Phạm Duy _ lời nhắn gửi về âm nhạc cho các bạn trẻ

Trần Xuân Bách
(KGB Agent)

New Member
Một cách công bằng mà đánh giá , có lẽ từ trước đến nay , không có một người nhạc sỹ nào mà lại có những đóng góp to lớn cho âm nhạc Việt Nam như nhạc sỹ Phạm Duy. Và có lẽ , ngoài Trịnh Công Sơn ra , không có bất cứ một người nhạc sỹ Việt Nam nào lại gây được tiếng vang lớn trong không chỉ giới nghiên cứu nghệ thuật mà cả công chúng yêu nhạc toàn thế giới như Phạm Duy .Tuy vậy ,có một điều đáng tiếc là nhạc của ông lại chưa thật sự phổ biến và chưa trở thành món ăn tinh thần của các bạn trẻ .Vì vậy , tôi lập ra topic này nhằm giới thiệu chi tiết hơn cho các bạn về cuộc đời , về sự nghiệp âm nhạc cùng những tác phẩm từ mấy chục năm nay đã đi vào lòng người .Chúng trở thành một phần không thể tách rời của văn hóa Việt Nam , và hòa lẫn trong đó là sự kết hợp khéo léo tài tình giữa âm nhạc dân gian VN cùng những giai điệu và kỹ thuật của âm nhạc cổ điển Tây Phương .

Thiết nghĩ , trong nền âm nhạc VN đương đại , sự giao thoa văn hóa với thế giới đem lại cả những thay đổi tích cực và cả những sự lai căng , pha tạp , nhố nhăng ,hủy hoại các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống .Do đó ,việc tìm lại và thưởng thức nhạc Phạm Duy cũng là một cách rất hay để thế hệ trẻ tìm lại với bản sắc dân tộc mà đôi khi đã bị quên lãng , bị vùi lấp đi trong cái nhịp sống hối hả của ngày hôm nay .

Sau đây là tiểu sử của nhạc sỹ Phạm Duy :
Tiểu sử


Giọt mưa trên lá
Nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa
Trên xác con lạnh giá

Giọt mưa trên lá
Nước mắt mặn mà
Thiếu nữ mừng vì
Tan chiến tranh chồng về . . . . . . . .

Đó là lời ca của một ca nhân trong buổi trình diễn tại Institut Francais ở Saigon vào đêm 28 tháng 11 năm 1974, một người mà người Pháp trong Institut này đã gọi là thi nhân của ca khúc Việt Nam (le poète de la chanson vietnamienne). Nhưng đối với dân chúng Việt Nam thì Phạm Duy còn là một trong những người, từ cuối thập niên 30, đã thành lập một nền nhạc mới thường được gọi là Tân Nhạc (nouvelle musique).

Trong khi các người khác đi theo xu hướng nhạc Âu Tây thì Phạm Duy chủ trương nhạc Việt Nam loại mới phải khởi nguồn từ nhạc dân ca cổ truyền, và suốt trong 50 năm qua, trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, Phạm Duy đã sáng tác khoảng trên dưới 1,000 ca khúc, nói lên niềm vui, nỗi buồn, vinh quang, tủi nhục... của người Việt trong một thời kỳ sôi động nhất của lịch sử.

Phạm Duy xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn Học Mới ra đi hồi đầu thế kỷ. Tác phẩm của Cụ Tốn được đưa vào học trình Trung Học, đăng trong các sách giáo khoa ví dụ những bài Sống Chết Mặc Bay, Một Cảnh Thương Tâm... Anh là Phạm Duy Khiêm, Giáo Sư Thạc Sĩ, Cựu Đại Sứ Việt Nam tại Pháp Quốc, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes Des Terres Sereines, Nam Et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...

Phạm Duy sinh tại Hà Nội năm 1921, theo học các Trưng Trung Học Thăng Long, Cao Đẳng Mỹ Thuật, Kỹ Nghệ Thực Hành, tự học nhạc và đi huấn nghệ tại Pháp trong 2 năm 1954-1955, học trò của Robert Lopez và bàng thính viên tại Institut de Musicologie, Paris...


Khởi sự đi nhạc của mình là một ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi hát lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sàigòn vào năm 1944, mỗi tuần, trình bày 2 lần.

Rồi trở thành cán bộ văn nghệ trong cuộc Kháng Chiến chống Pháp và
là một trong những người thành công nhất trong những người soạn nhạc lúc đó.

