Phở, Phởn, Phịa...(Tào lao một chút cho qua ngày)

Đinh Xuân Tú
(nonbadboy)

New Member
Nguyễn Dư

(Kính tặng quý ông, quý bà đã từng mê mệt vì phở)

Hôm nay tôi xin được tập tễnh múa rìu qua mắt bá quan văn võ của viện hàn lâm ẩm thực, lạm bàn về phở.
Thật ra thì những điều cần nói về phở đã được các chuyên gia mổ xẻ, phân tích, ca tụng từ năm xửa năm xưa hết rồi. Chỉ cần lật mấy bài viết về phở của Thạch Lam (Hà Nội ba mươi sáu phố phường, 1943), Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội, khoảng 1952), Nguyễn Tuân (Phở, 1957) ra đọc là ai cũng có thể cảm nhận được hết cái ngon, cái thú, cái quyến rũ của một món quà cổ truyền của ta.

Nếu vậy thì còn gì để phải nói nữa ?

Ấy đấy, nếu chỉ ngừng ở chỗ ngon, ở cái thú thì chuyện đã xong từ lâu rồi. Khốn nỗi sau những giây phút no ấm ngất ngây, tinh thần sảng khoái, các chuyên gia ẩm thực lại bắt đầu... thắc mắc. Thế là chả ai bảo ai, tất cả cùng vung tay gạt bát đũa sang một bên, rủ nhau ngồi bàn luận hăng say, có người quên cả xỉa răng.

Câu hỏi quan trọng đầu tiên được các vị đặt ra là phở từ đâu ra ?


Nguyên Thanh (Phở, Đoàn Kết số tháng 10, Paris, 1987) , Nguyên Thắng và Xưng Xa Hột Lựu (Mũ phở khăn rằn, Đoàn Kết số tháng 7-8, Paris, 1988) đã luận bàn tỉ mỉ, chí lý về nguồn gốc của phở. Theo một số học giả thì phở vốn gốc Tàu, được Việt hóa. Tên phở đến từ chữ phấn của ngưu nhục phấn. Tuy nhiên thuyết này vẫn còn bị nhiều người phản đối khá gay gắt. Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam ! Tại sao cứ phải mang mặc cảm, chối bỏ nguồn gốc như vậy?
Ta bị mặc cảm, nhưng tự ti hay tự tôn? Đang còn phân vân thì bỗng nghe tin Pháp đòi bản quyền tác giả của phở. Các ông ấy được tư vấn, cố vấn ra sao mà cứ nhất định rằng phở bắt nguồn từ... pot-au-feu.

Thoạt nghe thấy cũng có lý. Rõ ràng là tiếng phở của ta nghe rất giống tiếng feu của Pháp. Phở phải ăn nóng... như lửa mới ngon! Eo ơi ! Thế là một số bà con Việt Nam ta thắc mắc, hoài nghi, cuối cùng ngả theo thuyết cho rằng phở là của Pháp chứ chẳng phải ta hay Tàu gì cả.

Nể tình mà nói thì thực dân Pháp đến cai trị nước ta trong khoảng gần 100 năm đã để lại dấu vết của sâm banh, bít tết, ba tê, ba gai, xà lách, xà lim, cà rốt, cà nông v.v. và v.v., như vậy thì món pot-au-feu cũng có thể là cha đẻ của phở lắm chứ ?

Xét về lý thì pot-au-feu được Larousse định nghĩa là món ăn làm bằng thịt bò hầm với cà rốt, tỏi tây, củ cải v.v. hoặc là tên của miếng thịt dùng để nấu món pot-au-feu.

Hai định nghĩa của Larousse cho thấy rằng phở chỉ giống pot-au-feu nhiều lắm là tảng thịt bò hầm, còn lại mớ cà rốt, tỏi tây, củ cải và đồ gia vị thì xin gác qua một bên. Thịt bò hầm kiểu này cũng có mùi vị đặc biệt không giống thịt phở chín. Hơn nữa, người Pháp ăn pot-au-feu với bánh mì, khoai tây... chứ chưa thấy ai ăn với bánh phở bao giờ ! Xem vậy thì pot-au-feu khá xa lạ với phở.

Các hàng phở ở Hà Nội trước đây cũng đã thử nghiệm phở sốt vang (hai tiếng sốt vang hoàn toàn đến từ tiếng Pháp) để làm vừa lòng mấy ông tây bà đầm. Tôi chưa được ăn phở sốt vang, nghe nói khá đắt vì được xào xáo với rượu vang. Thuở bé xin mẹ được một đồng bạc, đánh chén một bát phở không, không thịt, là đủ sướng mê tơi rồi. Làm sao mà biết được phở sốt vang trong tiệm của người lớn. Sau này có tiền muốn ăn cũng không được vì món này chết yểu rất sớm. Đông và tây khó mà gặp được nhau trong bát phở.

Cái lý nó khuyên ta không nên lẫn lộn hai món ăn cổ truyền của hai quốc gia văn hiến. Nhưng nói như vậy chỉ là nói suông! Đành rằng ta vừa có tình vừa có lý, nhưng rốt cuộc ta mới phê bình pot-au-feu chứ ta vẫn chưa có bằng cớ gì về gốc gác của phở để bác pot-au-feu.

Xin lỗi các bạn, vì bực pot-au-feu nên tôi hơi dông dài. Bây giờ xin bàn có bằng cớ.


Hy vọng rằng 2 tấm tranh dân gian Oger (1909) tôi đem ra trình làng sau đây sẽ góp phần làm sáng tỏ được vấn đề nguồn gốc và tên gọi của phở.
nddg061a.gif

Tấm tranh thứ nhất vẽ một hàng quà. Những ai đã từng sống ở Hà Nội năm xưa, trước 1954, chắc đều nhận ra dễ dàng đây là một hàng phở gánh. Tấm tranh vẽ một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên kia xếp tất cả những đồ cần thiết. Chúng ta nhận ra con dao thái thịt to bản, lọ nước mắm hình dáng đặc biệt, cái xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh đủ cho chúng ta biết rằng đây là một gánh phở, có thể nói rõ hơn là phở chín. Sực tắc không dùng hai dụng cụ này. Sực tắc nhúng, trần những lọn mì bằng cái vỉ hình tròn, đan bằng giây thép. Còn hủ tiếu ? Cho tới năm 1954, đường phố Hà Nội chưa biết hủ tiếu. Vả lại những xe hủ tiếu (xe đẩy chứ không phải gánh) của Sài Gòn cũng không thái thịt heo bằng con dao to bản của hàng phở chín.

Tấm tranh này xác nhận rằng vào những năm đầu thế kỷ 20, ở ngoài Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, phở gánh còn do người Tàu (và có thể cả người Việt Nam ?) bán.

nddg061b.gif

Tấm tranh thứ nhì có tên là hàng nhục phấn, vẽ thùng nước dùng. Hai thùng nước dùng của hai tranh khá giống nhau. Tranh thứ nhì cho biết rằng chữ ngưu của món ngưu nhục phấn sang đầu thế kỷ 20 bắt đầu bị rơi rụng. Tên món ăn trở thành nhục phấn.
Nhưng dựa vào đâu để nói rằng chữ phở đến từ chữ phấn ?

Trong bài Đánh bạc của Tản Đà được viết vào khoảng 1915-1917 có đoạn :

(...) Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được.

(...) Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ ?


Tản Đà gọi nhục phấn là nhục phơ. Chữ phấn chuyển qua phơ trước khi thành phở. Phơ của nhục phơ (chứ không phải feu của pot-au-feu) mới là tiền thân của phở,.

Tóm lại, ngưu nhục phấn đã được nói gọn thành nhục phấn từ đầu thế kỷ 20 (tranh dân gian). Nhục phấn được chuyển thành nhục phơ (Tản Đà). Ít năm sau nhục phơ được dân chúng đổi thành phở (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1933). Năm 1943 Thạch Lam đưa phở vào văn học.

Kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng, tên phở được tất cả mọi người dùng.

Mới bàn đến tên phở thôi mà đã ồn ào như thế, huống hồ bàn đến những vấn đề to lớn khác !

Tôi không đủ khả năng đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết lý, thẩm mỹ. Có cho húp cạn dăm ba thùng nước phở tôi cũng chịu không biết rõ mặt mũi một bát phở đúng điệu phải ra sao, một bát phở ngon phải như thế nào ?


Trước khi ngừng, xin kể vài mẩu kỷ niệm của những lần được tay nâng môi kề một bát phở.
Ai ơi bưng bát phở đầy... Khó quên được "phở" của bọn sinh viên chúng tôi vào những năm 65-70. Cái thời ở Pháp không kiếm đâu ra được bánh phở, nước mắm. Chúng tôi hầm thịt với muscat, đinh hương, viandox. Ăn với mì sợi, hành tây. Nghĩ lại mới thấy "phở" thời đó sao mà giống pot-au-feu thế. Thế mà đứa nào cũng khen ngon. Ôi, cái thời tuổi trẻ còn dễ tính.

Mấy năm đầu của thời kỳ Việt Nam đổi mới và mở cửa...

Hà Nội như một người mới ốm dậy đòi ăn giả bữa, xối xả lao mình vào... ăn trứng. Vừa bổ, vừa sang! Các cửa hàng rộn vang tiếng đòi đập thêm trứng. Bánh cuốn cũng trứng. Phở cũng trứng! Một trứng chưa đủ, vẫn còn thèm. Cho hai trứng nhé ông hàng ơi ! Nhiều con mắt liếc trộm khách hào hoa! Gọi một bát phở thường lúc này là chuyện hơi không bình thường.

Xế cửa nhà tôi ở trọ có một hàng phở bình dân. Không phải phở tiệm, cũng không phải phở gánh. Hàng phở kiểu này chưa có tên trong văn học. Tạm gọi là phở hè lè tè. Bàn ăn cũng như ghế ngồi của khách, của chủ chỉ cao cách mặt vỉa hè độ 20 phân. Ai thích nước phở trong và ngọt thì nên đến ăn ở đây. Trong vắt, không một váng mỡ ! Dường như xoong nước dùng chỉ có nước, muối và bột ngọt. Mỗi bát phở được cô hàng tặng thêm lưng thìa cà phê bột ngọt. Khách muốn đậm đà hơn ? Dạ có (muối trộn bột ngọt) đây ạ. Được cái phở cũng có ớt, chanh, hành hoa thái nhỏ.

Tại Huế, khu Gia Hội có một tiệm nho nhỏ nhưng chuyên làm cả một bảng các món đặc biệt. Hai ba kiểu mì xíu mại, hoành thánh, dầu chao quẩy. Ba bốn kiểu phở tái, chín, nạm, gầu. Có cả hủ tiếu Nam Vang, mì Quảng... Điểm độc đáo của tiệm là tất cả các món đặc biệt này chỉ cần một thùng nước dùng.

Một hôm tôi lang thang dưới Xóm Bóng (Nha Trang). Mải la cà chụp ảnh, quá ngọ mới đi ăn trưa. May quá còn tiệm phở mở cửa. Ông chủ vồn vã mời ăn phở đặc biệt (lại đặc biệt). Khoái quá, tôi gật đầu lia lịa. Làm xong bát phở, ông chủ đi nghỉ trưa. Cả tiệm chỉ còn tôi với bát phở đặc biệt ! Ăn hết mấy sợi bánh tôi vẫn chưa hết dè dặt với cái khối gì là lạ nổi trong bát. Một lát tôi ngoắc thằng bé từ nhà trong đi ra, hỏi nó xem tôi đang ăn phở gì ? Thằng bé chăm chú dòm bát phở. Con không biết, để con hỏi mẹ. Dạ mẹ không biết, chờ lát nữa hỏi ba. Dạ ba nói là phở giò. Phở giò của Vũ Bằng đây à ?

Ấy đấy, chữ nghĩa mà không rõ ràng thì thật là phiền.

Nhân dịp lên kinh đô ánh sáng, tôi được bạn rủ đi ăn phở. Mời ông ăn phở ngon nhất Paris, được sách hướng dẫn du lịch khen đàng hoàng. Cho 2 tô đặc biệt ! Không đặc biệt hóa ra thua thiên hạ à ? Ông bạn trịnh trọng múc tương tàu, tương ớt ra đĩa. Ủa, sao ông nói là ăn phở ? Phở đặc biệt chính hiệu con nai vàng đây. Vừa chín, vừa tái, lại thêm bò viên, cổ hũ, lá sách. Nhiều thứ vui lắm. Ăn phở mà lại vui nữa thì nhất rồi ! Giá mà thêm tí bê thui chấm tương gừng nữa thì vui hết xẩy !

