Rằm tháng bảy

Lê Thu Quỳnh
(katia)

<img src="images/misc/pnkhrts1.gif" align="middle"
Nhân ngày rằm tháng bảy, sưu tầm được bài viết này khá hay. Cũng là giúp mọi người hiểu rõ hơn về ngày này. Em chẳng biết post vào đâu, thôi thì post tàm vào Thảo luận nghiêm túc ;).

(Những đoạn in nghiêng và in đậm là những đoạn giải thích cơ bản nhất về ngày này)


Ý nghĩa của Lễ Vu Lan


Hàng năm cứ vào độ trăng tròn tháng Bảy âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng Tám dương lịch là ngày lễ Vu Lan trở về. Vào ngày này các chùa Việt Nam và Trung Hoa thường thiết lễ rất trọng thể và các Phật tử đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ, cùng là được nghe các thầy giảng về ý nghĩa lễ Vu Lan và đạo hiếu của người con đối với các bậc sinh thành.

Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn của Phật Giáo Đại Thừa "Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn", do ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời Tây Tấn, tức khoảng năm 750-801 sau Công Nguyên và được truyền từ Trung Hoa vào Việt Nam, không rõ từ năm nào.

Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo huyền, có nghĩa là "cứu nạn treo ngược". Giải có nghĩa là gỡ ra cho khỏi vướng mắc, cởi trói buộc, giải mê lầm. Đảo là ngược, cũng có nghĩa bóng là những hành động điên đảo gây nên do sự thấy biết sai lầm, như việc phải cho là quấy và việc quấy cho là phải; do đó tạo nghiệp dẫn đến cảnh khổ. Huyền là treo. Đảo huyền là treo ngược, đầu trở xuống đất, chân đưa lên trời. Cụm từ "giải đảo huyền" nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược, gỡ cho họ khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi khổ đau ách nạn. Sâu xa, giải đảo huyền còn có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả những mối phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc cái tâm đi luân hồi, giải thoát khỏi sự trói buộc cuả tâm tham, tâm sân và tâm si.

Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Đề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân, thì thấy bà đang ở cõi ngạ quỷ vô cùng đói khổ. Ngài đem cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ ngài khi được cơm thì lòng tham nổi lên, sợ người khác trông thấy mà đến giành giựt hay xin bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên cơm đưa vào miệng liền biến thành than hồng không ăn được. Ngài vô cùng thương xót mà không biết làm sao cứu, bèn trở về thưa với Phật, xin ngài từ bi chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ. Phật dạy rằng vào ngày trăng tròn tháng bảy, tức là ngày lễ Tự Tứ của chư Tăng, sau ba tháng an cư kết hạ thanh tịnh, hãy sắm lễ vật và thỉnh chúng Tăng để cúng dường, nhờ sự chú nguyện của chúng Tăng thì mẹ Ngài sẽ được giải thoát. Ngài Mục Kiền Liên tuân theo lời Phật dạy, thỉnh chúng Tăng chú nguyện và nhờ đó mẹ ngài, bà Thanh Đề đã được sanh về cõi trời.

Hình ảnh bà Thanh Đề chụp ngay bát cơm khi ngài Mục Kiền Liên dâng lên, một tay che không cho người khác thấy vì sợ bị giựt, một tay bốc ăn, nói lên cái tâm mê muội tham lam của con người và hình ảnh khi bà vừa đưa tay bốc cơm thì cơm hoá thành than hồng cháy đỏ, bụng đói mà không sao ăn được, nói lên cảnh giới địa ngục. Thật ra ba cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh hay còn gọi là ba đường ác, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong con người chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta nóng giận là lửa địa ngục sân hận bừng cháy. Bất cứ khi nào tham dục nảy sinh trong tâm ta là chúng ta sống trong cảnh giới ngạ quỷ. Địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh là những nơi thọ quả báo của những chúng sanh gieo trồng nhân tham lam, sân hận và si mê. Nếu con người không chế ngự được ba thứ độc dược này thì luôn luôn sống trong toan tính, rồi từ đó ăn không ngon, ngủ không yên, triền miên đau khổ phiền não, luôn sống trong ác mộng và cuộc đời biến thành địa ngục lúc nào không hay biết. Quả là như thế, con người khi tham mà không được thì hay nổi sân và mỗi khi tham và sân chế ngự được tâm chúng ta thì chúng ta không còn kiểm soát được lời nói, ý nghĩ và việc làm nữa, do đó tâm thần trở nên bất an, xao động và hỗn loạn, nói những lời không nên nói, làm những việc không nên làm, và mang nhiều tư tưởng xấu xa đen tối. Nói cách khác, ta đang sống trong cảnh giới địa ngục vậy.

