Pinball - Haruki Murakami [truyện dịch]

Nguyễn Thị Kiều Minh
(kieuminh)

Active Member
Pinball, 1973
Haruki Murakami


Nguyễn Thị Kiều Minh dịch
từ bản tiếng Anh của Alfred Birnbaum


1969 – 1973

Tôi đã từng thích nghe những câu chuyện kể về những miền đất xa xôi, thích tới mức gần như bệnh hoạn.

Đã có một thời gian, 10 năm trở về trước, khi tôi bám theo hết người này đến người khác để yêu cầu họ kể cho tôi nghe về nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Dường như, vào lúc bấy giờ, hiếm có ai sẵn lòng lắng nghe và cảm thông với người khác, cho nên tất cả mọi người đều cởi mở đối với tôi, và sốt sắng kể cho tôi nghe tất cả. Những người tôi thậm chí không quen biết không hiểu sao lại biết đến tôi và tìm đến tôi.

Đó như thể là họ ném những viên sỏi xuống một cái giếng khô: họ sẽ tiết lộ tất cả những loại câu chuyện khác nhau theo cách của tôi, và khi đã kể xong, hầu như tất cả đều hài lòng trở về nhà. Một số người nói chuyện một cách thoải mái, một số khác lại trở nên khá giận dữ với những điều họ nói ra. Một số người kể chuyện có ngọn có ngành; nhưng thường thì mọi người kể những câu chuyện mà từ đầu đến cuối, tôi không thể biết đâu là mở đầu, đâu là kết thúc. Có những câu chuyện nhàm chán, cảm động lâm ly cũng có, mà như một mớ bong bong với những điều gần như vô nghĩa lý cũng có. Mặc dù vậy, tôi vẫn kiên trì đến chừng nào tôi có thể, và ngồi nghe một cách nghiêm túc.

Mỗi người đều có một điều gì đó mà họ khao khát được kể cho ai đó hoặc gào lên cho cả thế giới nghe – ai mà biết được tại sao chứ? Tôi cảm thấy như thể mình được trao một cái thùng bằng giấy các-tông nhét đầy khỉ. Tôi nhấc từng con khỉ ra khỏi hộp, cẩn thận phủi bụi đi cho chúng, vỗ yêu vào mông chúng và thả cho chúng bò vào những cánh đồng. Tôi không bao giờ biết chúng đến từ nơi đó. Chúng sẽ sống những ngày cuối đời trong việc gặm quả dầu ở một nơi nào đó. Trừ phi, xét cho cùng, là số mệnh của chúng.

Vậy đấy. Tất cả nỗ lực bỏ ra mà cuối cùng hầu như chẳng nhận được gì. Nghĩ mà xem, tôi cá là nếu có một cuộc thi Người Lắng nghe Nghiêm Chỉnh Nhất Thế Giới vào năm đó thì tôi sẽ chiến thắng một cách dễ dàng. Và tôi chắc chắn sẽ nhận được giải thưởng là một thùng diêm nhóm bếp.

Trong số những người đã nói chuyện với tôi có 1 gã đến từ sao Thổ và một gã khác sao Kim.

“Ở đó, khí hậu… lạnh khủng khiếp”, gã đến từ sao Kim than thở. “Cứ nghĩ về nó mà xem, nó làm tôi s…s…ssợ.”

Gã thuộc về một nhóm chính trị đã tiến hành tiếp quản Tòa Nhà 9 ở trường đại học. Khẩu hiệu của bọn gã là “Sự đấu tranh quyết định hệ tư tưởng – không phải sự duy trì” Không ai có thể cho nói cho gã cái gì quyết định đấu tranh. Không vấn đề gì, Tòa Nhà 9 có 1 cái máy làm nước lạnh, 1 cái điện thoại và 1 cái ấm đun nước, ở tầng trên họ có 1 phòng nhạc tử tế với bộ loa Altec A–5 và một bộ sưu tập lên đến hàng nghìn đĩa nhạc. Đó quả là một thiên đường (so với Tòa nhà 8 – có mùi như cái nhà vệ sinh ở trường đua ngựa). Sáng sáng, họ có thể cạo râu gọn gàng và sạch sẽ với tất cả nước nóng mà họ muốn, đến buổi chiều họ có thể gọi bao nhiêu cú điện thoại đường dài tùy thích, và khi màn đêm buông xuống, tất cả bọn họ có thể ngồi lại với nhau và cùng nghe nhạc. Trước khi mùa thu kết thúc, mỗi thành viên đều đã trở thành kẻ cuồng tín của nhạc cổ điển.