Kết duyên với ca sĩ Thái Hằng và là người đã đóng góp vào sự thành lập của ban hợp ca nổi danh trong thập niên 50 là ban Thăng Long, thành phần của ban này là anh em ruột của Thái Hằng. Vào giữa thập niên 60, các con của Phạm Duy, Thái Hằng cũng theo nghề nhạc và trở nên những ca nhạc sĩ trong loại nhạc trẻ và đã tự thành lập một ban nhạc combo gọi là The Dreamers. Duy Quang và Thái Hiền là hai giọng ca sáng giá trong 2o năm qua. Duy Cường thì được coi như một arrangeur có hạng. Những người con của Phạm Duy đã mở phòng thu thanh và nhà ấn hành sách nhạc, băng nhạc là Dream Studio và PDC Musical Productions.

Phạm Duy đã chia sự nghiệp của mình ra nhiều giai đoạn :

* Khởi đi từ dân ca, phản ánh người dân Việt Nam trong thời đấu tranh giành độc lập rồi tới trường ca là liên khúc của nhiều bài dân ca, nói lên cái vĩ đại của dân tộc Việt.

* Sau đó là tâm ca, những bài ca thức tỉnh lương tâm, phản đối bạo lực và lòng phi nhân.

* Tới đạo ca, mang tính chất thiền ca, là những bài hát đi tìm sự thật.

* Rồi tới tục ca, những bài hát tiếu lâm nói thẳng vào cuộc đi đầy rẫy ngụy thiện.

* Tới bé ca, nữ ca và bình ca là những khúc hoan ca.

Ngoài ra, còn những tình khúc của chính ông cũng như những bản dịch lời Việt mà suốt trên 50 năm qua, trải qua nhiều thế hệ, hầu hết đôi tình nhân Việt Nam nào cũng đều hát tới và sẽ nhớ mãi. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng viết 4 tập hồi ký kể về cuộc đời ca nhân của ông.





Tiếp theo là bài viết nói về một số nét đặc sắc trong sáng tác của ông :

Tại Moscow nơi tôi đang là một nghiên cứu sinh về luật hoc, tôi được may mắn quen và chơi thân với Stive Nopve, một sinh viên gốc Ukraina, con trai một giáo sư âm nhạc tại nhac viện danh tiếng Schaiskopky. Trong nhiều lần đến chơi và sống với gia đình của cậu bạn, tôi cũng được nói chuyện nhiều với giáo sư. Vì hợp nhau và vì muốn giới thiệu những giá trị văn hóa của người việt qua nhiều giai đọan, tôi giới thiệu với ông nhiều CD nhạc giá trị mà tôi có của nhạc si thiên tài Phạm Duy.

Chiều Về Trên Sông


Có lẽ bài hòa tấu đầu tiên mà ông nghe của nhạc Phạm Duy là bài Chiều Về Trên Sông do nhạc sĩ Duy Cường hòa âm. Ông chăm chú và đòi nghe lại nhiều lần… Ông ngạc nhiên lắm, ngạc nhiên và thích thú như đang ngồi nghe gió trên sông Vonga, trầm ngâm như đang lặng lẽ đứng ngắm những con sóng trên dòng sông một mùa thu lãng mạn…
Ông nói với tôi : “Lạ quá, trong dòng nhạc này có âm hưởng của nhạc cổ điển Châu Âu, nhưng lại mang phong cách phương Đông rõ nét. Từng giai điệu và những điểm nhấn trong âm vực, âm hưởng đầy hoành tráng của nhạc cổ điển, vững chắc như những rừng cây nhưng thiết tha như những cơn gíó, điều này chỉ có trong nhạc cổ điển Châu Âu. Bên cạnh đó, cách luyến âm, chuyển đọan lại rõ nét âm nhạc của phương Đông …“
Ông nghe ở đó có hơi thở của người Á Đông với những điệu cười và những cơn bão nhiệt đới…

Thật thú vị, tôi vui lắm vì lúc này tôi mới hiểu rằng trong âm nhạc không hề có sự cách biệt về ngôn ngữ và dân tộc, một nhạc sĩ người Việt đã rong ca hơn nửa thế kỷ trước, một ông giáo già người Nga Sô Viết chính hiệu, thế mà chỉ với một nhạc phẩm, họ dường như đã nghe được tiếng nói của nhau, hiểu được những cảm nhận của nhau. Ông giáo già đánh giá rất cao sự sáng tạo của nhạc sĩ PD. Sự kết hợp Đông và Tây trong giai điệu và trong nhạc lý đã tạo cho nhạc phẩm một sức sống vượt không gian, tạo nên sự sáng tạo trong phong cách của nhạc Phạm Duy. Ông giáo già vui lắm, vì Ông tìm được sự đồng điệu của người phương Tây và người phương Đông trong Chiều Về Trên Sông.