Thật ra, tâm bà Thanh Đề cũng có thể là tâm mẹ quá khứ của chúng ta và cũng có thể là tâm tham sân si của chính mình. Vì thế, muốn được siêu thoát, ngoài yếu tố chính là cọng lực chú nguyện của chư Thánh Tăng tác động lên tâm bà Thanh Đề, thì tâm bà Thanh Đề hay tâm mẹ quá khứ của chúng ta phải tự thức tỉnh, tự chuyển tâm sám hối lỗi lầm. Một khi tâm chuyển là cảnh giới địa ngục của chính mình tan rã, tựa như ánh sáng xoá tan màn đêm đen tối. Nếu không tự thức tỉnh, không tự chuyển hoá tâm, thì sức chú nguyện của chư Thánh Tăng cũng không thể nào cảm ứng để mà giải cứu được, bởi vì đối với Phật giáo, việc tái sinh đã không do một đấng sáng tạo mà do theo luật nhân quả tác động thì việc cứu độ vong linh cũng thế, cũng tuỳ thuộc vào luật nhân quả, chứ không thể cầu khẩn một đấng thần linh nào cứu được. Sở dĩ bà Thanh Đề thoát khỏi cảnh giới địa ngục, sinh về cõi trời là do sức mạnh bởi sự chú nguyện của chư Thánh Tăng và do sự tự thức tỉnh của bà Thanh Đề. Khác với sự cầu nguyện nơi một số tôn giáo khác, chú nguyện là tập trung hết năng lượng tư tưởng của mình vào một điều gì mình muốn cho tha nhân. Năng lực được tập trung lại đó có thể làm thay đổi tình thế như tia sáng Laser ngày nay do sự hội tụ của ánh sáng có thể đốt cháy được một vật ở rất xa ngoài không gian.

Một ví dụ điển hình khác là các nhà thôi miên, bằng sự tập trung tư tưởng vào một người, có thể nâng người đó lên hay di chuyển thân người đó dễ dàng. Đây là vấn đề sức mạnh của tư tưởng mà các nhà khoa học hiện đại đều công nhận. Các cao Tăng hay còn gọi là thanh tịnh Tăng, sau thời gian ba tháng an cư thiền định thường có tâm lực rất mạnh, dễ dàng tác động vào tâm của bà Thanh Đề khiến bà thấu rõ tội ác của mình trong quá khứ và nổi niệm sám hối, chuyển đổi tâm niệm, từ tâm ích kỷ tham lam độc ác, thành tâm vị tha quảng đại. Hễ tâm thay đổi thì ngay đó cảnh giới địa ngục khổ sở tan rã, theo như câu: "Tội tuỳ tâm sinh, tội tùng tâm diệt" hay "khổ tùy tâm sinh, khổ tùng tâm diệt". Nhờ vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, rời khỏi chốn địa ngục tối tăm cực khổ mà sinh vào cảnh giới an lành, không có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả. Ngài Mục Kiền Liên, tuy là bậc thần thông đệ nhất nhưng với đạo lực một mình vẫn không thể nào thay đổi được luật nhân quả, cứu vớt nổi mẫu thân, nên đã phải nhờ đến sức chú nguyện tập thể của mười phương Tăng trong ngày Tự tứ.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng kinh Phật thường có vô lượng nghĩa, để khế hợp với vô lượng tâm chúng sanh. Đức Phật là bậc đại từ đại bi, sau khi giác ngộ, Ngài trực nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, nhưng chỉ vì bị ba thứ độc hại: tham, sân và si lôi kéo mà bị dẫn đi trong luân hồi, như trường hợp bà Thanh Đề. Ngài muốn trải ruộng phước cho chúng sinh trồng xuống cây bố thí, đó là cánh cửa đầu tiên để cho chúng sinh tập hạnh xả bỏ, bớt đắm nhiễm vào của cải, bớt tham lam bỏn sẻn, cho nên Ngài dùng phương tiện thiện xảo dạy chúng sinh thực hiện pháp cúng dường chư Tăng, vừa tạo duyên lành cho Phật tử gieo trồng nhân thiện, vừa dạy cư sĩ thực hiện nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo, ngõ hầu chư Tăng ni có được đầy đủ vật dụng cần thiết mà an tâm tu hành cho tới giác ngộ, để tiếp tục trao truyền ngọn đèn chánh pháp, độ thoát cho hết thảy chúng sanh khỏi sanh già bệnh tử.