Một buổi chiều tháng 11 đẹp trời, cảnh sát chống bạo động dùng vũ lực xông vào Tòa nhà số 9 trong khi bản L’Estro Armonico của Vivaldi’s đang chơi đến đoạn kèn. Tôi không biết chuyện này có thể chính xác đến mức nào, nhưng nó làm tôi nhớ đến một câu chuyện chân tình hơn vào năm 1969.

Khi tôi vượt qua “chướng ngại vật” mà họ dựng nên bởi những chiếc ghế băng xếp chồng lên nhau, bản sonata dành cho đàn piano của Haydn ở cung son thứ đang được chơi một cách êm ái. Bầu không khí thoải mái và dễ chịu như ở nhà và hấp dẫn như một con đường nhỏ dẫn đến nhà bạn gái, với những bụi hoa sansanqua rực rỡ dọc hai bên đường. Gã đến từ sao Thổ mời tôi ngồi xuống chiếc ghế tuyệt nhất ở đó và rót bia ấm vào cái cốc vại được chôm chỉa từ tòa nhà khoa học.

“Ở trên đó, trọng lực thật ghê gớm,” hắn tiếp tục kể về sao Thổ “Đã có những kẻ ngốc làm gãy mu bàn chân của mình khi nhổ bã kẹo cao su. Một địa ngục tt…t…thực sự!”

“Ừm, tôi cũng đoán vậy,” tôi giục hắn kể tiếp sau một vài giây. Lần đó, tôi đã phải ậm ừ khoảng ba trăm lần để lấp những khoảng dừng vụng về như thế.
“Mặt trời cũng rất nhỏ. Đ…đđấy mới chỉ là một trong số đó thôi. Hãy mang tôi đi – chừng nào tôi ra khỏi trường và trở lại sao Thổ. Và tôi sẽ lập nên một đất nước hh…hùng mạ…ạạnh. Một cuộc c…cá…ách mm…ạ…ạng.”

Dù thế nào đi nữa, chỉ cần nói rằng tôi thích nghe kể chuyện về những miền đất xa xôi. Tôi đã tích trữ cả kho chuyện về những nơi đó, như một con gấu chuẩn bị cho kỳ ngủ đông. Tôi nhắm mắt lại, và những con đường sẽ hiện ra, những dãy nhà hình thành. Tôi có thể nghe thấy giọng nói của mọi người, cảm nhận được sự thoải mái và nhịp điệu đều đều của cuộc sống của họ, những người đó ở quá xa, chắc tôi chẳng bao giờ biết họ được.

* * *​

Naoko thường nói với tôi về những điều đó, và tôi nhớ tất cả những từ ngữ của nàng.

“Mình thực sự không biết làm thế nào.” Naoko cố nở một nụ cười. Cô đang ngồi trong căng–tin chan hòa ánh nắng ở trường đại học, chống khỷu tay lên bàn và cằm tựa vào lòng bàn tay. Tôi kiên nhẫn đợi cô tiếp tục. Như thường lệ, cô lại mất thời gian chỉ để tìm ra những từ chính xác.

Chúng tôi ngồi đó, giữa tôi và nàng là chiếc bàn nhựa đỏ, trên đó có một chiếc cốc giấy đầy tràn những mẩu thuốc lá vừa hút xong. Từ một chiếc cửa sổ cao, những tia nắng lọt vào, chiếu thẳng lên bức vẽ của Rubens, đồng thời cũng chia cái bàn thành hai nửa sáng và tối. Tay phải của tôi đặt trên bàn trong nửa sáng, và tay trái trong nửa tối.