Ông nói : “Con sông dù ở đâu cũng là dòng nước… cũng cuốn trôi những gì ngăn cản nó, cũng réo rắt tiếng gió và cũng tạo nên những khỏang trống trong không gian. Nhạc Phạm Duy đã vẽ lên được điều đó, đã làm cho người hưởng thụ dù ở phương đông hay phương tây đều cảm nhận được cái cảm giác đó của chính Pham Duy bằng giai điệu trong lòng mình”.

Tôi chợt bừng tỉnh, bài hát này được sáng tác mấy chục năm về trước mà bây giờ tôi nghe vẫn hay. Có một buổi chiều đứng bên Cửu Long Giang, tôi cũng nghe trong gió tiếng nhạc hòanh tráng của thiên nhiên, trong tiếng của dòng chẩy có âm vang vài trăm năm của cha ông mà nhạc phẩm đã truyền tải… Không nói đến ca từ, chỉ nói đến cảm giác mà Chiều Về Trên Sông đem lại cho người nghe cũng đã thấy được giá trị hiện đại của nó.

Người bố giáo sư của bạn tôi đã dạy cho tôi biết rằng : một nhạc phẩm mà không mang hơi thở của hiện đại thì không thể dùng giàn nhạc Tây Phương để hòa nhạc được. Ông cho rằng Chiều Về Trên Sông sẽ là một nhạc phẩm tiêu biểu qua mọi thời đại của Nhạc Việt Nam. Và để hòa âm nó, người ta phải kết hợp cả nhạc khí phương Tây và phương Đông mới nói hết được ý nghĩa và nội dung của nó. Sự cao vút trong âm hưởng và sự réo rắt trong giai điệu đòi hỏi điều đó. Nó xuất phát từ tự nhiên và tính nhân bản của con người nên nó luôn hiện đại cho dù thời gian nó ra đời đã qua.

Minh Họa Truyện Kiều

Tôi chỉ có hai CD Kiều mà nhạc sỹ Phạm Duy đã xuất bản. Có lẽ bất kỳ ai học và tìm hiểu văn hóa Việt Nam cũng biết đến Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Vì vậy sức ép đối với người muốn phổ nhạc tác phẩm này rất lớn, tương ứng với tầm vóc vĩ đại của tác phẩm và tác giả.

Điều đầu tiên mà nhà giáo người Nga cảm nhạn và nhận xét về Truyện Kiều là : ‘’Minh Họa Truyện Kiều đã đạt đến đỉnh cao của âm nhạc hiện đại phát triển trên nền tảng văn hóa dân tộc. Điều đó được thấy rõ trong nhạc cụ và hòa âm của nhạc sĩ Duy Cường. Khả năng phối khí, phối ấm đạt đến tuyệt đỉnh bởi nó không chỉ đơn thuần là sử dụng những nhạc khí phương Tây hiện đại mà đã có sự phối hợp với nhiều lọai nhạc cụ dân gian của phương Đông nhưng không phải là sự lắp ghép vô thức, không phải là sự lắp ghép thô sơ thô thiển. Trong tác phẩm Nhạc Kiều, giai điệu của các nhạc cụ Đông-Tây hòa với nhau một cách thần kỳ đến mức ký bí mà người ta có cảm giác đây là giai điệu của lòng người và của tạo hóa. Chính điều đó làm cho tác phẩm dài nhưng không chán.

Ông còn đánh giá rằng, trong Minh Họa Kiều, dường như âm nhạc của Phạm Duy cứ phát triển theo mạch của tác phẩm mà không dừng lại. Tôi có hỏi ông là điều đó nghĩa là gì ? Thể hiện ở đâu ? Có tác dụng gì ? Cho thấy điều gì ?
Ông nói : “Trước hết một tác phẩm âm nhạc với thời lượng lớn dễ rơi vào tình trang dài dòng, trùng lắp cả về giai điệu ca từ và ngữ cảnh.