Tưởng cũng nên biết, trong dịp lễ hội Vu Lan, ngoài việc tụng kinh cầu siêu, thiết lễ cúng dường trai tăng tại các tự viện còn là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày ăn năn, sám hối, mong được tha thứ lỗi lầm. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm chú nguyện cho các vong linh sớm thoát khỏi những kiếp khổ đau. Ngày xá tội vong nhân được dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn được truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa vào thời Đường và được truyền sang nước Việt từ năm 1302, sau đó lễ này rất thịnh hành vào thời đại Phật Gíao nhà Trần qua việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là "diệm khẩu phổ thí pháp hội" có nghĩa là những đại hội về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói. Phép này được thực hành trên căn bản một tác phẩm tên là "Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp" do Bất Không dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Đường. Theo sự tích thì một đêm A Nan Tôn Giả, đệ tử Phật, thấy một con quỷ đói tên là Diệm Khẩu xin A Nan cho ăn cơm. A Nan hỏi Phật, nhân đó Phật chỉ bày phương pháp thí thực cho ngạ quỷ tức là quỷ đói.

Lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng. Dần dà về sau tại miền Nam Việt Nam, tập tục cúng cô hồn này biến thể từ hình thức đến nội dung, chuyển từ khuôn viên chùa ra ngoài dân gian và được lan rộng tổ chức tại các xí nghiệp thương mại và tại các công ty tư lập theo truyền tụng rằng, ngày này cửa địa ngục rộng mở, ngạ quỷ được phóng thích, nên cúng tế chúng để được buôn may bán đắt, tai qua nạn khỏi. Ngày xưa cúng cháo hoa và vàng mã cho cô hồn, canh ốc nhồi nấu với chuối xanh cho người sống; ngày nay giết gà, mổ bò, mổ heo làm cỗ linh đình gọi là cúng cô hồn nhưng thực là cúng cho người sống. Là Phật tử chúng ta không nên đi theo vết mòn xưa cũ, chỉ nên cúng chay theo truyền thống mà không nên giết hại súc vật và nên phát tâm bố thí đến những người nghèo khổ cùng là phóng sinh để báo hiếu cho cha mẹ ông bà quá vãng.


(sưu tầm)
Nguồn: vietnet.com.au

:x
 
Kể ra mấy cái này post trong box Văn thơ có vẻ hợp hơn là ở nơi thảo luận thế này nhỉ ;). Các Mod hay Admin thấy ko hợp thì move sang Văn thơ hộ em nhé. Em cảm ơn :x ;)