Mùa xuân năm 1969, như các bạn thấy, chúng tôi mới bước vào tuổi hai mươi. Và với tất cả sinh viên năm nhất, những kẻ chưng diện những đôi giày mới toanh, mang theo đủ các loại sách mới toanh, và đầu nhét đầy những kiến thức mới toanh thì chẳng có đủ chỗ cho chúng tôi bước vào căng–tin. Ở xung quanh chúng tôi, những sinh viên năm đầu không ngừng đâm sầm vào nhau, trao cho nhau những lời lăng mạ hay chào hỏi.

“Mình cho cậu biết nhé, thị trấn đó thật chẳng đáng để đề cập đến đâu,” cô tiếp tục. “có một cái đường ray chạy qua, kéo dài tít tắp và một nhà ga nhỏ tồi tàn mà một người lái tàu có thể dễ dàng bỏ lỡ trong một ngày mưa.”
Tôi gật đầu. Rồi trong đầy ba mươi giây, cả hai chúng tôi lơ đãng nhìn chằm chằm vào đám khói thuốc lá đang cuồn cuộn lên xuyên qua những tia nắng.

“Một con chó có thể đi từ đầu này đến đầu kia của sân ga. Đó là loại nhà ga như vậy đấy.”

Tôi gật đầu.

“Ở ngay đối diện nhà ga là một điểm dừng xe buýt và một đường lái xe vòng tròn để ôtô có thể đón và trả khách. Và một vài cửa hàng…thực sự là những cửa hàng nhỏ và tẻ ngắt. Đi thẳng về phía trước, cậu sẽ thấy một công viên với một cái cầu trượt và ba cái xích đu.”

“Và một hố cát?”

“Hố cát ấy à?” Cô nghĩ một lát rồi gật đầu xác nhận. “Ừ, có một cái.”

Thêm một lần nữa chúng tôi rơi vào sự im lặng. Tôi cẩn thận dập lửa mẩu thuốc lá của mình trong chiếc cốc giấy.

“Một thị trấn tẻ nhạt khủng khiếp. Mình không thể tưởng tượng nổi cái nơi u ám đó được tạo ra với mục đích gì.”

“Thượng đế có cách làm việc thật kỳ lạ,” tôi châm chọc.

Naoko lắc dầu và cười một mình. Đó phần nào chỉ là nụ cười của một sinh viên nữ, nhưng nó đọng lại trong tâm trí tôi trong một thời gian dài đến kỳ quặc. Rất lâu sau khi cô ra đi, nụ cười của cô vẫn còn vẹn nguyên, như nụ cười nhăn nhở của con mèo Cheshire trong bộ phim hoạt hình Alice ở xứ sở thần tiên. Và tôi chợt lóe lên ý nghĩ rằng mình muốn nhìn thấy một con chó đi tới đi lui dọc chiều dài sân ga xe lửa.

* * *​

Bốn năm sau, vào tháng Năm năm 1973, tôi đến thăm cái nhà đó một mình. Chỉ để nhìn thấy con chó ấy. Tôi cạo râu, đeo một cái cà-vạt mới – lần đầu tiên sau sáu tháng, và xỏ đôi giày Cordovan của mình vào.

* * *​

Bước xuống từ chiếc tàu hai–toa địa phương tồi tàn, điều đầu tiên gây ấn tượng cho tôi là mùi quen thuộc của không gian cỏ mọc đầy, như mùi vị của một con đường đi picnic. Những thứ đó gợi tôi nhớ về quê hương, tất cả những gì đã làm con đường của tôi nở hoa trong một cơn gió nhẹ tháng Năm. Tôi ngẩng đầu lên và căng tai ra để có thể lắng nghe tiếng hót líu lo của những con chim sẻ.