Về ca từ, vì ông không biết tiếng Việt nên miễn bàn, về giai điệu Minh Họa Truyện Kiều, ông nói :
“Không có sự trùng lắp mà diễn biến theo mạch logic của ca kịch. Nghe hòa âm trong CD, ông thấy mạch giai điệu có sự cộng hưởng của những bản giao hưởng với tiết tấu logic và đơn giản. Nó giống với giao hưởng phương Tây là nó có mạch giai điệu, nó có phút thăng, phút trầm, có điểm nhấn và điểm dài của giai điệu… Nó có phút nhanh nhẹn, nó có kịch tính, dẫn đến cao điểm hoặc có những câu trải dài thư giãn. Nhưng nó lại khác với giao hưởng là nó có những tiết tấu dân dã phương Đông vì vậy nó không rơi vào tình trạng khó hiểu. Nói cách khác, nó mang tính hàn lâm nhưng lại bình dị lạ lùng, các đọan với giai điệu không trùng lắp. Nếu không trùng lắp có thể sẽ rời rạc, thế mà Phạm Duy làm Truyện Kiều không hề rời rạc…

Lúc này tôi mới hiểu rằng hình như PD đã thấu đến tận cùng tâm hồn của Kiều và của Tố Như, bởi lẽ trong vài ngàn câu Kiều không hề có câu nào trùng nhau mặc dù có thể có nhiều đọan cùng miêu tả một tâm trạng của Kiều. Tài hoa gặp tài hoa nên đã ra đời cùng một tác phẩm với sự thăng hoa khác nhau.

Sự phát triển của âm nhạc Truyện Kiều được người bạn già Nga Sô của tôi nói đến qua diễn tiến của hòa âm và phối khí, tôi có kể cho ông nghe về nội dung câu truyện, ông ồ lên và nói :
“…Đúng như tôi cảm nhận vì giai điệu của Nhạc Kiều dường như có phút hạnh phúc, e lệ. Có một sự mãnh liệt của tình yêu và thậm chí còn nghe trong nó những âm thanh ma quái của số phận…”
Càng nghe hai CD Kiều, ông càng thích thú vì sự phát triển đó. Tôi thì chỉ có sự hứng khởi, chứ làm sao mà có thể cảm nhận tinh tế như ông đuợc !

Nói tiếp về giá trị của những điều đó, ông khẳng định rằng về mặt tác dụng với người nghe, sự tiến triển trong giai điệu làm cho người thụ hưởng không nhàm chán và thậm chí còn thăng hoa trong các nốt nhạc và lời ca. Sự thăng hoa ấy cứ dần tiến theo diễn biến của âm nhạc. Đồng thời nó làm cho người nghe có những câu hỏi vô hình trong vô thức để tâm can cứ đòi mãi, đòi mãi được thưởng thức giai điệu ấy. Về mặt học thuật, ông cho rằng sự diễn tiến trong âm nhạc làm cho ngôn ngữ của âm nhạc (âm thanh) phát triển không ngừng. Sự phát triển ấy thông qua sự kết hợp Đông-Tây, sự vận hành các âm hưởng và tạo cho âm nhạc một sức sống vĩnh cửu.

Sự phát triển trong Minh Họa Kiều chứng minh sự tinh tế trong cảm nhận và tài hoa của chính Phạm Duy. Truyện Kiều mãi mãi là tác phẩm kinh điển trong văn học và với Phạm Duy, Minh Họa Kiều lại là một tác phẩm của thời đại. Ông đã phủ lên nó cái mới của thời hiện đại với những giai điệu mang tinh hoa của cả nhân lọai trên nền tảng sự thẩm âm của dân tộc Việt Nam.

Ông nhờ tôi chuyển lời cảm ơn đến tác giả vì đã cho Ông cái nhìn mới về sự phát triển và về tâm hồn Việt qua âm nhạc.

Khúc Chiêu Quân

Trong Minh Họa Kiều, tôi thật sự hứng thú và tâm đắc với đọan Hán Sở Chiến Trường. Thế mà khi nghe CD Kiều II, người giáo sư già lại kêu lên vì giai điệu và tiếng hát ai óan trong Chiêu Quân Cống Hồ.