Đến Mỹ mà không đi thăm khu Tiểu Sài Gòn thì...kể như chưa đến Mỹ. Nghe bên phải bên trái người ta nói như thế. Mới chân ướt chân ráo tới Cali tôi đã vội yêu cầu được tới thăm thủ đô thứ hai của Việt Nam.

Chúng tôi đi chợ, ăn phở. Hên quá, gặp lúc tiệm đang quảng cáo khuyến mại, mua một tặng một. Mua một bát phở người lớn, tặng một bát phở trẻ con. Theo thói quen, tôi bắt đầu bằng thưởng thức miếng thịt chín. Thôi nguy rồi ! Không có tăm ! Có chớ, để ở quầy trả tiền ngoài kia kìa. Mắc răng kiểu này thì chỉ còn nước ngồi ngắm mấy miếng thịt gân to bằng nửa quân bài tây, chờ mọi người ăn xong. Kỹ thuật thái thịt bây giờ tiến lắm. Đem đông lạnh, thái bằng máy, muốn to mấy cũng được.

Một lần khác, trong một tiệm phở khác, tôi bị bối rối. Tàu bay, tàu thủy, tàu hỏa, hàng không mẫu hạm... Cả một thời quá khứ, chọn gì đây ? Bát thường thôi ông ạ. Mấy cái tàu to như...cái chậu, sức tụi mình không kham hết đâu !

Việt kiều Cali rất hãnh diện là nơi đây thức ăn vừa rẻ, vừa đầy nồi !

Chúng ta có thể nói không ngoa là phở đã sống thăng trầm với người Việt Nam. Nơi thôn ổ hay chốn thị thành, tại quê nhà hay khắp năm châu, lúc khó khăn thiếu thốn cũng như buổi ấm no thanh bình, phở luôn ở bên cạnh mọi người.

Xa xưa, phở là phở bò, phở chín. Ngày nay, phở thay da đổi thịt, muôn màu muôn vẻ. Cách nấu, cách ăn thay đổi không ngừng. Đã đến lúc phải phân loại, đặt tên cho bát phở để tránh ngộ nhận.

Đại khái chúng ta có thể phân biệt :

Bát phở bò của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân thì gọi là...phở.
Tàu bay, tàu bò, thịt to bánh nhiều cốt làm vui lòng giới ẩm thực vũ bão thì nên gọi là...phởn.
Ngầu pín, viagra, cổ hũ, lá sách, trứng, giò heo, thịt chó (có người định thử) thì phải gọi là...phịa!
Còn cái thứ chết tiệt của mấy ông sinh viên ? Xin tự phê gọi nó là...phản.

Tiếng Việt vốn giàu âm thanh, ngữ nghĩa, còn nhiều chữ khác có thể dùng cho phở được. Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng yêu cầu các nhà văn học định nghĩa rõ ràng các chữ dùng kẻo lại gây ra những bàn cãi dài dòng cho mai sau.

Trong quá khứ đã từng có một giáo sư thuyết trình tại hội Việt Mỹ (Sài Gòn) rằng

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương


Chuông chùa Thiên Mụ ngân nga thánh thót, chicken soup của Thọ Xương thì tuyệt, không đâu ngon bằng !

Mới đây, trong một cuốn hướng dẫn du lịch Việt Nam rất đẹp, soạn công phu, có chậu hoa màu đỏ được chú là... fleur de théier.

Trà với chè tuy hai mà một,
Trà với trà tuy một mà hai.


Trà (camélia) và trà (théier), đằng nào chả là trà. Cứ động đến ăn uống là các ông chỉ hay lý sự lôi thôi !

Nguyễn Dư
(Lyon, 2/ 2001)

















Tản mạn về phở

TTC - Tản mạn về phở. Đi đâu cũng gặp thịt mỡ dưa hành, mồng hai tết đã thèm tô phở. Chợt nhớ đến bài tùy bút về phở của cụ Nguyễn Tuân. Đọc bài tùy bút này thì tôi cũng chẳng còn gan để lạm bàn về phở.

Cái đẹp, cái hay, cái ngon, cái văn hóa của phở đã được cụ dọn lên hết trong một bài tùy bút mà khi đọc xong không ai có thể cầm lòng được, phải nuốt nước miếng đi tìm bát phở mà thôi.

oOo

Chắc chắn thời cụ Tuân thì từ phở chưa được dùng để ám chỉ các “em” của các đấng ông chồng thích của lạ. Tại sao không là bánh cuốn, bánh mì, mì, hủ tíu, xíu mại, bánh bao... mà lại là phở?

Tôi nghĩ đem phở để ám chỉ bồ nhí của các ông chồng hay ăn vụng chỉ có mấy tay chơi miền Bắc mới nghĩ ra cái từ ám chỉ thay thế hết sức đắc địa này. Vì ở Hà Nội người ta ăn phở nhiều hơn bất cứ món nào khác. Buổi sáng, dân Hà Nội ít ăn mì, bánh mì, bánh bao,... mà đa số thường ăn phở. Phở chắc chắn là cái gì đó đứng sau cơm.

Nguồn gốc của phở là ở miền Bắc, có thể là ở làng Vân Cù tỉnh Nam Định với dòng họ Cồ rồi lan truyền khắp miền Bắc và “rộ” nhất là ở Hà Nội. Hình như bây giờ ở Hà Nội, chỉ cần ra khỏi ngõ là gặp quán phở to có, nhỏ có. Có quán nằm ngoài lề đường, có quán thì nằm trong nhà. Và nhiều nhất là phở bán tại nhà.

Một vài cái bàn con con. Trên bàn chỉ cần có cút rượu, lọ tỏi ngâm dấm và một thùng nước phở nấu bằng than đá là đã trở thành quán phở. Ở Sài Gòn, quán phở khá rộng rãi, ghế ngồi cao (dù cho bán phở theo gu Bắc hay Nam), còn phở Hà Nội thì quán phở gia đình chật, ghế ngồi thường thấp lè tè, người ngồi ăn thường phải ngồi san sát bên nhau...

oOo

Không hẳn chỉ có những quán phở gia đình vô danh, Hà Nội cũng có những quán phở trứ danh mà tên tuổi đã đi vào “lịch sử” ăn uống như phở cô Cử Lò Đúc, phở Thìn bờ hồ, phở Lê Văn Hưu, phở Bát Đàn... Quán phở nào cũng y chang như nhau. Tất cả đều có vẻ cũ kỹ, chật chội và huyên náo. Trong những quán phở ở Hà Nội, mọi người ngồi san sát vào nhau, múc gắp, húp hít hà, càu nhàu, gọi hàng phở inh ỏi.

Vì vậy chăng mà không khí của những quán phở kiểu này có một không gian phở rất đặc trưng mà những quán phở sang trọng không thể có được. Ăn phở mà khẽ khàng quá, lịch sự quá và đôi lúc sạch sẽ quá như Tây thì khó tìm được không khí phở rồi. Bởi thoạt kỳ thủy, phở là một món ăn rất bình dân từ người bán cho đến người ăn.

oOo


Nhắc đến phở Bát Đàn - tôi nghĩ - đó là quán phở “cuối cùng còn sót lại của thời kỳ xếp hàng”. Ở quán này, khách hàng phải xếp hàng tay cầm tô, tay cầm đũa tiến dần từng bước một đến người bán phở. Sau đó, họ nháo nhào đi tìm bàn, hoặc bưng tô đứng đợi cho ai đó ăn xong mà giành chỗ. Vừa ngồi xuống bàn là cố ăn cho xong vì biết đâu đó có ai đang bưng tô đang đứng đợi mình ăn cho xong để có chỗ ngồi... Và chỉ một bát mà thôi, nếu ai cần ăn thêm thì phải xếp hàng tiếp.

Quán khó chịu thế đấy nhưng vẫn thấy xe con ngừng liên tục. Tài xế đi xếp hàng còn ngài giám đốc phải tự đi tìm bàn. Trong đội ngũ xếp hàng chờ ăn phở, ta có thể thấy anh công nhân đứng trước mặt nhà doanh nghiệp, rồi tới vị giáo sư sau đó là nhà văn, nhà báo, dân con phe... bình đẳng ra phết! Dân “Sè - Gòng” ra Hà Nội ăn bát phở chơi cho biết chứ không ai thích ăn phở kiểu xếp hàng như vậy. Nhưng đối với một số người Hà Nội, có lẽ họ đã “nghiện” cái không gian phở xếp hàng Bát Đàn này.

oOo

Những người Hà Nội vào Sài Gòn sinh sống, công tác đều không quên được gu phở Bắc Hà Nội. Bởi vậy, hiện nay dọc các con phố lớn nhỏ, đường hẻm hay mặt tiền ở Sài Gòn có nhiều quán phở mang tên Bắc Hải, phở Hà Nội, phở chính gốc, phở gia truyền, phở Thìn... Những quán phở to nhỏ này đều “gia truyền” và không ai chịu nhường ai trong sự quảng cáo chính gốc phở này.

Phở có mặt ở Sài Gòn theo bước chân của người miền Bắc. Dần dần, dân Sài Gòn cũng “học tập” và chế biến thành phở theo gu Sài Gòn. Phở Sài Gòn phải có tương đen, ớt cà, rau thơm và giá trụng. Tất nhiên còn có cả sự khác nhau về hương vị nữa. Vì phở không rau chưa chắc là nấu theo kiểu miền Bắc. Và bây giờ có nhiều quán phở Bắc vẫn phải kèm thêm rau thơm, giá trụng để nhân tâm tùy khẩu vị.

oOo

Rốt cuộc, những yếu tố gia vị thực phẩm nào tạo nên món phở?

Khi nói đến đi ăn phở, người ta nghĩ ngay đến phở bò mà có lẽ trước kia phở ăn với thịt bò, nhưng ngày nay phở đâu chỉ là thịt bò. Còn phở gà, thậm chí phở... chó. Biết đâu sẽ còn phở dê... phở heo!?

Phở gà, phở chó cũng là cọng bánh phở ấy nhưng nước dùng (nước lèo) chắc không phải là nồi nước dùng của phở bò. Nồi nước dùng của phở bò phải nấu bằng xương bò, và có nơi còn bỏ thêm con sá sùng để nước có vị ngọt. Trong nồi nước dùng của phở bò luôn có vị hồi tạo nên hương vị đặc trưng của phở bò. Nồi phở mà thiếu hương vị ấy là không còn phở bò nữa. Một số quán phở do vài ông nước ngoài, Việt kiều mê phở mở quán phở thiếu không gian phở đã đành lại còn thiếu cả mùi đặc trưng của phở. Không phải chỉ có bánh phở, thịt bò tái chín, gầu, sụn gân là thành phở mà còn phải có hương phở nữa.

Lạ thay cái hương của phở!








Ăn phở ở Boston


Một địa chỉ phở Việt ở Mỹ
Hóa ra món phở quốc hồn quốc túy của dân ta đã phổ biến đến mức trở thành một địa chỉ ẩm thực trong bộ nhớ một nhân viên khách sạn Jury’s 5 sao của Mỹ...


Đêm đầu tiên đến Boston (Mỹ), mệt lử sau một chuyến bay dài gần 2 ngày trời, đầy ứ với các loại fastfood, tôi hỏi cô tiếp tân khách sạn da màu đen bóng xem có quán Vietnamese noodle soup (phở Việt Nam) nào gần đây hay không.



Không một chút suy nghĩ và cũng chẳng thèm giở sổ, cô bấm điện thoại nhoay nhoáy, và ngẩng lên nhìn tôi với một nụ cười thông cảm ra vẻ ta đây biết cả rồi: “Pho Pasteur still opens, sir!” (Phở Pasteur còn mở cửa, thưa ngài!).



Lò dò tìm đến địa chỉ được căn dặn, tôi chỉ muốn ồ lên một tiếng thất kinh khi một tô phở xe lửa giá năm đô rưỡi được bưng lên nghi ngút khói. Không phải là tô phở, mà là một thau phở thì đúng hơn, cỡ bằng cái nón cối bộ đội và chàng bồi bàn Mỹ đen lực lưỡng chỉ bưng một lần 2 tô là maximal performance (hết sức). Ái chà, lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu sự nghỉ giải lao là tối cần thiết trong ẩm thực. Nghĩa là sau khi chiến đấu - khá vất vả - được có nửa tô, người ăn phở cần bước ra ngoài, đi loanh quanh chừng nửa tiếng, hút vặt dăm hơi thuốc, rồi mới đủ can đảm quay lại đối diện với nửa tô còn lại. Dù rằng chỉ có bánh phở khô, không mềm mại tươi mới như bánh phở bên nhà, tô phở Boston cũng đủ thứ chín-nạm-gầu- vè và các loại rau giá xanh tươi.



Ngoại trừ cái sự quá khổ, kẻ hậu sinh này không dám than phiền về cái sự “phí cả cái công ăn” phở Việt Nam trên đất Boston, thưa cụ Nguyễn Tuân kính mến ạ! Hương vị quê nhà, dù không trọn vẹn, nhưng là một điều ấm áp thật lạ lùng trên đất khách!



Những hôm sau, khi phở Pasteur trở thành địa chỉ quen thuộc mỗi tối, tôi còn được mục kích một quang cảnh ấn tượng khác. Một cô Mỹ tóc vàng, dáng nhỏ nhắn, sau khi khoan khoái xơi hết một tô xe lửa to đùng, ung dung gọi thêm một đĩa gỏi cuốn king size, và tà tà thưởng thức với một vẻ khoái hoạt đáng kính phục. Và còn kết thúc bằng một trái dừa tổ bố. Hóa ra, cái sự ăn uống lấy no làm sung sướng, lấy nhiều làm ngon, cũng có “giá trị nhất định” của nó. Khác hẳn với cái sự “ăn chơi ăn bời” của các bậc thầy ẩm thực bên nhà. Tôi nhìn thau phở khổng lồ chui tọt vào cái miệng hoa của người đẹp Hoa Kỳ, lòng thầm nghĩ 10 năm sau nếu có duyên tái ngộ, e rằng nàng kiều nữ hôm nay đã biến thành một thiếu phụ ngót nghét hơn tạ rưỡi. Nghĩ cũng buồn!



Có lạ lùng không, từ đất Hà thành, tô phở Việt bay thẳng sang Boston, hòa nhập với nền ẩm thực của xứ cờ hoa, hóa thân thành tô phở king size xe lửa. Hương vị vẫn nguyên vẹn, ở mức tối đa mà vật thực địa phương cho phép, chỉ phình ra gấp 4, gấp 5 về kích thước.

Trông vào tô phở Việt khổng lồ, có ai hình dung đến hành trình của nó theo dấu chân nhọc nhằn của lưu dân Việt?

Theo Lê Đình Phương

Người Lao Động
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Phở ở nhà hàng VN ở đây là món khai vị (như súp) nên chỉ bán trong cái bát con bé bé thôi... ng Đức họ ko quen ăn cả bát phở to đùng làm món chính hay sao ý... mà chắc là họ còn muốn nếm các món khác nữa nên phở chỉ ít thế thôi :p Các món bún miến nói chung cũng vậy
5US$ một tô phở to đùng thế mà còn kêu đắt, so với giá VN thì nói làm gì /:) Bát phở khai vị ở đây bé tí mà cũng 5€ rồi :))
 
Tào lao về Phở mà không có bài tùy bút " Phở " của Nguyễn Tuân thì đúng là nên ném m* cái topic này vào sọt rác.
Tui xin được post nốt bài tùy bút này để làm hoàn thiện hơn buổi "tào lao"
Phở (Tùy bút của Nguyễn Tuân)



PHỞ

Trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-Nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc.

Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạọ Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hòa bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi.

Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác chuyên môn, nhưng đều cùng đã gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là người Hà nội cả. Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái gì xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy tháng rồi; ở nhà đã hoàn thành tiếp quản Hải phòng rồi, đất đai miền Bắc giải phóng toàn bộ rồi... Nhưng mà chúng tôi đã kéo cuộc nhàn đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đở nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu: "Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát!". Tất cả đều reo lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữa. Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt-nam chân chính.

- Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ quặc không. Thịt bò rán, lại phiết mứt công-phi chua ngọt sắt lên trên. Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.

-Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tùy thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

- Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

- Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác va giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ "xương xẩu" là một tiếng đôi, và chử xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt-nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu" . Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn "đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta đã Việt-nam hóa chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành một hình dung từ: cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật !

- Đố biết thế nào là mũ phở? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích người ăn trong phố. Những anh hàng phở" hùng cứ một phương" này lại còn thuộc cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông binh khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa. Không những thế, cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa. Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn phở xe, phở hình tàu thủy có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng-Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống.

- Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư ... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... Cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên ngườị Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ vì gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như "ông chủ" hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống miếng thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà-nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong" "Bạch Tuyết" "Nhất chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó.

- Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt bò. Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con: nhưng đó lại là chuyện khác.

- Lại còn phở ngẩu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương.

- Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ sẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẳn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẵn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.
Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngay trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp.

- Hình như Thạch Lam trước đâ cũng có bàn về phở, nhưng vẫn còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng lìu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đọa như người chế tạo. Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy . Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên sô hoặc làm tễ thuốc Bắc, còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái "gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt mhỡn thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tĩnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất họa thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà Nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".

- Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người đã đập ngay lại: "Thôi đốt ông đi . Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt-nam còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà nội này xin trả lời ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy".

- Cái thế giới phở Hà nội trước đây hình như cũng có những thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông phán sở tòa, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy... Có những tay giầu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân. Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những kẻ sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả,"việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân...".

Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.

Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen xanh ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc đáng yêu chúng ta ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã phát hiện những đức tính dồi dào của phở, tự mình cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng lên một nền lý luận cho món phở. Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà nội, bữa cơm đầu tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rủ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu vào ý nghĩ của một anh bạn nó đã trở thành một ám ảnh: "Mình khen phở mình là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên tranh thủ thêm ý kiến của bạn bè, quốc tế của ta không? Bạn Liên xô, bạn Ba lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc gì về món phở Việt-nam? Họ đã có dịp nếm phở chưa?" Bài dân ca của mình họ nghe rồi, đất nước mình, các bạn thấy rồi. Nhưng còn phải cho bạn mình "thấy" phở nữa, bởi vì phở cũng là một thứ tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm lòng con người Việt-nam chân chính và bình dị. Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà nội, tôi đã nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây: " Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết Hồ chủ tịch và các lãnh tụ Đảng có thích phở không? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến ăn cho hiệu nào, thì chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ!". Hai cô rút lấy túi gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện hai cô học trò như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những cái nó quan trọng hơn cả phở nữa.

Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt-nam, đến vấn đề thực tiễn Việt-nam, đến những đặc tính của Việt-nam trong mọi điều kiện chuyển mình tiến lên. Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giầu có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt-nam dũng cảm xây đắp lịch sử quang vinh, có những công trình lao động thần thánh như chiến thắng Điện Biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa. Trong những năm chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhẩy xuống lỗ lầm; có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không còn thấy trở lại một lần nào nữa. Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên đê, không biết người bán phở đêm đó, có còn sống hay đã chết trong chuyến ấy rồi? Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là "ông hàng phở của tiểu đoàn". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở; nay hòa bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại? Nhiều hình ảnh phở trong những năm gian khổ đã hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người. Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông. Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái-Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh hóa đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước. Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà nội: mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi.

Đêm Hà nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đình Hàng Bạc - cái nơi tập trung nhân dân Hà nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi vòng vây địch. Đình cũ không còn ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đã có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya. Người Hà nội đặt tên đến là hay.

Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn. Nay ông được sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miển thuế cho ông một thời hạn và tìm một chổ lợi địa thế cho ông mở hiệu. Món quà của ông phở "Sửa sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm tình của khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị nữa. Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc họp hành bình bầu học tập xây dựng vừa xong.


(Nguyễn Tuân)
 
Oạch lâu lắm mới ngồi đọc một bài tản mạn (em xin sửa chữ tào lao thành tản mạn nếu ko đúng xin thứ lỗi) dài như thế về phở...

Nguyễn Tuân là một nhà văn cầu kỳ.. văn ông viết bình về phở dường như đã miêu tả chân thực va chính xác về phở...
cầu kỳ.. ko cầu kỳ thực ra chỉ là ở mỗi người...:|

Đọc tản mạn về phở thấy là lạ... cuộc sống có nhiều điều mình ko rõ mà cũng ko ham tim hiểu.../:)

Phở HN ngày xưa là phở bán dạo bán đêm là nổi tiếng nhất... nhà đài từng làm một phóng sự về phở ngày xưa.. món phở truyền thống của HN...

Tiếng rao của người bán phở trong đêm... thoát khỏi một HN nhộn nhịp buổi sáng... tối đến Hn trầm lặng biết bao.. gió mát, không khí thoáng đãng... được ngồi xì xụp húp bát phở nóng ấm ngon lành.. tận hưởng khí trời TN.. phở lại càng ngon...:x

Nguyễn Tuân viết
Trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-Nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc.

Đọc xong thấy thật là lạ.. biết rồi một ngày nào đó xa đất Hà thành xa nhà và quê hương... có người con nào nhớ phở? rồi một ngày rét mướt trở về được ăn một bát phở ấm nóng... chẳng biết rồi nghĩ gì?:-/

Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tùy thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

Phở chân chất như cái vốn có của nó.. mỗi người thưởng thức nó theo một kiểu... ko ai giống ai... nhưng đều thấy ngon.. vị phở thuần túy đi vào tâm hôn người Việt nhẹ nhàng diu dàng... nhưng để lại ấn tượng khó phai trong mỗi người... Bản thân ma thích câu: Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tùy thích. nhẹ nhàng sao... ko cầu kỳ ko kiểu cách... ăn đứng ăn ngồi... hay lù lù ra giữa cửa hiệu...
hay chứ? Món ăn bình dân thì rất bình dân, sang trọng thì rất sang trọng... ngon rất ngon... người nghèo ăn được, người giàu ăn được ma thích tính quần chúng cao của nó....:)

Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

Một bát phở ấm áp... đi vào tâm hồn Việt như thế đấy... Nếu như từng đi ăn phở đêm hẳn ko ai quên cảm giác ấm bụng vào một ngày lạnh giá... phở ăn phải nóng... nước dùng béo.. thịt phải mềm.. hành phải tươi... phải có chanh, có dấm ớt , có ớt tươi... Ăn một lần người ta phải nhớ vị ngon của nó... phải muốn ăn lần thứ 2.. để tận hưởng cảm giác an lành sau một ngày mệt mỏi....

Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ sẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẳn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẵn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.
Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngay trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp.

Sau phở bò là phở gà... tôi nhớ bạn tôi đã từng cùng tôi ngồi ăn cùng một bát phở gà... cùng chia sẻ một bát phở... ko đủ cho 2 đứa nhưng đủ để 2 đứa cùng mỉm cười và có một cái bụng ấm để tiếp tục một ngày dài..
Tôi ghét hàng phở gần nhà vì khi làm họ luôn cho rất nhiều mì chính... hương vị của nước lèo dường như ngọt đi quá nhiều...
Tui thích nước lèo của những người bán phở đêm... tui thích sáng sáng khi trời đông... đến hàng phở của cô... quanh cô phải đến 3-4 nối nước lèo... nồi nào cũng khói nghi ngút... ngồi ăn mà tôi dường như được thưởng thức hương vị của một nơi ko phải là đây.. ấm áp...

Ngày nhỏ tôi hay cười mẹ tôi vì làm món ăn ko ngon bằng bố tôi... tôi hay trêu là nếu đi xa tôi chỉ nhớ cơm bà, phở cô hàng xóm... ko nhớ món ăn của mẹ...

Giờ thì thấy thật là lạ...
tản mạn về phở lại muốn biết nhiều hơn về phở... liệu có ai muốn khi trời se lạnh.. khoác ngoài một cái áo... bước ra ngoài ăn một bát phở.... và sẽ hiểu....
 
Đi ăn phở - người đứng, người ngồi, người comple, người ba lỗ, rồi quần tây lẫn với quần đùi, cứ gọi là mỗi anh một kiểu chẳng ai giống ai cả. Vào đến quán kéo cái ghế nhựa ra ngồi san sát nhau mà thấy vui đáo để. Cái sàn nhà bẩn bẩn một tí rồi mỡ mỡ một tí, nhìn lên tường thì không hiểu ông chủ quán định quét vôi nhà màu đen hay màu trắng. Đấy mới gọi là phở của người Hà Nội. Nhớ mấy tuần trước xem VTV giới thiệu về ông chủ quán Phở 24 trong Sài thành làm ăn phát đạt, ông ngồi vẽ ra khung cảnh mang cái quán đó bành trướng ra Hà nội, nghe mà nẫu ruột. Khổ nỗi cái quán của ông ý nó trắng lắm cơ, sạch sẽ lắm cơ, bóng bẩy lắm cơ. Ông ý vạ miệng nói là mang nó ra Hà Nội thì tui tự hỏi chẳng hiểu ông này có biết ăn phở không ?