***

Lễ "xá tội vong nhân" không chỉ là dịp lễ để tỏ lòng thành kính với các bậc sinh thành, cũng không cúng riêng "quỷ miệng lửa" mà cúng tất cả các cô hồn nói chung. Nguời ta cho rằng, những ai khi sống phạm nhiều tội lỗi thì linh hồn sẽ bị xiềng xích chịu đày ải nơi địa ngục. Tuy nhiên, mỗi năm đến dịp rằm tháng Bảy, xiềng gông được mở để mọi cô hồn có dịp trở về dương thế gặp lại người thân, nhận tiền vàng, đồ ăn và quần áo. Mỗi năm một lần, mọi linh hồn, bất kể khi sống thế nào, đến ngày đó vẫn được "xá tội", được hưởng sự yêu thương của đồng loại. Nhà nhà mua sắm đồ vàng mã, nấu cháo loãng, rang bỏng ngô chuẩn bị cúng ngoài trời để đãi "ma đói" - những cô hồn vờ vật không có người thân cúng giỗ.
(vietnamnet)


***

Văn tế thập loại chúng sinh
Nguyễn Du


Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sing
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.


Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời


Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.


Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.


Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càngnăm càng héo một đêm một dài.


Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?


Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?


Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà khôngkẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?


Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.


Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?


Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!


Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?


Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?


Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?


Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre


Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài


:x
 
Em lại đọc trong quyển "phong thủy" thì những ai chết đi cũng phải qua cửa ải này nhưng cũng có người nặng người nhẹ.(vì có ai cả cuộc đời ko phạm lỗi nào đâu)Nhưng cứ đến ngày rằm tháng bảy hàng năm thì dưới địa ngục lại có đợt ân xá (giống như ngày 2/9 thì hoặc ân xá hay được phóng thích ý).Người ta đốt vàng mã để khi người thân được thả ra có cái mà dùng.
Chính vì thế ngày rằm tháng bảy phải cúng vào đúng 15 âm lịch,bi h nhiều nhà cúng trước là sai nên ko linh vì đã được thả đâu mà nhận vàng mã.
Có điều nữa là trong nhà có ai vừa mất thì muốn đốt vàng mã cho họ thì phải qua dỗ đầu đã thì họ mới hưởng được.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Em lại được biết nguồn gốc Lễ Vu Lan ký hơn 1 tí!

Đúng là đoạn sau, bà mẹ bị giam dưới 9 tầng địa nguc, nhưng trước đấy, phải bị làm sao thì mới bị giam chứ!:D Truyện là thế này:

2 mẹ con sống với nhau, mẹ thì là bà mẹ kia (hơi dốt Văn :D), còn người con thì là ông Thần Phật gì đó. 1 hôm, bà mẹ bị bệnh, ông này đi tìm thầy thuốc chữa mà không được, tìm mãi, tìm mãi mả chẳng có ai chữa được cái bệnh quái ác của bà mẹ. Một đêm, ông này mơ thấy Phật tổ dạy :" Muốn chữa được bệnh cho mẹ, phải đi phổ độ chúng sinh, dạy Đạo Phật cho nhân dân, tu nhân tích đức, thì lúc đây mẹ mới khỏi bệnh". Bà mẹ bị bệnh, chẳng vì đức tính ích kỉ, hẹp hòi của mình mà sinh bệnh. Trước khi đi, người con dặn :" Mẹ đã như vậy, nên kiêng khem, đừng tiệc tùng, thịt thà nhiều, chỉ rau quả qua ngày thôi". Người con đi mất, lòng tham nổi lên, bà mẹ giết thịt bà, gà, trâu, lợn rồi nấu nướng, xào xáo, mời các bạn bè của bà đến, coi như liên hoan vì bà đã hết bệnh (vì tất nhiên, khi con bà đi giảng đạo như vậy, bà sẽ khỏi bệnh). Vì không nghe lời con dặn nên bà đã bị chết, rồi bị đày xuống 9 tầng địa ngục.
Người con về thấy mẹ mình chết, thương lắm, bèn lấy dao, cắt 1 phần lòng bàn chân của mình để nấu cháo thịt cho mẹ ăn, vì trong nhà, chả còn con vật nào nữa cả! Đây lại là một đoạn truyện để giải thích, vì sao lòng bàn chân con người chúng ta ngày nay bị lõm một ít. Người con mong rằng, với cháo mình nấu, người mẹ sẽ được sống lại, nhưng vì những gì mà người mẹ đã làm, ngay đến cháo của một vị cao tăng (vì đã thành chính quả) nấu cũng chẳng còn tác dụng. Xuống đến địa ngục thì như mọi người biết, bà mẹ không được ăn uống gì cả, bị bỏ đói. Người con khi đấy đã tu thành chính quả, xin Phật Tổ cho xuống thăm mẹ. Người con mới giấu, cho mẹ ăn 1 bát cơm thì vì lòng tham vẫn còn, bát cơm của người mẹ hóa than! Tiếp theo thì như chị Quỳnh đã post bên trên!
Cũng vì thế mà gọi tháng Vu Lan là tháng "Báo hiếu cha mẹ"

Câu truyện có tính khuyên răn cực kỳ lớn! Em rất thích! Rất mê tháng Vu Lan luôn! :D:D
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Xin lỗi em Quỳnh, chị câu bài tí ^^

Vô ní thật, các oan hồn bị xiềng xích cả năm, đến ngày rằm tháng 7 được thả ra nhận tiền vàng thì sau đó tiêu lúc nào?
Với cả sao mẹ lại tham thế :( Bôi bác mẹ quá!

(viết bài ngắn xấu hổ, viết thêm tí nữa vậy:">)

Chuyện lòng bàn chân bị lõm cũng có trong cổ tích các dân tộc miền núi phía Bắc. Đại khái là theo phong tục xưa, khi có đám ma thì cả làng đến xẻ thịt người chết ra ăn:-s (chắc để người quá cố "sống mãi trong lòng chúng ta"). Có hai anh em nhà nọ cha mẹ đều chết, họ thương xót không muốn xẻ thịt cha mẹ, bèn mổ trâu bò gà lợn cúng làng. Mổ hết trâu bò gà lợn rồi vẫn còn một người chưa có phần, hai anh em bèn cắt thịt bàn chân ra nấu nốt :(( Nhiều người sau đó cũng bắt chước làm theo, từ đó mà có tục làm đám ma và trẻ con về sau sinh ra chân đều lõm nhắc nhở về lòng hiếu thảo với cha mẹ.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Truyện của chị Hương đúng là có ý nghĩa hơn truyện của em 1 tí nhỉ! :D
Còn các cô hồn, được thả ra trong 1 ngày, nhận tiền vàng, ô tô xe máy xong, chắc rồi họ cũng phóng vèo vèo đi tìm mua thức ăn thôi chị ạ! :D Chắc rồi cũng được ăn no 1 bữa! :| Khổ thân, ai bảo sống ác quá, xuống đấy bị bỏ đói! [-x[-x[-x Không nên như thế! :):)
 
Xuân Hương tồ tẹt hay thắc mắc thế :D. Thì cũng như bây giờ phạm nhân ở tù vẫn dùng đến tiền đấy thôi :p. Vẫn có người nhà vào thăm rồi cho cái này cái kia. Mấy cái ma cũ này quanh năm ko có ng cũng vái, ko ai thăm hỏi, đến ngày này được thả ra nhận đồ rồi mang về dùng dần trong cả năm :D. Chắc thế :p.

Đùa chứ hôm qua hỏi mẹ, mẹ còn bảo là cũng lễ Vu Lan (tức là để báo hiếu cho cha mẹ, ông bà) thì ng ta thường cúng trước ngày Rằm mấy hôm (tức là khoảng từ ngày 11 gì đó), đốt vàng mã và quần áo. Còn cúng chúng sinh "xá tội vong nhân" thì cúng đúng ngày và chỉ đốt tiền vàng thôi. Mục đích phải cúng sớm vì sợ đúng hôm Rằm các ma được thả ra, đi lung tung, ăn tranh phần của ông bà, tổ tiên mình :p.