Ông nói : ”… ở đó khả năng phối khí và sử dụng nhạc cụ đạt đến mức cực chuẩn. Ông nghe thấy tiếng gió của sa mạc, tiếng lạc đà lóc cóc trên cát và tiếng gió vi vu, hòa lẫn tiếng nghẹn ngào ai óan của người con gái bạc mệnh. Nhạc khí hiện đại cứ ngân nga và nhạc khí phương Đông cứ réo rắt não nuột trong đó âm hưởng lại có chút gì của nhạc khí của các dân tộc di cư tại vùng sa mạc châu Á. Sự nhắc lại của giai điệu trong đọan này nghe như những nỗi đau và những nhát cắt trong giai điệu, làm cho đọan trích thêm phần xót xa… Cứ thử nghe vài đọan trong Hồ Thiên Nga của Schaikoky, sẽ thấy tác dụng của những giai đọan lặp lại nỗi đau của nhân vật.

Vậy là tôi chứng kiến và nghe thật nhiều, còn nhiều điều tôi không nhớ hết, vì có những từ ngữ tôi chưa hiểu hết. Hãy cho tôi thời gian để tìm hiểu những đánh giá của các dân tộc khác về nhạc Phạm Duy.

Truyện Một Bà Cụ
Hát Nhạc Phạm Duy

Tôi có thân với một bà cụ, một con người trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, bà là mẫu người tuyệt vời của cách mạng vô sản, trung thành tuyệt đối một cách không ái ngại gì cho lý tưởng cách mạng. Tôi biết Phạm Duy tham gia nhiều vào cuộc trường chinh kháng Pháp. Ông có nhiều tác phẩm phục vụ cho giai đọan này. Thế nhưng sau khi về thành 1950, nhạc của ông sau này được xếp vài lọai nhạc “đen” cần ngăn chăn trước công chúng. Nhiều người chưa biết Phạm Duy, trong đó có cả bà cụ tôi kính mến.
Một hôm, nằm đọc sách trong một căn hộ ở tầng 4 trên phố Nguyên Hồng, Hà Nội… tôi nghe văng vẳng tiếng bà cụ hát :
“ Mẹ già tưới nước trồng khoai, nghe tin xóm làng kêu gào …”
Tôi giật mình nhổm dậy, mừng quá vì bà cụ thuộc cả nhạc của người mà tôi muôn vàn kính mến. Tôi hỏi ngay : Bà có biết đó là bài hát gì không ? Của ai ? Bà trả lời : bài Bà Mẹ Gio Linh, còn của ai thì bà không biết, bà kể cho tôi nghe nội dung của bài hát cứ như thể tôi không thuộc. Bà mừng rỡ vì tôi yêu thích nhạc kháng chiến. Tôi thì mừng vì bà thuộc nhạc PD, lọai nhạc mà nhiều người muốn ngăn cản.

Lúc đó tôi mới càng hiều và khâm phuc PD vì nhạc của ông đã thấm vào hồn của nhiều thế hệ một cách mặc nhiên. Thế cho nên tôi mới hiểu : chân lý luôn là chân lý, giá trị đích thực của nghệ thuật, cho dù gặp sóng gió nhưng nó mãi sống mạnh mẽ trong lòng người dân một cách ngẫu nhiên như thể nó là... chân lý.