Ngáp một hơi dài, tôi ngồi xuống một cái băng ở sân ga và thất vọng hút một điếu thuốc. Sự hăng hái tôi mang theo khi rời căn hộ của mình lúc này đã hoàn toàn tan biến. Mọi việc lại lặp lại như cũ, không có gì thay đổi. Hay là dường như vậy. Một cảm giác nhàm chán vô tận trở nên tồi tệ hơn ở mỗi ngã rẽ.

Đã có một thời gian khi tôi và lũ bạn thường ngủ thiếp đi, nằm lăn ra sàn nhà. Thường thì rạng sáng, sẽ có ai đó dẫm lên đầu tôi để đi vào nhà vệ sinh và sau đó là “Ối, xin lỗi nhé.” Cứ thế, lặp đi lặp lại.

Tôi nới lỏng cà–vạt, đưa đi đưa lại điếu thuốc trên miệng, tháo đôi giày không–vừa–lắm của mình ra để bớt cơn đau ở hai bàn chân. Cơn đau ấy không phải là điều tồi tệ nhưng nó mang đến cho tôi cảm giác không thoải mái rằng cơ thể tôi bằng cách này hay cách khác đã vỡ ra thành tửng mảnh.

Không có dấu hiệu của bất cứ con chó nào.

* * *​

Một cảm giác không thoải mái…

Cảm giác không thoải mái này thỉnh thoảng lại trùm lên tôi, và tôi cảm thấy mình vừa được ráp lại từ hai mảnh ghép khác nhau. Dù nó là cái gì đi nữa, những lúc như thế tôi thường nốc cạn một chai whiskey và đập vỡ vỏ chai. Và khi tôi tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, mọi thứ thậm chí còn tồi tệ hơn. Mọi thứ vẫn như cũ, thêm môt lần nữa.

Một lần khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang kẹp giữa hai cô gái sinh đôi. Bây giờ những thứ như vậy đã xảy ra với tôi nhiều lần, nhưng tôi phải thừa nhận rằng đó là lần đầu tiên. Cả hai cô nàng đều ngủ cho qua ngày, mũi rúc gọn vào vai tôi. Đó là một buổi sáng Chủ nhật rực rỡ và trong trẻo.

Cuối cùng, họ cũng tỉnh dậy – gần như cùng một lúc – và tiến đến chui vào áo sơmi và quần jean họ vứt dưới gầm giường. Không nói một lời nào, họ bước vào bếp, làm bánh mì nướng và cà phê, lấy bơ trong tủ lạnh, và bày tất cả lên bàn. Họ biết mình đang làm gì. Ngoài cửa sổ, lũ chim, mà tôi không nhận ra, đậu trên hàng rào mắt cáo của sân golf và hót líu lo.

“Tên các cô là gì?” Tôi hỏi họ. Tôi vẫn còn thấy khó chịu.

“Chúng tôi không có tên,” cô gái ngồi phía bên phải nói.

“Thực vậy,” cô gái bên trái nói. “Anh biết nó thế nào rồi đấy.”

“Vâng, tôi biết.” tôi đáp.

Rồi chúng tôi ngồi đối diện nhau bên bàn ăn, nhai bánh mì nướng và uống cà phê. Cà phê ngon.

“Việc chúng tôi không có tên không làm anh khó chịu đấy chứ?” một trong hai cô hỏi.

“Ừm… chị nghĩ sao?”

Họ suy nghĩ một lúc.

“À, nếu anh chỉ đơn giản là phải đặt tên cho chúng tôi, hãy chọn lấy cái tên nào đó có vẻ phù hợp,” cô gái còn lại đề nghị.

“Hãy gọi tôi bằng bất cứ cái tên nào anh thích.”

Hai cô gái luôn luôn nói một cách lần lượt. Cứ như cái radio khi dò kênh. Và điều này làm cho đầu tôi thậm chí còn đau hơn trước.

“Ví dụ?” Tôi hỏi.

“Trái và Phải” một cô nói.

“Ngang và Dọc” cô kia nói.

“Lên và xuống.”

“Trước và Sau.”

“Đông và Tây.”