Hic, nói chung là các truyền thuyết dân gian thì mỗi người, mỗi vùng miền, địa phương sẽ lại có cách kể theo ý riêng của mình, dựa trên 1 tích cổ gốc nào đó. Ngày Rằm tháng bảy có lẽ là 1 trong những dịp lễ quan trọng của Phật giáo. Ở trong miền Nam từ trước ngày rằm 1 tháng, tại các chùa chiền đều đã có rục rịch chuẩn bị, như 1 đại lễ vậy. Câu chuyện mà em post đầu tiên ở trên về nguồn gốc của ngày này cũng là theo ghi chép của Kinh phật. Cũng có thể vì câu chuyện này cũng như ngày lễ Rằm tháng Bảy này tiêu biểu tư tưởng Phật giáo: "đại từ đại bi", "cứu khổ cứu nạn".

Em ko hiểu nhiều về Kinh Phật nên cũng chỉ dám nhận xét vài điều thế thôi. Nếu có gì nói sai thì mọi người bỏ qua cho em. Mà em thấy mỗi một ngày lễ của nước ta, đi tìm hiểu nguồn gốc, các truyền thuyết, phong tục tập quán thế này cũng hay phết nhá. Hiểu được thêm nhiều điều ;)

:x
 
Quái nhỉ, theo như bài Văn tế của cụ Nguyễn Du thì các cô hồn là những oan hồn không nơi nương tựa, không siêu thoát được nên lang thang vất vưởng khắp nơi chứ, đâu phải bị xiềng xích.

Theo các tích truyện dân gian thì cô hồn không đầu thai được, cũng không có hộ khẩu ở âm phủ (ko ai cúng vái hóa vàng cho tiền đâu mà xây nhà :D), kiểu như là ăn mày cõi âm í, phải nương náu ở những nơi âm u tịch mịch như vườn rậm, nhà hoang, bãi tha ma... Hồn chết oan, bị hại v.v... thì ở lại đúng nơi mình chết, chứ ko bị xiềng xích đầy ải gì. Vì thế mới có chuyện cái nhà ma ở khu Ngoại giao đoàn trên đường Kim Mã, xưa có hai ông bà Tây đến ở rồi treo cổ tự tử trên cái cây to trước nhà, từ đấy trở đi thỉnh thoảng vẫn thấy 2 ông bà hiện về đứng dưới gốc gây nói chuyện hehe;;) Cái nhà đấy từ khi xây đến giờ không ai ở, không được tu sửa, cũng ko ai dám phá đi >:)
 
Á Quỳnh tồ dám bảo tao tồ nhá X( Nhớ đấy! Hôm nào tao với thằng Quách úp sọt mày bỏ vào cái nhà ma cho nói chuyện Vu Lan với 2 ông bà Tây >:)
 
Chị Quỳnh đã viết:
Còn cúng chúng sinh "xá tội vong nhân" thì cúng đúng ngày và chỉ đốt tiền vàng thôi. Mục đích phải cúng sớm vì sợ đúng hôm Rằm các ma được thả ra, đi lung tung, ăn tranh phần của ông bà, tổ tiên mình .
Hê, bà em cũng nói cái này chị ạ, quên mất không nói! :D

Cô hồn đúng là kô có chỗ nương tựa nên mới lang thang quanh quất, hay còn gọi là "ma đói, ma khát". Chính vì thế nên khi cúng Chúng sinh - với rất nhiều quần áo - phải có thêm bát gạo và bát muối, để đến khi đốt quần áo đó thì tung gạo và muối ra tứ phương tám hướng để cho những cô hồn đó ăn, như kiểu dụ khị, không cho họ cướp mất đồ đạc của ông bà của mình, hơn nữa là để họ không phá phách gia đình, làm cho con cái "đói" và "khát".
Không hiểu sao, cứ nghe đến 2 chữ Vu Lan là em nghĩ đến HOA ĐẠI, nó có cái gì trong trắng, tinh khiết!, rất phong cách "biết ơn cha mẹ" :D:D:D
 
Back
Bên trên