Cái lần tui ra ngõ ăn phở trong một cái quán theo đúng tiêu chuẩn của cụ Nguyễn Tuân, tức là một vỉa hè với một bếp than hồng cộng với dăm ba cái bàn lẫn với cái ghế. Hôm đó là trời mưa, và nhà chủ chăng một cái bạt để hứng nước mưa. Tui ngồi cuối dãy - tức là sát mép cái bạt đó. Kiêm một chỗ ngon lành với ba người nữa cùng bàn, tui hăng hái gọi một bát phở bò. Phở ra đến nơi, đang ngồi xì xụp mút mấy cọng phở thì có một cơn gió mạnh thổi tới, cái bạt rung lên bần bật, và điều hiển nhiên là nước đọng trên cái bạt đó cũng rót xuống đất và không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà nó rót thẳng xuống cái bát phở của tui không chệch một ly. Mấy ông cùng bàn cũng nhanh tay hơn là nhanh mắt đã kịp bê bát phở của mình chạy ra khỏi bàn, còn lại mình tui ngồi trơ khấc ra đó mà không biết nên làm gì.
Rồi cuối cùng tui cũng được nhà chủ đền cho bát phở khác.
Còn mấy ông cùng bàn thì sự việc xảy ra xong rồi cũng bê bát lại ngồi ăn như cũ như không có chuyện gì xảy ra.
 
Có vẻ như thời tiết ảnh hưởng khá nhiều đến phở...
Mưa mà ăn một bát phở kiểu ấy xong cũng tức mình:eek:
 
Phở Luận

pho-luan-01.jpg

Có nguời nói Phở là từ chữ Ngưu nhục phần của Trung Quốc, nghĩa là món ăn gồm gạo và thịt trâu mà thành. Có người lại nói người Pháp dịch nó là Soupe Chinoise nghĩa là canh Tàu. Chỉ biết Phở là một món quà hiện nay phổ biến khắp nước, nơi nào cũng có phở và nó hoàn toàn Việt Nam, khác hẳn mằn thá9n Trung Quốc, hủ tiếu của Campuchia, thậm chí ngay trong nước, nó còn là món nước nhung cũng khác xa mì nấu, mì ăn liền, mì Quảng, bún bung, bún thang, miến lươn... Phở chỉ là phở và chỉ là phở Việt Nam.

Hà Nội đang có phong trào có biển đề là phở gia truyền tỉnh nào đó để mời khách. Nhiều người cười thầm mà không tin. Nếu tính từ những bài viết của các nhà văn thì chắc rằng phở là món xuất hiện đầu tiên từ Hà Nội còn ai gia truyền, tại sao lại gia truyền từ tỉnh này hay tỉnh khác?

Trong Tự Lực Văn Ðoàn, nhà thơ châm biếm lừng danh Tú Mỡ có bài phú "Phở đức tụng" ca ngợi món phở vào những năm ba mươi bốn mươi. thời đó chỉ có món phở bò, có khi là phở trâu nhưng được làm rất kỹ. Phở lúc đó còn cho cả hương cà cuống, mà Thạch Lam đã viết "Thoảng hương thơm cà cuống như một nghi ngờ... ". Ông đã nặng lời chê phở gà cho rằng nó nhạt nhẽo, nước không ngọt, thịt gà không bùi béo như thịt bò...

Nguyễn Tuân viết về phở còn chi li kỹ lưỡng hơn nữa. Tô Hoài, Vũ Bằng và nhiều nhà văn sau này đã viết về món ăn đặc biệt Hà Nội này nhiều bài qua nhiều khía cạnh và hầu như đều thống nhất với nhau một điều là cả nước có phở, nhưng không địa phương nào có phở ngon bằng Hà Nội mà không sợ địa phương nào tự ái. Phở chua miền núi, chảo thắng cố, phở bò Nam Ðịnh, phở thịt lợn Lào Cai, phở bánh khô Thái Nguyên cho đến phở lẫn với giá sống của miền Nam, cho bánh đa nướng lẫn vào ở phở Thanh Hoá, hoặc phở Móng Cái, Hải Phòng, Huế v.v.. vẫn không thể là phở Hà Nội.

Thời nay đã xa thời Thạch Lam. Phở gà đã phố biến ở nhiều nơi. Hà Nôl có nhiều hàng chỉ chuyên một món phở gà như phố Lê Văn Hưu, ngõ Nam Ngư. Bên cạnh những hàng phở bò lừng danh như phở Trưởng Ca Hàng Bạc, phở Tàu Bay Bà Triệu, phở giảng Cầu Gỗ Phở Ðông Mỹ .. là đến các hàng phở thúng (để dễ chạy khi công an đuổi).

pho-luan-02.jpg


Có người hỏi: Muốn có phở ngon phải làm thế nào? câu này đúng ra là nên để các nhà chuyên môn trả lời, bởi nghề nào cũng cần tinh, cần thạo, mới có thể đạt đến hạng nhất. Nói là nghệ thuật làm phở ngon dành cho các nhà chuyên môn, thực ra nó cũng có tiêu chí, ai cũng biết. Phở không chỉ ngon ở một loại nguyên liệu. Nó phải đồng bộ. Bánh phở phải mềm, đủ độ dai, không bở, không nát, không chua, không làm đục nước dùng. Thịt phải thơm, mềm, không dai, có màu tươi, không đen thăm, và phải thái thật mỏng Gia vị cho phở phải có dủ. Có chanh tươi cùng lọ dấm. Hạt tiêu bắc không thể thiếu... Nhưng quan trọng nhất văn là nước dùng trong bát phở. Cũng đang có những người ăn phở chỉ vớt bánh phở và thịt, còn nước dùng bỏ lại hết. Không dám kết luận nhưng xem ra, thứ ngon nhất là nước dùng mà bỏ lại thì uổng quá. Giống như người Pháp gọi cái phao câu gà là miếng "thằng điên bỏ lại" bởi có điên thì mới để lại, mới không ăn cái phao câu đó.

Có một nồi nước dùng cho món phở phải công phu lắm. Phải có xương bò rửa sạch, thêm cái đuôi bò càng quý. Ninh kỹ, có khi phải hàng chục tiếng đồng hồ. Nhỏ lửa, bọt váng nổi đến đâu, hớt ngay đi đến đó nước dùng mới trong. Nồi nước dùng bao giờ cũng phải sôi lăn tăn, mỡ giạt về một góc để tùy ý khách ăn.

Ðây là khái niệm chung, còn để chế biến một món ăn, nhất là một món ngon đã nối tiếng, thì mỗi nhà đều có "ngón nghề" của riêng mình.

Ðược biết ngành thương Mại Hà Nội tổ chức cuộc thi nấu phở ở Hà Nội. Một chủ trương hay, táo bạo, đáng khen được nhiều người đồng tình ủng hộ. Ban giám khảo sẽ là một số người có uy tín về nghệ thuật ẩm thực. Người thi sẽ là nhiều nghệ nhân nấu phở lâu năm, cả quốc doanh và tư doanh, người vào nghề dày kinh nghiệm, nổi tiếng và cả người ưa học hỏi...

Từ khi có bánh phở rong, người bán gánh nó đi buổi sáng hay ban đêm với đôi tủ nan thưa, thổi lửa bằng chiếc ống tre, rắc hạt tiêu lên bát phở cũng bằng chiếc ống tre... cho đến nay, món phở Hà Nội đã có số tuổi gần trăm, đây là lần đầu có một cuộc thì về một món ăn cổ truyền như vậy. Giá như thêm chút công phu, nhà tổ chức cho biểu diễn tay nghề, bày hình ảnh với ông hàng phở áo nâu, đầu đội mũ phở (mũ phớt đã thủng, đã méo) cho mọi người hiểu, yêu quý thêm nghệ thuật ẩm thực và nét văn hóa độc đáo của nó đem lại... thì sẽ rất hấp dẫn khách đến tham dự nhiều
 
Phở chua Lạng Sơn
tán linh tinh :x

Phở chua - một đặc sản xứ Lạng là món ăn được chế biến khá cầu kì và có hương vị vô cùng hấp dẫn. Không phải là món ăn chơi hay thứ "fast food" như phở các nơi khác, phở chua Lạng Sơn phải ăn nhẩn nha mới thưởng thức hết hương vị đặc biệt của nó.

Phở chua gồm hai phần: phần nguyên liệu khô và phần nước. Phần khô trước hết phải kể đến bánh phở. Cũng vẫn là thứ bánh phở quên thuộc nhưng cái khác ở đây là bánh phở được làm se lại sao cho vừa dẻo vừa dai. Tiếp đó là món khoai tây thái chỉ và miếng doang được thoa qua mỡ sao cho thật giòn và vàng rộm lên. Gan lợn thái mỏng bằng nửa lòng bàn tay rán cháy cạnh. Thịt lợn ba chỉ loại ngon và dạ dày lợn đem quay trong chảo mỡ. Riêng vịt quay thì nên chọn mua tại các nhà hàng chuyên nghiệp nổi tiếng ở Thất Khê. Phần nước phở gồm: nước báng tỏi, dấm, đường, mì chính...Chính thứ nước hỗn hợp này làm cho người ăn không không cảm thấy ngấy. Còn nước lèo chính là thứ nước múc từ bụng con vịt quay, vừa có vị ngậy của mỡ vịt vừa thơm phức nhờ những gia vị ướp trước khi quay.

Toàn bộ phần nguyên liệu đã được chuẩn bị từ trước và chờ đến khi khách gọi mới bắt đầu trộn. Khâu trộn là khâu cuối quyết định sự thành công của món phở chua. Phải trộn lượng nước vừa đủ sao cho nguyên liệu không bị nát mà gia vị vẫn thấm đều.

Gia vị gồm có lạc rang giã đập, các loại rau thơm, hành khô, dưa chuột và vài lát lạp xưởng thái mỏng. Ngoài ra còn có thêm thứ gia vị đặc biệt mà người địa phương quen gọi là xúng xàng tạo ra một hương vị rất lạ. Người ăn tùy khẩu vị của mình có thể thêm một chút chanh tươi, ớt hay tiêu...Phở chua là món ăn cầu kì nhưng nhìn chung giá cả rất phải chăng, giá dao động từ 4.000đ tới 5.000đ/bát.

Phở chua là món ăn hàn thực nên nó được ưa chuộng nhất vào mùa thu và mùa hè. Tuy thành phần rất nhiều chất béo nhưng phở chua không gây ngấy. Phở chua được coi là món ăn đặc sản đáng tự hào của người Lạng Sơn, bởi vậy nó là món không thể thiếu trong các dịp đón khách quý tới nhà. Nếu đã tới Lạng Sơn mà không thưởng thức món phở chua thì thật là đáng tiếc.

Hiện nay, phở chua có bán ở một số vùng miền núi phía Bắc nhưng chỉ có phở chua ở Thất Khê-Lạng Sơn là có tiếng hơn cả.
 
Ha ha ha, hay hay, Em Minh Anh chắc rất thích ăn phở nhỉ ? Giống anh ghê.;;)

Mấy năm trước đi Bích Động, anh thấy có hàng Phở trông y như ở Hà nội, đang đói meo mà lại có món khoái khẩu của mình - đúng là như mèo thấy mỡ. Anh chạy ngay vào gọi một bát phở ( không thèm biết nhà hàng bán phở gì luôn), đợi được 10 phút ( chính xác là 9 phút ). Nhà chủ bê ra một bát phở mà thịt gì của nó cứ trắng ởn ra. Anh ăn thử một miếng thì mới biết đó là thịt nạc thăn, ăn tiếp đến "bánh phở" thì đó lại là bánh đa trắng làm giả bánh phở, húp một miếng nước dùng thì nước ngon hơn nước lọc chút ít.
Anh cố bấm bụng ăn cho hết bát "phở".
Không biết nên gọi đây là một loại văn hóa hay là một kiểu "giả cầy".


Post tiếp một bài báo:

Y Học: Nhìn "Phở"... Qua Khía Cạnh Dinh Dưỡng (DS Trần Việt Hưng) *

2004-03-25


LTS. Dược sĩ Trần Việt Hưng có một kiến thức độc đáo sau nhiều năm nghiên cứu, ngoài vốn Tây học chính quy ông còn uyên bác về các loại thuốc cổ truyền Đông Phương -- và là tác giả nhiều sách về các đề tài như thuốc, và dinh dưỡng... mà gần nhất là cuốn sách “Thuốc Nam Trên Đất Mỹ.” Bài dưới đây là bàn về khía cạnh dinh dưỡng của phở, món ăn mà người Việt nào cũng ưa thích. Bài viết như sau.

Nếu như trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có cuộc luận kiếm Hoa Sơn để bàn về các kiếm phái.. thì cũng nên có một cuộc ..luận về Phở.. vì Phở, cùng với Chả giò đã trở thành hai món ăn đặc biệt , mà trên thế-giới khi nhắc đến tên là nghĩ ngay đến Việt Nam.. Sau Chả giò, Phở đã chinh phục.. được thực khách khắp nơi trên Thế-giới, từ Âu sang Á và từ Úc.. đến Hoa Kỳ, Canada..
Phở đã đi cả vào Văn học Việt Nam, nhiều nhà văn đã luận bàn về Phở..
Ông Vũ Bằng đã từng viết bài ca tụng Phở.. và giữ ý kiến là Phở.. phải từ Hà Ni trước ngày Di-cư 1954..mới chính là..Phở ! Phở ‘o-ri-gin’ , Phở’ xịn’. Nhà thơ Tú Mỡ Hồ trọng Hiếu làm cả một bài thơ để ngợi khen Phở với những câu như :
"Phở là đại bổ, tốt bằng mườI thuốc Bắc..
Quế, Phụ, Sâm, Nhung chưa chắc đã hơn gì
Phở bổ âm-dương, phế, thận, can, tỳ
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.. "
(Phở Đức tụng)

Phở đã theo người miền Bắc Việt Nam ..di cư vào miền Nam năm 1954 để đánh bại hẳn món Hủ Tiếu của các chú Ba Tàu, độc chiếm thị trường ăn uống miền Nam, nhất là tại Sàigòn! Những tiệm Phở nổi danh lần lượt xuất hiện như Phở Tàu bay (Lý Thái Tổ), Phở Quyền (Phú Nhuận), Phở 79 (Ngô tùng Châu).. rồi cả một khu phố chuyên về Phở ( nếu là Hà Nội..ngày xưa thì có lẽ sẽ có Phố.. Hàng phở?), như khúc đường Pasteur Sài gòn, trước mặt Viện Pasteur khoảng từ Hiền Vương đến Nguyễn đình Chiểu.. có hơn chục xe Phở chuyên bán về đêm với những tên như Phở Hòa, Phở Hòa Cựu v.v..Đặc biệt hơn nữa có lẽ là Phở Công lý một hiệu phở trong một Cư xá, vốn được mệnh danh là Cư xá Di-cư (Camp De Gaulle cũ) nằm trên đường Công Lý gần Chủa Vĩnh Nghiêm.. Cư xá này hay Cư xá 288.. có một khoảng đất trống đậu xe khá tốt.. nên rất được giới kaki, nhất là Không quân đến thưởng thức...
Khi nói đến Phở, mặc nhiên là Phở với thịt bò (không thể có..Phở thịt heo), do đó Phở gà chỉ là những "biến thể"..nói theo kiểu y-dược thì là mutations! nên các hiệu Phở Gà bao giờ cũng phải nêu rõ trên bảng hiệu như Phở Gà Hiền Vương.. Phở Gà Nam Xuyên (đường Trần Quang Diệu)..Những người ăn Phở mà gọi..Tái Gà..thì được xem như..không biết..ăn Phở !.. Cũng nên nhắc đến một loại Phở khác.. nấu theo kiểu..Tây, được một số người ăn ưa thích vì ..nước phở trong như nước súp có cả củ cải trắng..đó là Phở SingSing ở đường Phan đình Phùng..

Sau biến cố 75, Người Việt lưu lạc khắp nơi trên Thế giới, đông nhất là tại Hoa kỳ.. Phở dĩ nhiên là theo chân người Việt và ngày nay Phở đã và đang chinh phục Nước Mỹ : từ cái tên (không có nghĩa gì) Vietnamese Beef Noodles Soup.. Phở đã oai hùng trở thành ‘PHO’.. trong các từ điển và sách về nấu nướng bằng Anh hay Pháp ngữ !
Nấu Phở là cả một nghệ thuật mà Nhà văn Trà Lũ ở Canada đã nhiều lần bàn đến trong "Thư Canada" trên Tạp Chí Văn Nghệ Tiền Phong ; rồi Ông Phạm Cao Dương trên Tập san Lý Tưởng của Không Quân cũng khoe tài.. nấu Phở với nhận định rất là chí lý như sau "Nguyên liệu làm Phở rất đơn giản mà cầu kỳ. Đơn giản vì nó chỉ là bt gạo, thịt bò và hành ngò, nhưng nên nhớ là một con bò đứng cạnh đống bột gạo đang ăn một bó hành ngò.. thì không thể gọi là bát phở được.." và "công thức" nấu Phở.. chắc chắn phải là những ‘bí kíp’ vì nấu phở..cũng không phải là pha trộn theo kiểu..thuốc Tây để có..chai Phở nào cũng giống y-chang nhau, theo một tiêu chuẩn nhất định mà khi..phân tích phải đạt được yêu cầu !

Nhưng để nhìn vào khía cạnh dinh-dưỡng, chúng tôi xin tạm dùng..công thức của Bà Triệu thị Chơi trong Kỹ Thuật Nấu nướng, hoặc của Đầu bếp Dương Bình trong Simple Art of Vietnamese Cooking’ như sau :
Nguyên liệu cho (10 người ăn /tiêu chuẩn VN hay 6 người /tiêu chuẩn Mỹ) :
- 1 kg xương bò
- 450g thịt nạm
- 250g thịt bò phi-lê
- Các gia vị như Hành, tiêu, tỏi..
- 1,5 kg bánh phở..

(Chúng tôi chỉ ghi những nguyên liệu chính để phân tích theo khoa dinh dưỡng, các nguyên liệu phụ..chỉ để tạo mùi vị lại ít có ảnh hưởng đến tính cách cung cấp năng lượng (calories) của Phở.

Một tô Phở, tại Hoa-Kỳ, nếu so sánh với tô phở tại Việt Nam, dù là Tô ‘xe lửa’ quả thật là quá to, quá nhiều không phải là kiểu Phở ‘ăn lấy hương lấy hoa’ nhưng rõ ràng là ‘ăn lấy no, lấy béo’. Phở tại Mỹ..có đến 3 hạng từ nhỏ (small), trung (medium) đến lớn (large)..xin tạm phân tích tô..medium.
Tiêu chuẩn tô medium thường chứa khoảng 100-200 g bánh phở, làm bằng bt gạo và khoảng 200g thịt bò, cắt từ nhiều phần khác nhau và gọi dưới nhiều tên như Tái, Nạm, Vè, Gầu, Gân, Sách..và đôi khi còn có..Sữa, Pín.. Nước lèo hay nước dùng cũng được nấu từ xương bò, heo..có thêm bt ngọt (sodium glutamate)

1- Bánh phở : Thành phần dinh dưỡng như sau (100g)
- Calories 130-145
- Chất đạm 2.38 g
- Chất béo 0.21 g
- Các khoáng chất như Calcium (1mg), Magnesium ( 8 mg)..
- Các Vitamins, nhiều nhất là nhóm B như B1 (0.167 mg),
- Pantothenic acid= B5 (0.40 mg)

2- Thịt bò :
Tùy phần xử dụng, thành phần dinh-dưỡng có thể như sau (chúng tôi chỉ chú trọng vào phần chất béo và cholesterol)
Mỗi 100g chứa
Loại thịt -- Calories -- Chất béo tổng cộng -- Chất đạm -- Cholesterol
- Nạc (tái)-- Loin 180 -- 8,2 g -- 32, 1 g -- 84 mg
- Chín =Round -- 220 -- 12,5 g -- 33, 5 g -- 97 mg
- Gầu -- 350 -- 24,7 g -- 17, 3 g -- 150 mg
- Nạm (Brisket) -- 280 22,1 g -- 20,2 g -- 187 mg
- Sách (Tripes) -- 45 2 g -- 19,1 g -- 112 mg

( Nutrition Bible, Nutrition Almanach 3rd Edition).
3- Nước lèo :
Tỷ lệ thay đổi tùy theo cách pha-chế (?) của từng hiệu Phở, nhưng nói chung lượng chất béo khá cao (quý vị có thể gọi thử một tô Phở ‘to go’ , nước lèo để riêng, mang về để tủ lạnh..sẽ thấy lớp mỡ bị đông đặc bên trên.. có thể cân thử sẽ tìm ra tỷ lệ)..
Ngoài ra còn có nhiều thực khách gọi thêm những chén ‘ hành trần-nước béo,..
Nước béo chính là mỡ bò, được nấu chẩy chứa ..dĩ nhiên là những acid béo no (saturated) và 100g nước béo có thể chứa đến...100, 150 mg Cholesterol !
Như thế một tô Phở ‘Medium’ sẽ cung cấp :
- 600 đến 800 calories
- 70 đến 80 g Chất đạm
- 60-70 g Chất bt
- Lượng chất béo và Cholesterol thay đổi theo cách gọi ;
- Tái trần : 14 g Chất béo 100-120 mg Cholesterol
- Tái gầu : 40 g Chất béo 180-210 mg Cholesterol
- Tái Nạm, Vè : 30 g Chất béo 150 mg Cholesterol
(và nếu thêm Nước béo, các con số trên còn cao hơn nữa )

Một tô Phở cũng chứa khoảng 250 mg Sodium, chưa kể lượng Sodium trong nước mắm, thêm vào tùy khẩu vị.. Ngoài ra lượng Bt ngọt (Sodium Glutamate) cũng là vấn đề mà chúng tôi xin bàn đến trong một bài sau..
Xét theo các tỷ lệ dinh dưỡng, thì Phở tuy ăn ngon miệng thật, nhưng lại là món ăn cần thận trọng nơi những vị trên ..40 tuổi. Ở tuổi thanh niên, khả năng tiêu thụ Calories của cơ thể còn rất cao vì cần nhiều hoạt động, nhưng khi tuổi càng cao.. bộ máy cơ thể rệu rạo, sự hấp thu cũng chậm lại.

Và nếu Quý vị thích ăn Phở thì nên tránh nhất là... Gàu, Nước Béo vì đây là những thủ phạm nguy hiểm, với lượng Cholesterol quá cao có thể gây ra những tích tụ trong động mạch Tim và đưa đến nghẹt..Tim ; ngoài ra Nạm hoặc Vè cũng cần giới hạn nếu muốn mạch máu tim không bị tắc nghẽn..
Người viết không dám đề nghị Quý vị...đừng ăn Phở vì cứ theo ÔngPhạm Cao Dương thì : ‘ ..đã ăn Phở thì đừng sợ chết vì Cholesterol ! vì Cholesterol thì để cho Mỹ nó kiêng? Ra đường..lạng quạng thì cũng đi tàu suốt !, vậy thì sợ gì Cholesterol!‘ . Nhưng xin Quý vị..cứ nhìn những người bị stroke..vì cholesterol làm nghẽn tim..thì cũng nên giới hạn.. Phở Gầu, Nước béo?







Phở Vân Cù *

Làng Vân Cù (xã Đông Xuân, Nam Trực, Nam Định) có thể được coi là làng chuyên nghề phở duy nhất ở Việt Nam . Cuộc họp mặt giữa những người làm phở Vân Cù đã được tổ chức tại phố Cát Linh (Hà Nội) nói rõ thêm về làng phở này.

"Ai bảo phở của Tây, của Tàu, của người Hà Nội, riêng tôi bảo phở của Nam Định, gần đây tôi phát hiện ra phở là của làng Vân Cù, cuộc gặp mặt hôm nay là bằng chứng sống..." ông Nguyễn Đình Rao - Chủ tịch CLB ẩm thực Unesco mở đầu cuộc "hội thảo", tại một hội trường nhỏ ở 33C Cát Linh -Hà nội, về gốc tích của phở như thế. "Không nói 100% các hàng phở trên cả nước là của dân Vân Cù thì cũng phải đến 70-80%!".

Vân Cù là một làng đất chật người đông ở xã Đông Xuân, Nam Trực, Nam Định. Nhà thì làm bánh, nhà thì mổ bò, nhưng nhà nào cũng biết làm phở sao cho ngon. Để làm bánh phải chọn gạo tốt, "ngâm ra nước đục là vứt", ông Cồ Huy Hạm , 75 tuổi nói về cách thức chế biến phở. "Thí dụ định nấu 3 cân thịt thì lấy 6 cân xương chặt ra, bổ đầu gối để váng nổi lên trên, hớt đi mới được nước trong. Thịt để nguyên miếng ngâm bóp với tí muối cho hết nước đỏ, lúc luộc xong mới trắng. Ngâm từ chập tối đến 2-3 giờ đêm đun cả xương cả thịt. Khi nào lấy đũa xiên qua thịt được thì vớt ra. Lúc đấy mới cho hành nướng, gừng nướng và mắm muối vào xương hầm. Muốn cho cánh hồi, quế chi nướng vào thì tùy nhưng đừng cho nhiều thành nồng". Ông cho biết, "ngày xưa người ta không mấy ai ăn tái" và "phở trâu phở bò đều ngon cả". Ông Hạm và những nghệ nhân phở Vân Cù đều công nhận làng phở có từ xa xưa nhưng "nổi lên" từ thời Pháp thuộc.

"... Thời ấy trẻ con trong làng cứ tuổi lên 10 là được học nấu phở. Học đến trung học, như tôi biết đều phải bỏ nhà theo người làng ra thành phố làm bánh phở và nấu phở. Hầu hết đều nghèo, không có vốn. Được những người đi trước giúp đỡ, ra Hàng Quạt, đóng gánh phở, tìm các đầu phố chiếm lấy một chỗ...". Đấy cũng là câu trả lời cho câu hỏi "vì sao các vị lại nghĩ ra món phở", của vị khách mời nước ngoài duy nhất- ông Didier Corlou, bếp trưởng của khách sạn Sofitel-metropole. Ông nói mình ở lại Việt Nam 10 năm nay là vì món phở; ông Rao nói thêm, vì cả cô vợ người Việt xinh đẹp ngồi cạnh nữa. Một lần nữa ông Didier lại dẫn ra sự tương đồng về khẩu vị giữa hai dân tộc qua món phở và món canh nóng potaufeu của người Pháp- cũng cho hành nướng vào. Lúc ra về, qua cô vợ ông tỏ ra chưa thoả mãn với câu trả lời vì ông vẫn chưa được biết nguồn gốc của phở, ai sáng tác ra và có một công thức chung nào không... Cũng trong cuộc gặp mặt chớp nhoáng này, ông Didier thông báo ý định làm một cuốn sách hướng dẫn du lịch trong đó có bản đồ phở Hà Nội và kêu gọi dân làng Vân Cù đưa địa chỉ.

Lại nói đến những gánh phở đã đi vào ký ức dân thành thị. Cánh nhà báo thắc mắc, sao không lấy tên riêng làm bảng hiệu như ông Cồ Cử chẳng hạn, mà cứ trương biển phở gia truyền Nam Định. Liên hệ của ông Cồ Cử (cửa hàng nay ở Thụy Khê): "Như NSND Quách Thị Hồ ngày xưa hát trống quân ở hồ Hoàn Kiếm có ai biết tên tuổi là gì đâu. Thì cái nghề phở gánh ngày xưa không có giá trị gì cả, nghiệt lắm, người ta khinh, nhưng vẫn phải ăn (!) vì nó tiện." Bán phở rong xưa cũng hay bị phạt, có ông còn giữ tới mấy trăm cái giấy phạt, mỗi giấy vài hào, được cái "nộp thì nộp không nộp thì thôi người ta cũng mặc". Thì đội xếp mà chả phải ăn phở! Nhưng chắc cũng không phải vì các mặc cảm "lưu cữu" ấy mà không đưa tên tuổi mình ra, mà có thể vì chưa đủ tự tin. Vậy từ nay thấy một hàng phở Cồ... nào, bạn đừng vội cho là nhái vì họ Cồ của làng Vân Cù có tới 7 chi lận: Huy, Khắc, Bá, Văn, Như, Năng, Hữu. Theo các cụ thì Cồ chính phiên từ Cù mà ra.

Lại tiếp chuyện bán phở của ông Hạm: "Đã giàu thì giàu cực như Xã Quảng, Xã Viết lấy hết cả một dãy phố ở Hải Dương. Giàu vì các ông này có cửa hàng, các chức sắc địa phương muốn lên huyện phải vào đấy ngủ-ăn-uống chịu, ghi sổ, đến mùa trả bằng thóc... Đến kháng chiến thì thôi, sạt nghiệp chả còn gì...". Bán phở gánh mua được chức phó lý, chánh tổng-ông Hạm khẳng định. "Thức đêm thức hôm ngủ đường ngủ chợ, ăn cơm nắm... nhưng lên đến tàu hỏa về quê thì ăn mặc sang trọng rõ là ông nọ ông kia." Ông Cồ tên Hùng phát biểu: "Tôi biết đời lý trưởng-ông Lý 1 có ông anh bán phở ở đường Bonnan (Hải Phòng), ông Lý 2 có anh bán phở ở cột đồng hồ đầu cầu Long Biên, em bán phở ở phố Hàng Mã...". Sau đợt cải cách thương nghiệp giữa những năm 60, nhiều người nấu phở họ Cồ về làm cho các cửa hàng ăn uống quốc doanh.

Chính từ cuộc Hội thảo về Phở đầu năm 2003 tại khách sạn Metropole, mà ông Rao cho rằng làng Vân Cù là quê quán của phở. Cái hội thảo ngắn ngủi lần này chỉ để công bố phát kiến ấy. Vậy là Việt Nam có hẳn một làng nghề chuyên về phở-món ăn được người Mỹ xếp vào loại top ten thế giới. Nhưng gốc tích của phở xem ra vẫn còn chưa ngã ngũ. Theo phát biểu hành lang của ông Rao thì tiền bối của phở chính là món canh bánh đa. "Thời xưa, bò để cầy cấy, vua cấm thịt, lấy đâu ra phở. Từ khi người Pháp vào Việt Nam, mới có thịt bò." Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng từng có phát kiến của riêng mình. Ông lý luận, nếu phở có từ trước nữa ở thành Nam sao mà Tú Xương không thấy đả động tới (mà phở đã ăn rồi, mấy ai không cảm khái?!). Nhưng trong thơ Tú Mỡ lại có câu Sáng sáng đi làm chén phở rong... Tú Mỡ sinh năm 1900. Vậy phở ra đời đâu đó sau Tú Xương, trước Tú Mỡ - "bằng tuổi với Liên hiệp Dệt Nam Định," ông Rao nói với theo.






Ngày Tết tản mạn đôi điều về phở *
08:05' 12/02/2005 (GMT+7)

Gánh phở Vân Cù.

Phở bây giờ đã là món ẩm thực được lên ngôi. Phở hấp dẫn đến mức không còn là món ăn buổi sáng, mà ngày Tết chỉ sau bữa cúng gia tiên đầu năm mới, nhiều người đã tìm đến hàng phở nổi tiếng trong thành phố để thưởng thức. Phở có từ bao giờ và nguồn gốc ở đâu cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đã có một cuộc hội thảo do ông Nguyễn Đình Rao - Chủ tịch Câu lạc bộ Ẩm thực UNESCO chủ tọa ở 33C Cát Linh (Hà Nội) tối 3-4-2003 về gốc tích của phở mà đa số đại biểu dự hội thảo đều cho rằng phải đến 70 - 80% từ làng Vân Cù, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Trong bài thơ “Phở… đức tụng” ở cuốn “Dòng nước ngược” từ thập niên 30 (thế kỷ XX) nhà thơ Tú Mỡ đã viết:

Các bậc vương tôn thờ chả phượng nem công

Chưa chén phở vẫn còn không đảo món

Chớ khinh phở là đồ ăn hèn mọn

Đấu xảo thành ba-lê còn phải đón phở sang

Cùng các cao hương vạn quốc phô trương

Ngon lại rẻ phở thường tranh quán giải


Vương Hồng Sển (1902 - 1994), sinh ở Sóc Trăng, từng làm Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn nên thường được gọi là cụ “Vương cổ ngoạn”. Đọc lại Sài Gòn năm xưa (tập 3) của ông, ngờ đâu lại thấy nhà văn họ Vương này đã nồng nhiệt ca ngợi món phở - mà lại là phở Bắc - với giọng văn đôi chút bợn chợn như tính cách của ông: “… Phở nấu và ăn với nước cốt thịt bò, vitamin giàu hơn, nhất là cách đây không lâu khi phở Huỳnh Phú Nhuận còn mở cửa, trời sáng lành lạnh, tô phở bay hơi nghi ngút, tay cầm đũa vít miếng thịt mềm nhừ, hay miếng mỡ gầu vừa giòn vừa giai gion gion giòn giòn, chấm một chút tương cay, mắt liếc tay ngọc bưng tô phở cho bàn bên cạnh tưởng đâu chừng đã theo Lưu Nguyễn lạc lối thiên thai, với mười bảy đồng hay hai chục đồng mà nếm tô phở Huỳnh buổi ấy, hơn Lưu Nguyễn bội phần vì hai chàng lạc lối ăn đào thiếu bổ…”

Và ở tuổi già, nhà văn họ Vương cho rằng còn ăn được phở là biết mình còn khỏe - vậy nên đừng tiếc tiền.

Còn nhà văn Nguyễn Tuân, năm 1960 trên báo Văn Nghệ ông ca ngợi món phở là “món thuần khiết Việt Nam, nó sẽ nổi tiếng khắp 5 châu”. Lời tiên tri đó đã thành hiện thực.

Đầu năm 1996, tờ báo Mỹ Los Angeles Times trong mục có tên là IN AN OUT (dịch cho dễ hiểu là sang năm mới) đã ghi bằng tiếng Việt chữ PHỞ hẳn hoi. Đó là món ăn người Mỹ ưa chuộng nhất, mê nhất.

Từ lâu rồi những người sành ăn ở Nha Trang hay tìm đến các quán phở Bắc - một trong những quán nổi tiếng là quán Bắc Hải ở 65A đường Quang Trung mà chủ nhân là anh Phan Hồng Giang. Tôi đã có dịp trò chuyện với người chủ quán mến khách này xung quanh chuyện phở. Theo anh, để có bát phở ngon phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất vẫn là nước lèo. Nước phở trong, có mùi thơm và ngọt nhưng không phải ngọt nhờ bột ngọt. Muốn có nước lèo đạt tiêu chuẩn thơm và ngon đậm đà ấy phải mua nhiều xương bò. Xương phải là xương cục ở hông nhờ nhà lò chặt sẵn rồi ngâm, lọc rửa hai ba nước, sau đó dùng bàn chải chà từng ống xương một. Xương đã làm sạch cho vào nồi ninh khoảng 18 đến 20 giờ chất ngọt mới tiết ra. Lúc ấy mới cho hành nướng, gừng nướng và mắm muối vào xương hầm.


Phở gà, phở Bắc.

Một bát phở ngon đòi hỏi nhiều yếu tố: thịt, bánh, nước lèo, gia vị. Trong từng thứ, thứ nào cũng có vai trò. Bánh phở thái không dính, có độ dai vừa phải. Song người chế biến lẫn người thưởng thức đều cho món nước lèo ở vị trí số một. Khen phở ngon hay chê phở dở cũng là từ nước lèo. Quán phở của anh Phan Hồng Giang sáng nào cũng tấp nập, trong đó có rất nhiều người nước ngoài tìm đến, có ngày bán đến vài tạ bánh. Có được như ngày nay, chính anh đã trải qua một thời gian dài học nghề mà có lúc tưởng như thất bại. Cuối năm 1993, anh còn bán ở vỉa hè của số nhà 48 Yersin, mấy năm sau mới thuê đất mở cửa hàng trước Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Mãi tới năm 1999, anh mới có nhà hàng mang tên Bắc Hải - tên của nhà hàng đã dạy anh lập nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh. Tôi nói với anh trong cuộc hội thảo đó có một vị khách người Pháp tên là Didier Corlore - bếp trưởng của khách sạn Sofitel - Metropole, ông này cho rằng ở lại Việt Nam 10 năm nay cũng là vì món phở. Còn ở Hà Nội có quán phở Cali do một Việt kiều ở Caliphornia về khai trương trong khuôn viên khách sạn ba sao ở phố Hoàng Ngọc Phách. Phở đậm vị ngọt của xương hầm (không dùng bột ngọt), thịt thái lát bằng máy, rau sạch, bánh phở không hàn the. Bát đĩa thìa đũa và các loại vật dụng đều thuộc loại đẹp, bảo quản sạch sẽ và khách được phục vụ chu đáo lịch sự với giá 15 nghìn đồng một tô - anh Giang nói vui: Thì tiền nào của ấy!

Chính anh Phan Hồng Giang khi đã thành nghề và làm ăn phát đạt lại là “thầy dạy” cho một Việt kiều từ Newyork sau khi thoát chết ở vụ khủng bố ngày 11-9, đó là bà Kim Anh. Trở về Mỹ với số vốn nghề nghiệp và một cuốn băng hình, bà đã có một quán phở. Và chỉ sau 5 năm, bà thu được vốn bị mất ở căn nhà chọc trời đó.

Từ rẻo đất miền Trung cho tới tận đất mũi Cà Mau không đâu là không có quán phở. Phở là món ăn quyến rũ, cho nên thật đáng ca ngợi những người làm phở biết quý trọng, biết nâng niu, biết chăm chút sản phẩm của mình, một món ăn dân tộc được hầu hết mọi người ưa thích, và hơn cả thế, nó đã vượt qua biên giới để có mặt ở nhiều thủ đô, nhiều thành phố nổi tiếng từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ. Khá nhiều người Việt có dịp sang Paris, Singapore, Bangkok, Caliphornia… về kể lại các quán cơm phở Việt Nam đều rất đông khách mà phần nhiều là những người quý phái.

Tôi rất tâm đắc với ông chủ quán phở Bắc Hải: Một món ăn ngon muốn được duy trì và phát huy phải trông vào hai yếu tố: tài năng người đầu bếp, sự sành ăn của thực khách. Hai yếu tố ấy tác động qua lại, khách càng sành ăn, càng khó tính đầu bếp càng phải phấn đấu nâng cao tay nghề.

Để kết thúc bài viết, tôi xin ghi lại đây đôi câu đối của một người rất sành phở tặng cho món ăn thật quyến rũ này.

Tái chín mỡ gầu hơn cả cỗ bàn ngày Tết

Tiêu hành giấm tỏi kém gì hương vị đầu Xuân.


* COPY CỦA NGƯỜI KHÁC ( tôi xin phép không đề nguồn )
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thỉng thoảng đọc mấy bải tản mạn về ẩm thực như thế này cũng thú vị... :)
Nhưng mà đôi chỗ ko thích cách viết của mấy ông văn nghệ sĩ này lắm, cái gì nó cũng cứ quá lên thế nào ý

Hai định nghĩa của Larousse cho thấy rằng phở chỉ giống pot-au-feu nhiều lắm là tảng thịt bò hầm, còn lại mớ cà rốt, tỏi tây, củ cải và đồ gia vị thì xin gác qua một bên. Thịt bò hầm kiểu này cũng có mùi vị đặc biệt không giống thịt phở chín. Hơn nữa, người Pháp ăn pot-au-feu với bánh mì, khoai tây... chứ chưa thấy ai ăn với bánh phở bao giờ ! Xem vậy thì pot-au-feu khá xa lạ với phở.

Các hàng phở ở Hà Nội trước đây cũng đã thử nghiệm phở sốt vang (hai tiếng sốt vang hoàn toàn đến từ tiếng Pháp) để làm vừa lòng mấy ông tây bà đầm. Tôi chưa được ăn phở sốt vang, nghe nói khá đắt vì được xào xáo với rượu vang. Thuở bé xin mẹ được một đồng bạc, đánh chén một bát phở không, không thịt, là đủ sướng mê tơi rồi. Làm sao mà biết được phở sốt vang trong tiệm của người lớn. Sau này có tiền muốn ăn cũng không được vì món này chết yểu rất sớm. Đông và tây khó mà gặp được nhau trong bát phở.

Bác Ng Dư hình như quá bênh phở VN vs. món sốt vang của Pháp nên nhầm lẫn rồi. Sốt vang ăn với bánh mì và sốt vang ăn phở tên thì giống nhau mà thành phần và cách nấu thì khác nhau hẳn. [-x Với cả món sốt vang ko hiểu có chết yểu thời bác thật ko (năm bao nhiêu nhỉ?) chứ từ ngày cháu bé đến giờ 20 năm chưa thấy món sốt vang vắng khách ta bao giờ.
Mới cả tại sao bác phê bình món pot au feu của Pháp nhỉ??? Chỉ vì có ng bảo bác phở là feu mà bác giận cá chém thớt đem pot au feu ra chê lấy chê để ạ?
Nói chung traditional culinary art ko nhất thiết phải conservative như thế [-(
 
Phở khô Gia Lai

231.jpg



Người Gia Lai xem món phở khô như một phần không thể thiếu trong nét văn hóa ẩm thực của nơi này. Phở khô là sự kết hợp của hai nguyên liệu: thịt heo và bò trong cùng một món ăn.

Để có nước lèo trong, ngọt, người ta nấu xương heo và bò trong nồi nước lèo, phải giữ lửa liu riu khoảng 5-7 giờ để ninh xương thì nước lèo mới ngọt đậm, và phải canh hớt bọt liên tục.

Thịt của phở khô là thịt bò non hoặc thịt bê. Thịt được thái mỏng, trần thật nhanh qua nước lèo rồi cho vào chén nước, đây là phần nước dùng của phở. Còn thịt nạc heo băm nhuyễn được cho vào tô trên mặt của bánh phở đã trần cùng với hành phi. Rau ăn chung với phở khô là xà lách, cần và rau quế.

Tô phở khô được dọn lên, ngoài chén nước dùng, các loại rau, còn một gia vị không thể thiếu là tương xay và sa tế. Tương có vị vừa mặn nhưng vẫn có chút ngòn ngọt của đậu được lên men. Cho tương vào tô, trộn đều với bánh phở, thêm tí sa tế để thêm vị thơm, cay. Vị ngọt của miếng thịt bò non mềm cùng vị ngọt của nước dùng cứ hòa lẫn, càng làm cho món ăn trở nên hoàn thiện. Hương vị của phở khô khác hẳn với phở xào, áp chảo, còn nước dùng của nó khác với món phở Bắc truyền thống. Ở thành phố, được thưởng thức một món đặc sản của vùng Tây Nguyên cũng thú vị.
 
Phở trên đất Mỹ

pho1.jpg


Những tô phở "cỡ Mỹ" to đùng như cái chậu với đầy đủ tương ớt, giá trụng, hành mùi. Từ bờ Đông đến bờ Tây nước Mỹ, người Việt đi đến đâu, phở đi đến đó. Món ăn quốc hồn quốc túy Việt đã đi vào từ vựng của người Mỹ, với giọng đọc ngô nghê không dấu: "Phơ!".

Hành trình tìm phở Mỹ có thể bắt đầu từ lời giới thiệu của bạn bè, nhân viên khách sạn hoặc từ... Internet. Vào Google tìm phở tại từng thành phố ở Mỹ, bạn có thể thấy dãy kết quả dài dằng dặc. Cứ việc gõ chữ Pho vào cũng được, rất nhiều nhà hàng để chữ Pho trên bảng hiệu của mình và đăng ký với các website tìm kiếm địa phương. Tại Mỹ, Yahoo cho bạn kết quả với tên nhà hàng, số điện thoại, địa chỉ kèm cả bản đồ lẫn chỉ dẫn đường đi từ nơi bạn đang ở đến đó, kèm theo thời gian đi dự kiến bằng xe hơi.

Ở khu mua sắm ăn uống George Town có thể nói là cao cấp của thủ đô Washington, có 2 nhà hàng Việt nằm ngay cạnh nhau, và cả hai đều có bán phở. May mắn cho những ai có bao tử nhỏ, Saigon Inn có bán phở tô nhỏ, tức là bằng tô... bình thường ở trong nước. Nước lèo mùi vị cũng đậm đà lắm, nhưng chỉ tội một điều là thịt gà đông lạnh nên không có vị gì cả, ăn như nhai gỗ.

pho2.jpg


Ở Oklahoma City, nơi khá đông người Việt sinh sống, nhà hàng phở đầy rẫy trong quận châu Á gần khu vực Đại lộ Classen: Phở Hòa, Phở Bình, Phở Thái Nguyên (hay Thái Nguyễn không chừng), thậm chí nhà hàng tên rất Nhật là Mirama cũng bán phở luôn. Tiệm Phở Hòa Oklahoma City treo một bảng hiệu có chữ "Phở Hòa" rất to bằng sơn mài ngay quầy tính tiền. Thực đơn thì đủ cả: tái nạm, tái gầu, tái gân, tái chín, bò viên và tất nhiên là có tô "đặc biệt" gồm đủ các thứ.

"Cho hai tô đặc biệt size xe lửa đi!", anh Việt kiều kêu. Tô "xe lửa" ở đây to bằng cái chậu nhỏ, đầy tú hụ và thơm ngào ngạt. Nếm thử thì thấy quả là không hổ danh phở Hòa, ngon ngọt nước xương, thịt bò mềm. Tô phở size Mỹ thì gia vị cũng size Mỹ: giá trụng to và dài, mùi to tướng, rau thơm cũng vậy, tất cả đều được trồng tại Mỹ. Ớt sa tế ở đây cũng y như ở trong nước, có điều không được cay cho lắm. Bình tương ớt cũng to, với đủ chữ Anh chữ Tàu chữ Việt trên đó, nhưng hương vị thì đúng là tương ớt thứ thiệt. Để tráng miệng (nếu ai đó còn sức ăn tiếp sau khi "làm" xong tô "xe lửa"), các nhà hàng đều có các món rất phổ thông như sâm bổ lượng, chè đậu...

Kansas City (bang Missouri) cũng là nơi dừng chân của phở. Các nhà hàng Việt ở khu trung tâm cũng như ở Westport đều có bán. Nước lèo cũng thơm ngon, nhưng bánh phở thì thua xa bánh phở Oklahoma City. Nhà hàng Vietnamese Bistro ở Westport trang trí rất đẹp với các tranh phong cảnh Việt Nam thứ thiệt, là nơi thu hút khá đông thực khách Mỹ. Ngày tôi đến ăn, có cả một bữa tiệc toàn người Mỹ tổ chức tại đây, và người ta hồ hởi ăn cả phở lẫn các thứ bún bò Huế, bún thịt nướng, gỏi cuốn... có trong thực đơn.

Các quán phở Mỹ không có kiểu người làm đứng sau quầy băm băm chặt chặt (và lau tay, lau thớt, lau dao bằng cùng một cái khăn không rõ màu gì) ngay trước mặt thực khách như ở ta. Mọi thứ đều diễn ra sau bếp, nơi dụng cụ làm việc đều phải quy chuẩn hóa. Trong toilet ở nhiều quán còn có dòng chữ "Nhân viên sau khi đi toilet phải rửa tay sạch trước khi làm tiếp" bằng tiếng Anh, có lẽ phần nào để trấn an nỗi e ngại vệ sinh của người Mỹ, vốn đi đâu cũng kè kè một lọ thuốc xoa tay "để giết vi trùng khi không có điều kiện rửa tay".

pho.jpg

Phở Hoà.
Phở ở Mỹ nên cũng phải có tên Mỹ: quán Phở USA ở San Jose, chỉ cách tổng hành dinh của hãng vi tính Sun Microsystems vài bước chân, mở cửa từ năm 2001 cũng đắt khách và từng được báo chí địa phương tìm hiểu.

Phở Mỹ thì giá Mỹ, một tô thường vào khoảng 5-8 USD, trừ những nơi đặc biệt sang trọng thì cao hơn nữa. Với số tiền đó, bạn có thể ăn được ít nhất cũng 2 tô phở (đắt tiền) hoặc... 10 tô phở rẻ tiền ở ta. Nhưng nếu so sánh với các món ăn khác, thí dụ như beafsteak Oklahoma hay thịt bò BBQ Kansas thì phở cũng còn rẻ chán, và đặc biệt ngon đối với những bao tử Việt Nam xa nhà lâu ngày. Ngay trung tâm New York đắt đỏ, quán Phở 89 (89 Đông Broadway) cũng đưa ra giá khá mềm, chỉ 5 USD một tô "xe lửa". Đặc biệt ở đây còn có phở tôm, phở “đồ biển" và cả phở chay.

Người Mỹ cũng "hảo" phở lắm, dù họ chẳng thể phát âm dấu hỏi của từ này. Sức cạnh tranh của món ăn Thái, Ấn, và nhất là Trung Hoa rất lớn. Tỷ lệ nhà hàng Trung Hoa so với nhà hàng Việt Nam ở Mỹ ít nhất là 6:1, trừ quận Cam ở California vốn là nơi ra chợ không cần nói tiếng Anh, chỉ nói tiếng Việt cũng đủ. Tuy nhiên, các nhà hàng Việt Nam ở Mỹ đủ mạnh để trương biển "Món ăn Việt Nam" đàng hoàng chứ không đến nỗi phải "đánh du kích" như đa số các nhà hàng Việt ở châu Âu, vốn chỉ đề "Món ăn châu Á" hay thậm chí còn đề "Món ăn Hoa - Thái" bên ngoài nhưng bên trong bán đồ ăn Việt.

Ít nhất cho đến giờ này, phở đã đi một chặng đường dài, từ một dọc bờ Đông New York, Washington D.C., qua miền Trung Tây (Oklahoma, Missouri) vòng xuống Houston (Texas), vòng lên California ở bờ Tây nước Mỹ. Nếu một ngày kia, các chuyến bay quốc tế của Vietnam Airlines có phục vụ phở trên máy bay, chắc chắn phở sẽ còn "bay" xa nữa.

(Theo Thanh Niên)
 
Phở Cali ở Hà Nội

onglam.jpg


Lặp lại hành trình nửa vòng trái đất, món phở lại trở về quê hương nhưng đã mang theo hương vị mới rất dễ thương của vùng đất California.

Ông chủ quán Tôn Lâm, một Việt kiều đã có gần 20 năm sống ở Hà Nội, cho biết lý do ông giới thiệu món phở Cali: "Khi qua Mỹ, người Việt ai cũng nhớ tới món phở quê nhà. Nay ở Việt Nam, tôi lại thấy nhớ tới cái hương vị phở đã quen thuộc ở miền California. Vả lại, cũng nên giới thiệu để người mình biết món phở sau cuộc hành trình dài vào Nam, rồi qua Mỹ, nay vẫn giữ lại được cái gốc đặc trưng Việt Nam, rồi lại có thêm hương vị mới".

Tô phở Cali có một đặc điểm rất... Mỹ là lớn hơn nhiều so với phở Hà Nội. Ở Mỹ, không phải ai cũng dám kêu một tô phở "xe lửa" (tô lớn bằng cái bánh xe lửa). "Người Mỹ ăn vậy, và nói chung người Việt ở Mỹ cũng ăn vậy". Phở Cali Hà Nội mặc dù đã "giảm ký" nhiều so với nguyên bản nhưng vẫn còn rất bự. Theo phong cách ở California, thịt bò dùng cho món phở tái sẽ được để trên đĩa, đưa ra cho khách hàng tự nhúng trong tô sao cho vừa với nhu cầu của bản thân. Một điểm nữa cũng khác nhiều với các quán phở Hà Nội là đồ dùng (tô, đũa...) của phở Cali rất sạch: Tất cả sau khi rửa đều được tiệt trùng và sấy nóng trong lò, khi nào dùng mới lấy ra. Và một điều hơn đứt nhiều quán phở khác, phở Cali không dùng mì chính. Nếu món phở ở California phải dùng bánh phở khô (do ở Mỹ không có nơi nào sản xuất bánh phở) thì phở Cali Hà Nội có được bánh phở "xịn", đặt làm riêng.

Phở Cali được phục vụ ăn sáng trong không gian của một nhà hàng Mexico tại khách sạn Vườn Thủ Đô (48A Láng Hạ, Hà Nội). Giá một tô là 15.000 đồng, không quá cao với người Hà Nội, và rất thấp nếu so với giá ở Mỹ (7 USD). Một món ăn đã vượt qua hai lần nửa vòng trái đất có lẽ cũng đáng để thử một lần.

Q.Hà
 
Phở cuốn làng Ngũ Xã

52.jpg


Cũng thịt bò, bánh phở, rau thơm... nhưng không phải thái sợi bánh nhỏ ra chan với nước dùng mà để miếng vuông cuốn lại như nem. Người từ nơi xa đến biết tiếng phở cuốn thế nào cũng phải ghé qua nếm thử.

Thực ra món này cũng chỉ mới xuất hiện cách đây được hai năm. Ngã tư phố Ngũ Xã và đường Nguyễn Khắc Hiếu ở Hà Nội, trước kia có một quán phở cũng khá nổi tiếng. Anh chủ tên Việt. Sau khi thấy nấu mãi món phở nước chan gia truyền cũng chán, anh nghĩ cách dùng bánh phở cuốn với thịt bò chấm nước mắm ăn cho khác đi. Một vài người ăn thử, khen ngon. Rồi nhiều người sống chung quanh khu vực đó biết tiếng, thường cuối giờ làm dừng xe trước cửa hàng mua từng túi một về nhà thết đãi chồng, con. Quán phở của anh trở thành đắt hàng nhưng giờ thì anh không bán nữa. Một số người bắt đầu học tập anh mở hàng để kinh doanh.

Phở cuốn phải ăn ở vỉa hè mới thấy ngon. Hàng phở cuốn mà giới văn nghệ sĩ hay ghé nhất là quán của chị Bền, một người phụ nữ gần 30 tuổi bán ở phố này cũng gần như đầu tiên. Gia đình chồng của chị cũng có nghề bán phở gánh ở làng Ngũ Xã này. Khi về làm dâu chị đổi qua bán phở cuốn. Quán của chị thủa ban đầu chỉ có mỗi mình chị bán, sau này thuê thêm một người giúp việc ở quê. Giờ thì cả nhà chị cùng ra phụ luôn. Quán của chị mở hàng từ 3 giờ chiều, đến tận 11 giờ đêm. Có hôm đông khách, chị phải cuốn bánh phở tốc độ đến chóng mặt, đã có lần đạt kỷ lục 5 phút cuốn được 50 cái.

Cách làm một cái phở cuốn thịt bò rất đơn giản. Phở xắt miếng vuông vắn diện tích 20x20 cm, phở này chị phải đặt tận trên chợ gần nhà, mà chỉ có một hàng duy nhất. Hàng này làm bánh phở mỏng nhưng rất giòn lại dai và luôn mang mầu trắng tinh. Họ sẽ giao cho chị một tảng bánh phở rất to như một cuộn vải, sau đó chị phải dùng dao nhọn và sắc để sắt thành từng hình vuông vắn. Mỗi khi cuốn, bên cạnh chị có một người chuyên bóc những bánh phở rời ra khỏi nhau. Có hôm khách đông cao điểm chị bán được đến 30 kg thịt bò. Anh chồng chị sẽ thái thịt bò, ướp gia vị, mì chính. Phi thơm hành, tỏi trong mỡ trên một bếp lửa to, đảo nhanh và thật đều tay thì thịt bò mới giòn. Thấy thịt bò hơi săn vừa đủ độ chín, tiếp tục nêm mắm, muối, gia vị vừa miệng. Thịt đơm ra đĩa còn nghi ngút nóng. Chị Bền sẽ lựa vài miếng đặt trên những rau mùi, xà lách và rau thơm, sau đó cuộn tròn lại. Nước chấm thì cũng do chính anh chồng pha chế, giống như pha nước chấm nem hoặc bánh gối. Món này, ăn mùa nào cũng hợp và luôn luôn cho người ta cảm giác không sợ béo.

1.500 đồng một chiếc, nhưng hiếm khi ai đặt chân vào quán mà lại không ăn đến ít nhất là 5 cái. Hoặc là ăn phở cuốn một lần rồi lại muốn ghé lại ăn lần nữa.

Không chỉ phở cuốn, ở đây còn có món phở rán cũng hợp khẩu vị khá nhiều người. Vị béo giòn tan của bánh phở tráng với trứng mỏng, cắt thành miếng nhỏ vừa miệng, thêm chút thịt bò xào ăn kèm khiến thực khách “mê tít”. Ngoài phở cuốn, phở rán, còn có phở chiên, chả ngan nướng với giá khá mềm. Với 15.000 đồng, bạn có thể thưởng thức tất cả các món ăn ở đây.

Địa chỉ: Quán phở cuốn Hà Nội Ngũ Xã, 29 Ngũ Xã, quận Ba Đình - Hà Nội (gần hồ Trúc Bạch).
 
Bánh phở khô xào xá xíu và tôm

201.jpg


Sau khi chế biến, bày bánh phở khô xào thịt xá xíu và tôm vào đĩa, dọn dùng với nước tương cùng ớt cắt khoanh. Món ăn này sẽ đem lại cảm giác mới lạ cho bữa ăn.

Nguyên liệu:

- 150 g bánh phở khô

- 100 g xá xíu

- 20 g tôm

- 200 g đậu ve xanh

- 150 g cà rốt cắt sợi

- 1 muỗng canh đầu hành lá băm nhuyễn

- 2 muỗng cà-phê muối

- 1 /2 muỗng cà phê đường

- 2 muỗng canh dầu + 1 muỗng cà phê tiêu, 1/2 muỗng cà-phê tỏi băm nhuyễn, 1/2 muỗng cà-phê muối tiêu, 1 muỗng canh cần cắt nhỏ, lá cần trang trí.

Thực hiện:

Nấu sôi nước + 1 muỗng cà-phê muối cho bánh phở khô vào luộc chín trên lửa lớn 3 phút, cho ra rổ xả nước nguội, xóc ráo.

Phi vàng tỏi với 1 muỗng canh dầu, nhấc xuống trộn đều với bánh phở vừa luộc.

Thịt xá xíu cắt lát mỏng.

Tôm rửa, xóc ráo, trộn đều với muối tiêu, đem hấp chín, bóc vỏ + bỏ đầu + chỉ đen trên lưng.

Đậu ve xanh rửa, chần trong nước sôi 1 phút, cho ra rổ xả nước nguội, ngâm vào nước + ít đá đập nhỏ 10 phút, cho vào rổ ráo nước, tước xơ cắt lát xéo.

Cà rốt chần nước sôi, cho ra rổ xả nước nguội, ngâm trong nước + đá viên đập nhỏ 5 phút, cho vào rổ xóc ráo.

Xào thơm đầu hành lá băm nhuyễn với dầu cho đậu ve + muối + đường vào trộn đều 2 phút, cho cà rốt cắt sợi + thịt xá xíu + tôm + cần cắt nhỏ vào, tiếp tục xào trên lửa lớn 2 phút nhấc xuống, cho bánh phở vào trộn đều.
 
Phở trộn thịt ba rọi xông khói

1.gif


Món này thích hợp cho những bữa ăn chơi, hay một bữa tiệc nhỏ trong những ngày nắng nóng. Phở trộn có một vị riêng rất lạ miệng và hấp dẫn.

Nguyên liệu:

- 200 g bánh phở khô

- 250 g thịt ba rọi xông khói

- 500 g giá

- 200 g cà rốt cắt sợi

- 500 g bông hẹ

- 1 thìa canh dầu ăn

- 1 thìa canh dầu hành lá băm nhuyễn

- 1 thìa cà-phê muối

- 1 thìa cà-phê đường

- 1 thìa cà-phê tiêu

- 1 thìa canh dầu mè trắng

- 1 củ cà rốt tỉa hoa + mùi tây dùng trang trí.

Thực hiện:

Nấu sôi nước + một ít muối cho bánh phở khô vào luộc trên lửa lớn 5 phút, cho ra rổ xả nước nguội, xóc thật ráo, trộn đều với dầu mè.

Giá rửa để ráo, ngắt gốc.

Bông hẹ rửa, ngắt bông có độ dài bằng với cọng giá.

Thịt ba rọi xông khói cắt miếng vuông.

Phi thơm đầu hành lá trong dầu ăn, cho bông hẹ vào xào trên lửa lớn 3 phút, cho giá + muối + đường vào, tiếp tục xào trên lửa lớn 3 phút nhấc xuống, cho hỗn hợp rau vừa xào vào rổ thưa để ráo nước.

Cho hủ tiếu khô + hỗn hợp rau vào xào + thịt ba rọi xông khói + tiêu vào thố trộn đều, bày vào đĩa, trang trí ngò tây + cà rốt tỉa hoa, dọn dùng với nước tương + ớt cắt khoanh.
 
Back
Bên trên