“Vào và Ra,” Tôi quyết định chen vào, nhưng không phài để chơi trội. Hai cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười với vẻ hài lòng.

* * *​

Nơi nào có lối vào, nơi ấy hẳn có lối ra. Hầu như tất cả mọi thứ đều vận hành như vậy: hòm thư công cộng, máy giặt, sở thú, lọ đựng gia vị bằng nhựa… Tất nhiên, có những thứ không như thế, bẫy chuột chẳng hạn.

* * *​

Có một lần tôi đã đặt một cái bẫy chuột phía dưới bồn rửa bát. Tôi dùng một cái kẹo bạc hà cay làm mồi. Sau khi tổng vệ sinh căn hộ, đó là thứ đồ ăn duy nhất để dụ bọn chuột mà tôi có thể tìm thấy. Tôi tìm được nó trong túi áo khoác mùa đông, cùng với một cái cuống vé xem phim.

Vào buổi sáng ngày thứ ba, một con chuột nhỏ đã đùa với định mệnh. Vẫn còn rất nhỏ, con chuột có màu của những chiếc áo len casơmia mà bạn vẫn thấy chất đống ở cửa hàng miễn thuế Luân–đôn. Con chuột có thể ở vào độ tuổi mười lăm hoặc mười sáu, xét theo tuổi của con người. Một lứa tuổi mềm yếu. Một mẩu kẹo mới–cắn–ra nằm dưới chân nó.

Tôi không có ý định sẽ làm gì với con chuột vì rằng tôi đã tóm được nó. Con chuột chết vào sáng ngày thứ tư, cái chân sau vẫn kẹp dưới cái dây lò xo. Nhìn nó nằm đó, tôi học được một bài học. Tất cả mọi thứ cần có lối vào và lối ra. Đầu đuôi câu chuyện là thế.

* * *​

Chạy quanh những ngọn đồi, những con đường thẳng đến mức tưởng như chúng được kẻ bằng thước. Xa xa, bạn có thể nhìn thấy những cánh rừng, như những chiếc bánh ngọt nhỏ được bọc loại giấy màu xanh lá cây ảm đạm. Đường ray lấp lánh trong nắng, hòa vào với màu xanh lá cây ở phía xa. Dù bạn có đi xa đến thế nào, cảnh vật đó vẫn không đổi khác. Ý nghĩ bi quan của tôi là liệu chỉ có duy nhất quang cảnh đó không. Thế thì đi tàu điện ngầm còn hơn.

Tôi đã hút xong điếu thuốc, vươn vai co giãn một chút, và nhìn lên trời. Đã lâu lắm rồi kể từ khi tôi thực sự nhìn bầu trời. Hoặc đúng hơn là đã lâu rồi kể từ khi tôi thử nhìn một cái gì đó một cách thực sự.

Không chỉ có một đám mây trên bầu trời. Thậm chí, tất cả đã bị che phủ trong quang cảnh mờ đục ảm đạm của mùa xuân. Từ phía trên, mặt trời đang có sự nỗ nực đáng quý để xuyên qua sự che phủ mơ hồ đó; ánh mặt trời như được rắc xuống lặng lẽ – như một thứ bột mịn từ bầu khí quyển; tạo thành một lớp trên mặt đất; mà không ai hay biết.

Ánh sáng thống trị trong cơn gió ấm áp. Không khí tràn trề một cách dễ dàng như một bầy chim chuẩn di cư, tập hợp thành nhóm để bay. Nó lướt xuống sườn dốc xanh tươi thoai thoải dọc theo đường ray, vượt qua khu rừng và không làm khuấy động dù chỉ một chiếc lá. Tiếng gọi của con chim cúc cu vang lên và biến mất ở vách đá. Ngọn đồi này kế tiếp ngọn đồi kia trông như những con mèo khủng lồ ngái ngủ, nằm cuộn tròn trong cái hố ánh sáng của thời gian.



[tạm thế đã :D, mọi người cho biết ý kiến nhé. :D. Truyện này chưa được dịch và xuất bản ở Việt Nam.]
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên