, nõi tôi làm phụ bếp khoảng 9 nãm trýớc đó (12)\. Viện Garvan có khoảng 300 nhà khoa học với trình độ tiến sĩ hay cao học từ nhiều quốc gia trên thế giới nhý Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, v.v\... nghiên cứu trong các lĩnh vực ung thý vú (breast cancer), loãng xýõng (osteoporosis), sinh học thần kinh (neurobiology) và nội tiết (metabolism)\. Tôi làm trong bộ môn loãng xýõng cùng một giáo sý hàng đầu trong ngành là John A\. Eisman, ngýời sau này trở thành một ngýời thầy và bạn thân của tôi\.
Tôi dồn tâm trí vào việc học hành và nghiên cứu về nội tiết, xýõng và bệnh loãng xýõng, từ các vấn đề sinh học cãn bản tới lâm sàng\. Mýời nãm nghiên cứu trong lĩnh vực này, tôi và đồng nghiệp cũng gặt hái đýợc nhiều kết quả đáng kể\. Vài đóng góp của tôi trong ngành tập trung vào ba chủ đề: xác định các yếu tố dẫn đến sự mất xýõng, chứng loãng xýõng trong đàn ông và di truyền học trong xýõng\. Nãm 1994, trong một bận tán gẫu bên bàn cà phê ở một quán nýớc vùng Darlinghurst, tôi và hai anh nghiên cứu sinh tên là Nigel Morrison (ngýời Úc) và Qi Jiang (ngýời Trung Quốc) nảy ra ý týởng nghiên cứu vai trò của di truyền tố vitamin D receptor (còn gọi tắt là VDR gene) trong xýõng\. Sau nhiều tháng làm việc cật lực và cãng thẳng, nhóm tôi đã khám phá ra sự liên hệ giữa di truyền tố này và mật độ xýõng trong một nhóm phụ nữ sinh đôi\. Khám phá này đýợc công bố trên "Nature", tờ tạp chí khoa học hàng đầu trên thế giới, và lần lýợt đýợc đề cập trên hầu hết các hệ thông tin đại chúng nhý "The Times", "Newsweek", "New York Times", "Los Angeles Times", "Sydney Morning Herald", "The Australian", "The Telegraph" (London), v.v\... Tôi và ông Eisman đã rất bận trong việc trả lời phỏng vấn của các phóng viên, nhà báo quan tâm\. Tuy nhiên, trong chuyên ngành, khám phá của chúng tôi đã gây ra rất nhiều cuộc tranh luận trên thế giới và tôi đã phải tiêu khá nhiều thời gian, "đầu tắt mặt tối" để bảo vệ quan điểm của mình\. Tính tới nay, kể từ ngày đýợc công bố trên "Nature", đã có gần nãm trãm bài báo khoa học trong lĩnh vực này\. Qua việc làm này, tôi và ông Eisman đýợc trao tặng một số giải thýởng ơ? Úc, Âu châu và Mỹ nhý "Giải thýởng dành cho các nhà nghiên cứu trẻ" (Young Investigator Award), "Xuất sắc trong nghiên cứu bệnh loãng xýõng" (Outstanding Research in Osteoporosis), "Giải thýởng Neumann" (Neumann Award, dành cho ngành nghiên cứu xýõng), v.v\... Qua cách thức xét duyệt và trao giải thýởng, tôi mới nhận ra vài điều thú vị: thứ nhất, nhiều giải thýởng đýợc trao không hẳn chỉ dựa trên thành tích khoa bảng xuất sắc mà phần lớn lại nhờ vào sự móc ngoặc và vận động (lobby) của ngýời đýợc trao giải; thứ hai, nhiều giải thýởng mặc dù có những cụm từ rất kêu nhý "outstanding", "excellence", "distinction", v.v\... nhýng thực tế lại không phản ánh đúng khả nãng của ngýời đýợc giải\. Cũng tại viện Garvan này, tôi đã viết thêm một luận án về y khoa (medical epidemiology) tại Đại học New South Wales, sau nãm nãm trời học tập và nghiên cứu\. Luận án đó đýợc "Hội đồng Khoa bảng" (Academic Board) đánh giá khá cao, đýợc bình bầu là "Luận án xuất sắc trong nãm" (The Best Doctoral Thesis Award)\. Tuy nhiên, nhý đã nói ở trên, thực tình tôi không quan tâm và không đặt nặng mấy về các giải thýởng đó, mà chỉ chú tâm vào định hýớng trong nghiên cứu, mang lại kiến thức mới cho chuyên ngành (13).
Duyên nợ xứ Cờ Hoa
Đầu nãm 1997, tôi sang Mỹ dự hội nghị thýờng niên về xýõng tại thành phố Cincinnati, thuộc tiểu bang Ohio\. Trong hội nghị này, tôi đýợc đề cử làm đồng chủ tọa (co-chair) một phiên họp về di truyền trong xýõng (genetics of bone mass)\. Sau giờ giải lao, một đồng nghiệp ngýời Mỹ đến tự giới thiệu và làm quen\. Anh nói đại ý những câu xã giao lịch sự mà tôi đã nghe quá nhiều lần trong quá khứ, rằng anh ta đã biết tên tôi từ mấy nãm nay và hôm nay hân hạnh đýợc dịp gặp mặt\. Anh ta mời tôi, sau khi xong hội nghị, về thành phố Dayton để thỉnh giảng\. Tôi vui vẻ và lịch sự nhận lời, nhýng trong thâm tâm vẫn nghĩ là một lời mời viển vông\. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, trong khi còn đang dự hội nghị, tôi nhận đýợc một bao thý kèm theo một giấy mời của trýờng Đại học Wright State và một vé máy bay\. Tôi hõi ngỡ ngàng, nhýng nghĩ thầm: "Họ cho vé thì mình cứ đi!"
Tôi bay đến Dayton theo lời mời để nói về những việc mình đã làm trong lĩnh vực loãng xýõng\. Xong buổi nói chuyện, ông khoa trýởng y khoa có nhã ý mời tôi qua làm việc với họ vài nãm\. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên và thích thú\. Ngạc nhiên là mặc dù trýớc đây tôi đã từng sang Mỹ làm việc, họp hội nghị ít nhất là 15 lần và tôi cũng có rất nhiều đồng nghiệp ơ? Mỹ, nhýng tôi chýa từng nghĩ đến chuyện phải bo? Úc để qua Mỹ làm việc\. Thích thú là vì tôi thấy hay là mình làm một chuyến viễn du chõi qua Mỹ cho biết\. Nghĩ thế, tôi bèn trả lời là tôi sẽ suy nghĩ lại đề nghị của ông ta\. Sau hai ngày thãm trýờng Wright State và trao đổi với vài giáo sý ở đây, đến ngày tôi phải bay về làm việc trong trýờng Đại học California tại San Diego\. Ông khoa trýởng đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi của tôi: ông đã mýớn một chiếc xe limousine bóng loáng để chở tôi về lại Cincinnati và từ đó bay về California\. Lần đầu tiên trong đời đýợc ngồi trên chiếc xe limousine thýợng hạng, tôi thấy mình lúng túng, chẳng biết dùng nút bấm nào cho TV, nút nào mở máy hát, tủ lạnh, v.v\... Nhýng anh tài xế, trong bộ đồ nhý ông týớng nhà binh, ân cần chỉ cho tôi cách điều khiển hệ thống điện tử này\. Ngồi một mình trong xe rất tiện nghi, tôi thýởng thức quang cảnh bao la của miền Trung phía Tây nýớc Mỹ, và thỉnh thoảng nghĩ ngông rằng mình là nhà kinh doanh đang đi du lịch hõn là ngýời làm khoa học! Ông khoa trýởng còn dành cho tôi một sự ngạc nhiên hõn: chiều hôm đó, ông và ba giáo sý khác lái xe lên tận khách sạn tôi ơ? Cincinnati mời tôi ãn tối tại một nhà hàng sang trọng (mà sau này tôi đýợc biết là đắt tiền vào bậc nhất ở thành phố này)\. Sáng hôm sau, trên máy bay về lại California, tôi cứ cảm kích mãi tấm lòng của ông khoa trýởng và đồng nghiệp của ông, và chẳng hiểu tại sao họ lại tử tế với mình nhý thế\.
Về lại Úc, tôi lại bị lôi cuốn vào công việc hàng ngày và quên đi "mối tình" với Wright State\. Tuy nhiên, khoảng cuối nãm 1997, ông khoa trýởng gửi cho tôi một lá thý báo rằng ông ta đã vận động thành công để "tạo ra" (create) một chức vụ giáo sý mới và mời tôi đệ đõn\. Không muốn làm phật lòng ngýời tốt bụng với mình, tôi gửi một lá thý và một bản lý lịch rất sõ sài\. Khoảng hai tuần sau, ông khoa trýởng điện thoại cho tôi biết là "Hội đồng Bổ nhiệm Khoa bảng" (Academic Appointment Committee) đã đồng ý bổ nhiệm tôi vào phân khoa y của trýờng Wright State\. Tôi không ngờ sự việc lại xảy ra một cách nhanh chóng nhý thế\. Lúc này thì tôi mới biết chuyện đi Mỹ làm việc không còn là trò đùa lịch sự nữa mà đang thành sự thật\. Thực ra, họ đã đi "đýờng tắt" trong việc làm này (theo đúng nguyên tắc và qui định hành chính, họ phải quảng cáo trên các tạp chí quốc tế trýớc khi bổ nhiệm, và thông thýờng phải tốn cả nãm mới bổ nhiệm đýợc một giáo sý)\. Nhýng ngýời Mỹ, với một bản nãng cực kỳ thực tế, đã từng làm những chuyện tày trời khác nhý ngang nhiên dội bom xuống xứ sở ngýời khác, âm thầm tổ chức đảo chính các chính phủ dân chủ, đi đêm với kẻ thù, v.v\... thì sá gì chuyện họ đi tắt trong việc tổ chức mua khoa bảng nýớc ngoài! Tôi lại khãn gói lên đýờng, đi xa Việt Nam hõn nữa để làm một chuyến viễn du, "tỵ nạn" lần thứ hai\.
Nýớc Mỹ: ghét để thýõng
Nói chung, nýớc Mỹ đã đối đãi với tôi rất ân cần và có thể nói là cũng rất ýu ái\. Tất cả các cõ sở vật chất và điều kiện nghiên cứu, giảng dạy đều đýợc nhà trýờng đáp ứng đầy đủ, không thể nào chê đýợc\. Tôi còn đýợc hýởng nhiều đặc ân mà ngay cả những đồng nghiệp ngýời bản xứ đôi khi phải so bì\. Nhýng ngýời Mỹ rất thực tế: họ không ngần ngại cho tôi biết rằng nhà trýờng coi việc bổ nhiệm tôi là một cuộc đầu tý khoa bảng\. Họ đầu tý vào tôi và kỳ vọng tôi phải làm việc có hiệu quả, phải mang lại tài trợ cho nhà trýờng, và qua đó mang lại danh tiếng cho nhà trýờng\. Cho đến nay, có thể nói rằng họ đã không "lỗ vốn" vì trong vòng hai nãm đầu, tôi đã thiết lập thành công một nhóm nghiên cứu về xýõng trong khoa y, và nhóm tôi cũng đã mang lại cho nhà trýờng một số tài trợ khá lớn\. Tôi cũng thiết lập đýợc mối liên lạc giữa các cõ quan nhý Bô. Y tế tiểu bang, các hiệp hội địa phýõng và trýờng đại học\.
Trong thời gian ơ? Mỹ, tôi có rất nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn\. Nhiều hõn ơ? Úc\. Đối với tôi, Mỹ là một nýớc mà tôi rất "ghét để thýõng"\. Tôi ngýỡng mộ sự thành công của nýớc Mỹ và tinh thần làm việc của ngýời Mỹ\. Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, nýớc Mỹ vẫn là xứ sở của cõ hội, là miền "đất hứa" để những ai có thực tài thi thố tài nãng\. Tôi thấy ơ? Mỹ ai cũng có cõ hội để thành công, miễn là phải chịu khó\. Dĩ nhiên\. Nýớc Mỹ biết dùng (hay biết bóc lột) ngýời có tài và sẵn sàng nâng đỡ ngýời chịu khó làm việc, học hành\. Hãy so sánh một trýờng hợp tiêu biểu về sự nghiệp của một sinh viên mới tốt nghiệp tiến sĩ ơ? Pháp hay ơ? Úc và đồng nghiệp của anh ta ơ? Mỹ\. Ơ? Pháp hay Úc, chàng nghiên cứu sinh này sẽ phải "lận đận lao đao" trong nhiều nãm làm hậu tiến sĩ (Postđoctoral research) trýớc khi trở thành một nhà nghiên cứu độc lập hay có thể chỉ huy một nhóm nghiên cứu; ngay cả khi đã là một nhà nghiên cứu độc lập, anh ta sẽ vô cùng gian nan khi xin tài trợ, vì phải cạnh tranh với những ngýời cấp cao hõn nhý thầy của anh ta\. Trong khi đó ơ? Mỹ, đồng nghiệp anh ta, chỉ sau một hay ba nãm (hay thậm chí không qua nãm nào) làm hậu tiến sĩ, đã trở thành giáo sý, đýợc nâng đỡ và tài trợ để trở thành một nhà khoa học độc lập! Thành ra, không ai ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà khoa học trẻ tài nãng ở các nýớc Âu, Á và Úc châu đều tranh nhau đi Mỹ làm việc\. Những ngýời này đã góp một phần lớn đýa nýớc Mỹ vào vị thế siêu đẳng trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật ngày nay\. Trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học Mỹ đã mang về cho nýớc họ khoảng 60% các giải thýởng Nobel về khoa học và kinh tế học (so với 15% những nãm trýớc 1945)\. Thành tích này có sự đóng góp đáng kể của các nhà khoa học nýớc ngoài làm việc ơ? Mỹ\. Ngay cả ngày nay, mặc dù đã ở vào vị thế vô đối thủ trong khoa học, Mỹ vẫn có chính sách ýu tiên cho nhập cý ngýời có tài từ các nýớc trên thế giới\.
Mỹ là một nýớc đa quốc gia\. Do đó, Mỹ có đầy đủ những cái xấu và cái đẹp của thế giới\. Bên cạnh những bộ óc siêu việt cũng có những con ngýời ù lì nhất thế giới; ngoài những sinh viên sáng dạ nhất cũng có nhiều sinh viên làm con toán phân số không rành; bên cạnh những ngýời Mỹ tử tế cũng có những con ngýời kỳ thị khủng khiếp\... Nếu phải minh họa đạo lý nýớc Mỹ bằng một biểu đồ, tôi đoán rằng biểu đồ đó sẽ có hình cái chuông: số lýợng ngýời xấu xa ở phía bên trái sẽ týõng đýõng với số lýợng ngýời tuyệt vời ở phía bên phải, và phần đông những con ngýời bình thýờng dễ mến sẽ nằm chính giữa của biểu đồ\. Hõn mýời nãm ơ? Úc, một nýớc có tiếng kỳ thị chủng tộc, tôi chýa bao giờ gặp một thái độ phân biệt chủng tộc; nhýng một thời gian ngắn ơ? Mỹ lại cho tôi "nếm mùi" phân biệt đối xử qua một kỷ niệm nhỏ\. Một hôm, tôi đi thãm một anh bạn ngýời Mỹ ở thành phố Detroit (Michigan), nõi mà 90% dân số là ngýời da đen (hay nói cho đúng hõn, là "ngýời Mỹ gốc Phi châu")\. Tôi và anh bạn lái xe đến một quán ãn McDonald; sau khi đặt mua vài món ãn trýa và trả tiền ở quầy tính tiền, tôi lái đến quầy khác để nhận thức ãn, nhýng chờ cả 5 phút mà chẳng thấy ai phục vụ, trong khi đó phía sau xe tôi có cả 5 chiếc xe khác đang chờ\. Anh bạn tôi giục tôi phải rời ngay kẻo sẽ gặp trở ngại! Tôi không hiểu gì, nhýng thấy nét mặt anh ta nghiêm trọng hối thúc, nên cũng đành phải rời quán\. Anh bạn thản nhiên giải thích rằng có lẽ nhân viên bán hàng thấy anh là ngýời da trắng nên họ không muốn phục vụ! Trong khi tôi tiếc vì đã mất toi cả mýời đô-la mà bụng thì đói meo, anh bạn tôi lại không hề tỏ ra một lời nói tức giận hay một cử chỉ hằn học\. Dýờng nhý đó là một điều anh ta thýờng hay gặp phải\. Tôi hy vọng và tin rằng đó chỉ là một trýờng hợp biệt lập và tôi tuyệt nhiên không có ý ám chỉ nó đại diện cho sự týõng giao giữa hai sắc dân TrắngđDen ở nýớc Mỹ\. Trong thực tế, tôi có nhiều đồng nghiệp ngýời da trắng và chýa ai trong họ có thái độ hay lời nói để tôi có thể cho là "kỳ thị chủng tộc"\. Hay là họ biểu lộ nó ở một mức độ tinh tế hõn chãng\?
Nhýng tôi thấy một số chính khách ngýời Mỹ thật khó ýa\. Trong một bài diễn vãn đọc ở tiểu bang California, Ronald Reagan, nguyên tổng thống Mỹ, đã ta? Mỹ nhý "...một quốc gia do Thýợng đế ban cho, nằm giữa hai đại dýõng; một cãn nhà sáng chói trên đồi, một ngọn hải đãng soi sáng cho cả thế giới" (14)\. Những ngýời nhý Reagan có vẻ tự cho Mỹ cái quyền làm "sen đầm quốc tế", thích đi gây hấn với thiên hạ nhý một tên côn đồ chuyên nghiệp\. Tôi đã thấy các thýợng nghị sĩ, lãnh đạo chính trị và giới truyền thông Mỹ bàn luận với nhau trên TV về phýõng pháp trừng phạt nýớc này, cách thức trừng trị nýớc kia, bế môn tỏa cảng nýớc nọ, v.v\... làm nhý thế giới này nằm dýới quyền điều khiển của Mỹ! Có lẽ vì cái tâm tính này mà bộ máy quân sự của họ đã trực tiếp gây ra biết bao tan tóc trên nýớc Việt Nam trong thời chiến tranh\.
Một điều tôi thấy ngạc nhiên là một số không nhỏ ngýời Việt tỵ nạn ơ? Mỹ cũng có thái độ rất "gung-ho" và cách suy nghĩ ngạo mạn, tự phụ nhý của ngýời Mỹ bản xứ\. Đối với những ngýời Việt này, Mỹ là cái nôi vãn minh của nhân loại; mọi thứ đều xuất phát từ Mỹ và thế giới đang hýởng ân huệ của Mỹ; chỉ có Mỹ mới là nýớc mà tự do và phẩm giá cá nhân đýợc tồn tại và bảo đảm\. Từ đó, họ tự suy ra rằng họ là những đỉnh cao trí tuệ (nhý có lần những ngýời cộng sản ơ? Việt Nam thýờng tự nhận), là những ngýời Việt ýu việt trong tất cả ngýời Việt trên thế giới\. Có lẽ vì không chịu mở tầm mắt nhìn ra thế giới bên ngoài nýớc Mỹ nên một số không ít ngýời Mỹ gốc Việt thiếu kiến thức cãn bản về thế giới chung quanh họ, nhýng họ lại cố tỏ ra là những ngýời thông thái một cách rất khôi hài và tội nghiệp\. Có lần tôi ghé thãm trýờng Đại học Boston và gặp một bác sĩ ngýời Việt; anh ta huyên thuyên bình luận về tình hình kinh tế, chính trị xứ Úc và tỏ ra ngạc nhiên là "tiếng Úc" cũng giống "tiếng Mỹ"! (Phần đông ngýời Việt ơ? Mỹ nghĩ là họ nói và viết tiếng Mỹ, chứ không phải tiếng Anh!?) Cũng may phýớc là anh ta không biết quê hýõng thứ hai của tôi là Úc châu! Có lần, tôi đi dự một buổi tiệc ở gia đình một anh bạn tại Ohio, các anh bạn ngýời Mỹ gốc Việt đều đồng ý rằng nýớc Đức quá "lạc hậu" đến nỗi dân chúng ở đó không biết dùng thẻ tín dụng (credit cards)! Tôi týởng mình nghe lầm\. Nhýng không: họ nhắc nhắc lại cái điệp khúc cực kỳ vô lý đó, và hỉ hả kết luận rằng trên thế gian này chỉ có Mỹ là nýớc vãn minh nhất\. Điều làm tôi kinh ngạc hõn là các anh này đều có trình độ học vấn đại học ơ? Mỹ! Khi ghé California, tôi bày tỏ ý định đi Anh làm việc, nhiều bạn bè ngýời Việt nhìn tôi với ánh mắt e ngại nhý thầm chia buồn với tôi nỗi "bất hạnh" phải về vùng địa ngục!
Trong thời gian ơ? Mỹ, tôi cũng có cõ duyên đýợc đọc nhiều báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ\. Có lẽ nói ra cũng bằng thừa, báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ quá phong phú\. Chỉ riêng ở vùng Little Saigon mà đã có hàng trãm tờ báo lớn nhỏ! Nhýng ngoài một số rất ít báo có phẩm chất cao, phần còn lại có thể cho là "bát nháo"\. Đại đa số các báo đều có mục tin tức liên quan tới Việt Nam\. Nhýng khác với các báo ngoại quốc thýờng týờng thuật, đýa tin về Việt Nam rất thẳng thắng, không mặc cảm, không trói buộc, các báo Việt ngữ ơ? Mỹ lại loan tin một cách rất chọn lựa và có chủ ý\. Dù không trực tiếp nói ra, nhýng chủ ý của họ là cố tạo ra một ấn týợng xấu về Việt Nam và những ngýời cầm quyền ở trong nýớc\. Họ không ngần ngại viết đại loại nhý "toàn bộ hạ tầng cõ sở xã hội, hệ thống giá trị đạo đức trong nýớc đang bị tan rã, hỗn loạn, mất hýớng, vô đạo đức..."\. Họ lấy tin từ Việt Nam, rồi thêm thắt, soạn lại với những lời lẽ nặng nề cảm tính, xúc động, lờ đi sự thật để nuôi dýỡng những hận thù vô lý\. Tôi có cảm giác là báo chí Việt ngữ ơ? Mỹ vẫn còn bị lẫn lộn giữa chức nãng của ngýời làm việc thông tin và hýớng dẫn dý luận hay dùng báo chí làm diễn đàn chính trị\. Nhiều ngýời làm báo tự cho mình cái độc quyền hýớng dẫn dý luận, không cho đãng những bài báo có nội dung khác với ý của họ\. Nếu tờ báo là của đoàn thể chính trị thì điều đó không có gì đáng nói, nhýng là báo làm thông tin cũng tự cho mình quyền tuyên truyền và hýớng dẫn quần chúng! Ngoài ra, có lẽ do nhiễm thái độ tự cao tự đại của ngýời Mỹ, một số trong giới làm truyền thông Việt ngữ ơ? Mỹ cũng có thái độ phách lối, tự cho họ là những ngýời hýớng dẫn dý luận cho ngýời Việt ở hải ngoại\. Đối với họ, các báo Việt ngữ ở các nýớc khác chỉ là "báo výờn" và họ không cần để ý hay biết tới\.
Tôi nghĩ ngýời Việt tỵ nạn ơ? Mỹ có tinh thần quốc gia rất cao (so với ngýời tỵ nạn ơ? Úc hay Âu châu), và trong số này có nhiều ngýời yêu nýớc Mỹ giàu mạnh hõn nýớc Việt Nam nghèo yếu! Khi cố tổng thống Richard Nixon, ngýời chủ trýõng chính sách leo thang chiến tranh ơ? Việt Nam và ra lệnh ném bom xuống Hà Nội mýời hai ngày đêm liền, qua đời, tôi thấy một số ngýời Việt Nam ơ? California tham gia đýa linh cữu ông ra mộ và khóc rất thảm thiết, không khác gì đýa tiễn ngýời thân trong gia đình về phía bên kia thế giới\. Khi lính Mỹ sang tham chiến, dội bom ơ? Kosovo và Iraq, một số trong giới truyền thanh Việt ngữ ơ? California cũng lên đài cầu nguyện Thýợng đế mang lại sự an lành cho những ngýời lính viễn chinh này\. Tôi nghĩ nýớc Mỹ quả rất may mắn khi có những ngýời con trung thành đến mức ấy! Cố nhiên, không phải ngýời Việt nào ơ? Mỹ cũng bị "Mỹ hóa" nhý thế\. Trong thực tế, tôi cũng gặp và kết bạn thân với nhiều ngýời Việt Nam ơ? Mỹ, kể cả những anh chị ra đi từ miền Bắc, cực kỳ tốt lòng, đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian đầu ổn định cuộc sống ơ? Ohio (15).
Một vài suy tý & Nhìn về týõng lai
Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cý vĩ đại chýa từng có trong lịch sư? Việt Nam\. Tôi cũng nằm trong cõn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam\. Nhýng bây giờ, nhìn lại quãng đýờng đời và kinh nghiệm đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hýõng, tôi lại thừa hýởng đýợc một may mắn rất lớn: có cõ hội học tập và tiếp cận với những tri thức tiên tiến hàng đầu\. Các nýớc Tây phýõng nhý Mỹ, Úc, Pháp, v.v\... đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cõ hội bình đẳng với công dân của họ hầu nhý trong mọi lĩnh vực, kể cả đýợc trợ giúp để theo học ở những trýờng hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trãm nãm để gây dựng\. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả\. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ\. Khi tốt nghiệp, tôi đýợc khuyến khích, giúp đỡ để theo đuổi làm việc, nghiên cứu trong các lĩnh vực hàng đầu\. Nói chung, tôi đã đýợc thụ hýởng những cõ hội mà khi còn ở trong nýớc, tôi chẳng dám mõ tới\.
Song, so sánh với đồng nghiệp nýớc ngoài, tôi mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ý là ghê gớm\. Có thể nói so với các bạn trẻ ngày nay, tôi và nhiều ngýời cùng thế hệ là những "trâu chậm uống nýớc đục"\. Một ngýời ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40\. Trong khi đó, ở tuổi hai mýõi, vì hoàn cảnh lịch sử, tôi chẳng làm gì đýợc nhiều\. Khi xong tiến sĩ, tôi đã trở thành một trung niên hõn "tam tuần", trýớc một týõng lai còn rất xa, vô định, mà quá khứ thì đầy đau khổ, mịt mù: "Tuổi ba mýõi ta sống tháng ngày xa lạ - Tuổi ba mýõi ta có quá khứ mịt mù" (16)\. Ở những nãm cuối tuổi 30, tôi mới có dịp cống hiến\. Mà, cần phải nói ngay và nói rõ rằng những gì tôi đạt đýợc trong vài nãm qua chỉ là những đóng góp rất nhỏ trong khoa học; nó chýa xứng đáng đýợc đề cao và chýa phải là những đóng góp mà tôi muốn tự hào\.
Những nãm còn ở trong nýớc, tôi đã đọc nhiều bản tin về sự thành công výợt bực, có khi phi thýờng, của ngýời Việt hải ngoại\. Tôi đã từng nghe nhiều mẩu chuyện về những đóng góp quan trọng trong y khoa, khoa học không gian, toán học, vật lý học, v.v\... mà lấy làm tự hào cho ngýời Việt mình lắm\. Có lần, tôi đọc đýợc một lời tán dýõng về một giáo sý gốc Việt ơ? Mỹ nhý sau: "Nếu viết về tiểu sử của ông thật đầy đủ chi tiết thì cả tuyển tập này cũng không đủ, vì ở ông là cả một bầu trời rực rỡ ánh hào quang, và có rất nhiều huyền thoại về ông tuyệt vời nhý những câu chuyện thần thoại hoang đýờng"\. Một lời khen hết sức ấn týợng! Nhýng khi ra nýớc ngoài, có cõ hội tìm hiểu, đối chiếu trong kho tàng khoa học thế giới, tôi mới biết phần lớn những mẩu chuyện mình từng nghe biết ngày xýa quả đúng là những\... huyền thoại hoang đýờng\. Theo tôi, những cống hiến của các nhà khoa học gốc Việt cho khoa học thế giới còn rất khiêm tốn, và có thể nói là không đáng kể\. Cho tới nay, mặc dù cũng có vài nhà khoa học gốc Việt rất sáng giá và có uy tín trên thế giới trong các ngành nghiên cứu hẹp, nhýng theo tôi biết, vẫn chýa có ngýời nào đýợc bầu vào các hàn lâm viện ơ? Mỹ, Úc, hay chiếm các giải thýởng lớn nhý giải Nobel và Field Prize (trong toán học)\. Cũng theo tôi biết, chýa có khám phá nào của ngýời Việt Nam đýợc xem là có tầm cỡ quốc tế hay có giá trị thýõng mại lớn\. Trong hoạt động khoa học, số lýợng các bài báo đã đýợc công bố trên các tạp chí khoa học thýờng đýợc xem là một trong những chỉ số về nãng suất nghiên cứu và một thýớc đo về sự cống hiến cho kiến thức nhân loại\. Theo ýớc tính của tôi, trong suốt 25 nãm qua, các nhà khoa học gốc Việt ở hải ngoại đã cống hiến khoảng 14.000 bài báo khoa học trên các tạp chí y khoa, hóa học và sinh học\. Nếu đem con số này so với số lýợng của cả nýớc Thailand (5.200), Mã Lai (2.100) hay Singapore (6.900) thì đây là con số không nhỏ, nhýng nếu so với các cộng đồng sắc tộc khác nhý ngýời Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Ấn Độ, v.v\... thì con số này còn rất khiêm nhýờng.
Mặc dù trên trýờng quốc tế, các trí thức Việt Nam ta chẳng có cống hiến gì đặc biệt và thýờng rất khiêm tốn trýớc ngýời ngoại quốc, nhýng khi về lại với cộng đồng, họ lại rất hãng hái kể công và khệnh khạng với bằng cấp, chữ nghĩa, hù dọa bắt nạt đồng hýõng kém may mắn hõn họ\. Một số ngýời, do thiếu kinh nghiệm trong hoạt động khoa học hoặc do hám danh, đã tự họ quảng cáo một cách hết sức ngô nghê và tội nghiệp\. Những quảng cáo nhý "Ngýời Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp..." hay "Ngýời Việt Nam đầu tiên đýợc bổ nhiệm chức..." thực ra chẳng có ý nghĩa gì, nếu không muốn nói là rất khôi hài\. Ngoài ra, còn có nhiều ngýời, do không thông thạo các tổ chức khoa học hay cố tình lòe đồng hýõng, bằng các danh xýng nhý "viện sĩ" Viện Hàn lâm Khoa học New York, hay "có tên trong" các cuốn danh bạ kiểu "Who is Who in the World"\. Thực ra, bất cứ ai, kể cả sinh viên, cũng có thể trở thành viện sĩ hay có tên trong các cuốn sách loại này nếu họ đồng ý trả một khoản lệ phí hàng nãm\. Nó chẳng phải là một danh dự, càng không phải là chứng nhận về sự thành đạt trong hoạt động khoa học\. Có lẽ vì cái tâm tính "khôn nhà dại chợ" vẫn còn rất phổ biến trong nhiều trí thức gốc Việt, những danh hiệu do mua bán và tự quảng cáo này vẫn còn nhan nhản trong cộng đồng và ngay cả ở trong nýớc.
Cách đây hõn 60 nãm, cu. Đào Duy Anh đã viết nhý sau khi nhận xét về tính cách của ngýời Việt: "Về tính chất tinh thần thì ngýời Việt Nam đại khái thông minh, nhýng xýa nay thấy ít ngýời có trí tuệ lỗi lạc phi thýờng\. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hõn trí khoa học, giàu trực giác hõn luận lý\. Phần nhiều ngýời có tính ham học, song thích vãn chýõng phù hoa hõn là thực học, thích thành sáo và hình thức hõn là tý týởng hoạt động\... Tính khí cũng hõi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ýa hý danh và thích chõi cờ bạc" (17)\. Tôi thấy, cho đến nay, những nhận xét này vẫn còn chính xác, nhất là trong giới trí thức Việt Nam ở hải ngoại\.
Mới đây, theo một thống kê đýợc nhà nýớc Việt Nam công bố, có khoảng hai triệu rýởi ngýời Việt hiện đang sống rải rác trên toàn cầu\. Trong số này, có khoảng 300 nghìn ngýời có tay nghề cao hay có trình độ đại học trở lên\. Đây là một con số không nhỏ, nếu so với con số một triệu ở trong nýớc\. Có ngýời đã lạc quan cho rằng lực lýợng trí thức hải ngoại này có thể chắp cánh cho Việt Nam bay vào thế kỷ 21 cùng với các nýớc trong vùng\. Nếu chỉ đọc qua những bản tin về sự thành công của giới trí thức gốc Việt ở hải ngoại thì niềm tin týởng trên cũng có cõ sở\. Nhýng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi lại thấy đó chỉ là ảo vọng\. Tôi thấy cần phải cảnh giác những lời bình phẩm có tính cách tự cao tự đại nhý ngýời Việt Nam ta hiếu học, học giỏi, thông minh, v.v\... Trong thực tế, học lực của phần đông học sinh gốc Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, thậm chí dýới trung bình\. Tôi đã thấy nhiều sinh viên Việt Nam gặp khó khãn và cũng khốn đốn "vật lộn" để thi đỗ vào các trýờng đại học ơ? Úc và Mỹ\. Ngýời Việt ta chýa chắc đã hiếu học, nhýng chắc chắn là hiếu bằng cấp, hõn các dân tộc khác\. Thực ra, ở các nýớc Tây phýõng, học hành ra trýờng để có một mảnh bằng là một việc không khó, nhýng trở thành xuất sắc là việc không dễ chút nào\. Và cũng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi có cảm giác rằng sinh viên gốc Việt cũng không có gì gọi là xuất sắc trong học hành hay nghiên cứu so với sinh viên ngýời bản xứ\. Có ngýời đạt đýợc những thành tích výợt bực trong khi còn đi học, nhýng khi tốt nghiệp lại không có đóng góp hay sáng kiến gì đặc biệt, đáng kể\.
Tôi vẫn thýờng tự hỏi tại sao ta lại quá kém trong hoạt động khoa học nhý thế\? Có thể nói từ xýa, nýớc ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học\. Đọc lịch sư? Việt Nam từ các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần và Nguyễn, ai cũng thấy nýớc ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thõ, nhà sử học, nhýng rất ít nhà khoa học, kỹ sý hay nhà kinh tế\. Hệ thống giáo dục của nýớc ta ngày xýa đýợc bắt chýớc theo mô hình giáo dục của Trung Quốc, đòi hỏi ngýời học sinh phải tuân thủ sách vở một cách máy móc và không khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm, hay chất vấn\. Nó ca ngợi, tuyên dýõng những ngýời thuộc làu những điều rãn dạy của Khổng Tử, và coi thýờng những ai làm nghề tay chân (kỹ sý, khoa học gia, công nhân, nông dân, v.v...) hay làm thýõng mại\. Khi ngýời Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc đýợc thay thế bằng hệ thống giáo dục Pháp, một hệ thống có mục tiêu là đào tạo ra những thầy thông, thầy phán, hay quan chức để thực thi đýờng lối, chính sách của kẻ cai trị\. Hậu quả là nó làm cho học sinh tiêm nhiễm cái tâm lý hám danh và sính bằng cấp, học ra để làm quan, làm ông nghè hay nhằm giật đýợc một mảnh bằng để làm rạng danh gia đình hay khoe cùng ngýời hàng xóm, chứ không nhằm đóng góp kiến thức hay mang lại phúc lợi cho xã hội và nhân loại\. Với hệ thống giáo dục này, học sinh phải học thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao\. Lối giáo dục này vẫn còn kéo dài tới những nãm trong thập niên 60 và 70 mà tôi (và nhiều ngýời cùng thế hệ) từng là những "nạn nhân" của nó\. Chúng tôi không đýợc khuyến khích tìm hiểu những sự việc, hiện týợng chung quanh chúng tôi xảy ra nhý thế nào và tại sao\? Kết quả cuối cùng là nhiều thế hệ học sinh không có cõ hội nghiên cứu khoa học\. Và quan trọng hõn nữa, phần lớn những kiến thức về Việt Nam, về dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam\.
Tôi đã nói nhiều về những điều mà có thể quí độc giả cho là bi quan, nhýng tôi cũng có vài lý do để giữ mình lạc quan trong týõng lai\. Trong những nãm gần đây, tôi nhận thấy sự góp mặt của các nhà khoa học gốc Việt trên các diễn đàn quốc tế càng ngày càng đông đảo\. Trong thập niên 70 và 80, trung bình hàng nãm, các nhà khoa học gốc Việt công bố khoảng 258 bài báo khoa học; con số này tãng lên 683 trong những nãm 1990 và 1995 và vọt lên 1.170 vào những nãm cuối thập niên 90\. Một sự tãng trýởng theo cấp số nhân! Thực vậy, càng ngày tôi càng gặp gỡ nhiều anh chị em trẻ trong các hội nghị khoa học lớn trên thế giới, và họ cũng có nhiều ýu tý, ýớc muốn đýợc có mặt nhiều hõn trên các diễn đàn y khoa và khoa học quốc tế, để góp phần mang tên tuổi Việt Nam vào tri thức của nhân loại\. Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều nghiên cứu sinh từ Việt Nam trong các trýờng đại học ơ? Mỹ, Âu châu và Úc đã gia tãng một cách nhanh chóng và ở nhiều nõi, họ đã tạo đýợc sự kính nể của ngýời bản xứ\. Một số đã đýợc bổ nhiệm làm giáo sý trong các trýờng đại học lớn tại Mỹ\. Hy vọng rằng giải Nobel sẽ tới tay một nhà nghiên cứu tre? Việt Nam trong thế kỷ 21\.
Trong một bài nhạc thịnh hành thời thập niên 80 mà tôi thýờng nghe trong trại tỵ nạn ơ? Thái Lan, nhạc sĩ Trịnh Công Sõn có hỏi: "Em còn nhớ hay em đã quên..."\. Câu hỏi nhýng mà cũng là câu trả lời\. Nhý nhiều ngýời cùng cảnh ngộ khác, tôi ra khỏi quê hýõng không phải để tìm cái quên hay sự chối bỏ quê hýõng; ở trong tôi luôn tồn tại một cảm giác nhớ nhung day dứt, dằn vặt\. Mà thực ra con ngýời nào chả thế, con ngýời chẳng qua chỉ là một chủ thể luôn phải gắn mình với một nõi chốn nào đó, luôn phải chứng kiến sự hiện hữu của mình bằng một sự gắn bó với một địa điểm cụ thể\. Sự gắn bó đó chỉ có thể tạo dựng cái gọi là nỗi nhớ\. Cái nõi chốn cụ thể kia có thể gọi bằng hai tiếng "quê nhà"\. Một lần lênh đênh nguồn cội, tôi mới nghiệm ra rằng tôi là ai, nõi chốn của tôi là chỗ nào\. Vì lẽ đó, tôi là ngýời mãi mãi phát hiện, phát hiện một sự thực hiển nhiên rằng: đi không phải là chối bỏ mà để bắt đầu cho việc trở về tốt hõn\. Tôi vẫn tin rằng sẽ có một ngày không xa, tôi sẽ quay về quê nhà, để làm tròn bổn phận của một ngýời đýợc sinh ra và lớn lên ơ? Việt Nam\. Dĩ nhiên\.
Tôi coi bài tùy bút có lẽ quá dài này (chính tôi cũng không ngờ nó dài nhý thế!) là những tâm tình, chia sẻ tôi muốn gửi đến quí độc giả\. Thực ra, hai chữ "tùy bút" chýa chắc đã phân loại chính xác nội dung của bài viết, vì tôi chỉ ghi lại những kỷ niệm, thuật lại những hình ảnh mình đã thấy, những ngýời mình đã gặp trong một quãng đời định cý ở nýớc ngoài\. Có lúc phẫn nộ, có khi đau thýõng, có lần bất mãn\. Nhýng tất cả đó chỉ là những biểu hiện thông thýờng của một "nhân vô thập toàn"\. Có thể có bạn đọc đã tìm lại một kỷ niệm của mình trong bài này ở một nõi nào đó thuộc Việt Nam, Thái Lan, Úc hay Mỹ\. Tôi cảm thấy - chẳng biết có phách quá hay không\? - là ghi nhận những kỷ niệm, những điều mắt thấy tai nghe ấy, dù chỉ là những kinh nghiệm cá nhân, rất cần thiết trong giai đoạn lịch sử hiện tại, giai đoạn mà một thế hệ thứ hai ngýời Việt đang trýởng thành ở hải ngoại\. Tôi đọc đâu đó, ngýời ta có viết đại khái rằng, con ngýời học bằng ba phýõng pháp: ký ức, bắt chýớc và kinh nghiệm\. Hai phýõng pháp đầu thì rất dễ thực hiện, nhýng phýõng pháp thứ ba lại rất cay đắng\. Nhìn lại quãng đýờng đời đã đi qua, tôi thấy những nỗi nhục nhã, xấu hổ, những kinh nghiệm đắng cay thýờng là những đòn bẩy để tự mình výõn lên\. Có bị chê dốt thì mới học thêm cho bớt dốt\. Thực ra, điều này cũng chẳng có gì đặc biệt vì nói cho cùng, nó chỉ là bản nãng sinh tồn của con ngýời\. Dân tộc Việt Nam chúng ta còn dốt, còn thua kém các dân tộc khác rất nhiều, và vì lý do sinh tồn, mỗi chúng ta phải có nhiệm vụ làm cho dân tộc ta đỡ dốt để còn có thể ngẩng cao nhìn các dân tộc chung quanh\. Tôi nghĩ giới trí thức ngýời Việt thuộc thế hệ trýớc đã tạo nên một nền "vãn hóa giả trang" kiểu "áo thụng vái nhau" quá lâu\. Thành ra, thế hệ mới chúng ta cần phải tự mình tạo ra một cuộc cách mạng, đổi mới về tý duy học hành và làm việc, cụ thể là phải gột rửa những tri thức nửa mùa, phải từ bỏ cái truyền thống làm việc tài tử, phải chấm dứt lối học hành vặt vãnh, để phát triển một tinh thần khoa học duy lý, độc lập suy nghĩ, sáng tạo và thu nhận những tri thức đích thực khoa học\. Con đýờng học hành và khoa học rất mênh mông, nếu những kinh nghiệm cay đắng này của tôi có là một bài học - dù tốt để dùng hay xấu để tránh - cho các bạn trẻ thì âu cũng là một điều đáng khích lệ\. Đýợc nhý thế, tôi mới dám nhờ Tiên Điền tiên sinh nhắn hộ giùm tôi: "Của tin gọi một chút này làm ghi".
Dr\. Nguyễn Vãn Tuấn
_____________
Ghi chú:
(1) Tựa đề của bài tùy bút này đýợc mýợn từ ý của ca khúc "Cho đời chút õn" (trong bãng nhạc "Ru tình") của Trịnh Công Sõn, trong đó nhạc sĩ viết "Hãy còn býớc đi cho bình minh lên sớm": Trong thân phận mong manh vẫn còn hy vọng bình minh\.
(2) Trích ca khúc "Chiếc lá thu phai" (trong bãng nhạc "Ru tình") của Trịnh Công Sõn.
(3) Trích bài thõ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm, từng đýợc bầu là một trong mýời bài thõ hay nhất của 20 thế kỷ thõ Việt Nam.
(4) Tôi để chữ "tàu" trong ngoặc là vì nó không phải là một chiếc tàu theo nghĩa thông thýờng, mà chỉ là chiếc thuyền tam bản, dài khoảng 10 thýớc, ngang 4 hay 5 thýớc, đýợc chạy bằng hai cái máy dầụ
(5) Trích trong hai ca khúc đấu tranh của Nguyệt Ánh, rất thịnh hành trong trại tỵ nạn thời đó\. Tôi rất tiếc là không còn nhớ chính xác tựa đề của hai bài hát.
(6) Tôi có viết một bài về thảm trạng cýớp biển và tội ác của hải tặc Thái, đãng trên tạp chí "GoodWeekend" (1997) thuộc báo "Sydney Morning Herald" (Úc)\. Trong bài báo đó, tôi dùng chữ "Killing sea".
(7) Trích bài thõ "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" của Du Tư? Lê\. Bài thõ này đã đýợc nhạc sĩ Phạm Đình Chýõng phổ thành ca khúc có cùng tựa đề vào nãm 1980.
(8) Sau này tôi còn có dịp gặp anh ta nhiều lần ở trýờng Đại học Sydney\. Anh theo học chýõng trình cao học quản trị hành chính (MBA), và tôi là một trong những ngýời dạy anh về môn lý thuyết thống kệ
(9) Cabramatta nằm trong thành phố Fairfield, nay là nõi tập trung đông đảo cý dân ngýời Việt (khoảng 10 ngàn ngýời) và là một "Little Saigon" của Sydneỵ
(10) Sau này tôi mới biết là sau lần anh em tôi výợt biên, Ba tôi đã phải trình diện hàng ngày trong sáu tháng liền với công an xã để nghe họ giảng giải về chính sách của cách mạng\. Tất cả thý từ tôi gửi về nhà hoặc bị tịch thu, hoặc Ba tôi phải đọc trýớc các ông công an xã!
(11) Thực ra, chức vụ ban đầu của tôi lúc đó là phụ tá giảng viên (senior tutor).
(12) Ngày đầu nhận việc mới, tôi ghé qua nhà bếp bệnh viện thãm đồng nghiệp cũ\. Ai cũng ngạc nhiên và mừng rỡ gặp lại tôi sau một thời gian dài biệt tin, nhýng không ai biết là tôi đang làm trong một tòa nhà chỉ cách họ khoảng nãm phút đi bộ!
(13) Ngày nay, tôi và một số đồng nghiệp đang nghiên cứu vài phýõng pháp để tìm ra tất cả các di truyền tố có dính dáng tới cãn bệnh loãng xýõng\. Đây là một việc làm đầy tham vọng và "một ãn một thua"\. Hy vọng là các cõ quan tài trợ sẽ ủng hộ tôi và đồng nghiệp!
(14) Tạm dịch từ câu: "God-given place between two oceans\... a shining house on the hill\... a beacon to all the world" (diễn vãn của tổng thống Reagan đọc tại đại hội của nhóm Cựu chiến binh - Veterans of Foreign Wars - ơ? Chicago, ngày 18 tháng Tám nãm 1980).
(15) Trong thời gian ơ? Ohio, tôi đýợc hân hạnh quen biết một số bạn bè tỵ nạn nhý tôi và một số bạn đi từ miền Bắc Việt Nam\. Các anh chị này đã hết lòng giúp tôi trong thời gian ơ? Ohio, mặc dù chúng tôi chỉ quen biết nhau chýa quá một tuần! Tôi vẫn ghi đậm tấm lòng thịnh tình của những ngýời bạn thân thiết Ohiọ
(16) Trích từ bài thõ "Khi bắt đầu của những nãm ba mýõi" của Du Tư? Lê\. Bài thõ đýợc Trần Duy Đức phổ nhạc thành bài hát cùng tựa đề trong cuốn CD "K\. Khúc của Lê".
(17) Trích "Việt Nam vãn hóa sử cýõng" của Đào Duy Anh; Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản nãm 1992.; Trang 24-25.