Sự phát triển của ngôn ngữ
trong lời ca của âm nhạc Phạm Duy

Âm nhạc không phải chỉ đơn thuần là phương tiện giải trí của con người, nó là một công cụ giao tiếp và giáo dục con người. Âm nhạc là công cụ gọt dũa tâm hồn con người và nâng con người đến chỗ hòan mỹ của tâm hồn. Trong đó có việc nâng cao và hòan thiện ngôn ngữ của dân tộc. Nhìn vào ngôn ngữ của một dòng nhạc nào đó người ta có thể biết ngay giá trị của dòng nhạc đó, biết ngay trình độ thẩm âm và trình độ của người nhạc sỹ.
Đau lòng khi nhìn về các tác phẩm âm nhạc hiện nay. Với những lời ca nghèo về ngôn từ, kém về diễn tình trong ngôn ngữ. Người ta thật lạ lùng khi có những ngôn ngữ vô cảm trong nhiều nhạc phẩm như : “tình yêu đến em không mong đợi, tình yêu đi em không hối tiếc”; con người cũng thật bàng hòang khi người thiếu nữ Việt Nam lại van xin : “cho em một lần một lần thôi” một cách thô bỉ và đầy dục tính. Trình độ là vậy đó.
Người ta phải tìm lại những giá trị mà những nhạc sỹ trước đây đã xây dựng và thấy ngạc nhiên khi gần một thế kỷ trước PD đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của ngôn ngữ Việt Nam. Những lời ca tưởng như đơn giản nhưng nhìn qua lăng kính của ngôn ngữ hoc thì nó làm đẹp hơn ngôn ngữ của dân tộc. Việc dụng ngữ có chủ ý và có sự chọn lọc trên cơ sở của những cảm nhận thật của tác giả về cuộc sống, về quê hương đã đem đến những lời ca tuyệt tác. Tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh “dãy Trường Sơn ẩn bóng hòang hôn” và lời ca đó đã đẩy tôi phải thực hiện một hành trình theo con đường cái quan của PD. Tôi rợn người và đầy tự hào khi hát lên đọan nhạc “núi rừng cao miền bắc lửa thiêng” chỉ một câu hát đã gột tả được vị thế của miền Bắc với những hùng thiêng lịch sử bốn ngàn năm.
Nghe bản TÌNH CA, người ta thuộc mãi câu hát “Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi, thóat ngàn năm thành tiếng lòng tôi” ngôn ngữ của ông không cầu kỳ, nhưng cũng không tùy tiện, người ta khó có thể bớt đi hay thêm một từ nào vào trong ca từ PD. Vì nó đã đạt đến mức nhuần nhuyễn. Đồng thời, ông không sử dụng cách diễn đạt bình dân, sự diễn đạt của ông có sự sáng tạo và vận dụng kết cấu câu chữ của nghệ thuật âm nhạc nên nó cô đọng và đầy sáng tạo. Người nghe chỉ biết mình bị cuốn vào ngôn ngữ và thuộc nó mà không thể thay thế hay không cần phải diễn giải mà chỉ cần hát lên thế là mọi người hiểu thấu đáo cái mà ông muốn nói. Thế là đã đủ cho một nhà văn hóa lớn trong việc phát triển ngôn ngữ.
Trở lại với chuyến đi trên con đường cái quan của tôi sau chuyến đi của PD đến hơn 50 năm. Có lẽ đã thay đổi nhiều trên con đường ấy. Nhưng tôi thật sự khâm phục ông khi ông tả về cảnh vật của quê hươngmột cách tài tình như vậy. Sự diễn tả bằng âm nhạc với ngôn ngữ chuẫn đến mức mà tôi chỉ biết hát lên những câu hát của ông cho bạn tôi nghe mà không cần phải tả lại cái đẹp vì trong giai điệu và ca từ của PD đã tả dùm tôi rồi. Tôi đi đến Ải Chi Lăng, đi đến Chí Linh với những âm vang lịch sử của Trần Quốc Tuấn và Văn Thần Nguyễn Trãi mới hiểu rõ được cái lửa thiêng trong sông núi Việt Nam mà PD tả cho tôi nghe. Tôi lặng người khi nhìn ráng trời trong dải Trường Sơn ẩn bóng hòang hôn và lặng nghe tiếng mẹ Việt Nam trong ca từ PD. Cái đẹp và sự đóng góp ấy chính là giá trị của PD trong nền văn hóa Việt Nam.
Ngôn ngữ mang tính hàn lâm ấy không xa cách con người. Có những dòng nhạc người ta khó thuộc và khó nhớ. Khó có ai có thể thuộc trọn vẹn 20 bài hát của Trịnh Công Sơn một cách đúng nhất. Thế nhưng có những bà mẹ quê mù chũ lại thuộc cả trăm bài hát của PD và hát say sưa. Từ khi còn thơ ấu, lúc chửa đi học tôi đã thuộc lòng bài “ai bảo chăn trâu là khổ….” Thế đấy, âm nhạc và lời ca sẽ chỉ sống được khi con người truyền tụng nó, nó không thể tồn tại vĩnh hằng khi con người chỉ biết qua những tập nhạc in. Đồng thời nó cũng chỉ phát huy tác dụng cho sự phát triển của ngôn ngữ khi nó được công chúng thừa nhận và vận dụng. Và cho dù ai có ngăn cản sự sống của nó nhưng công chúng thuộc và hát nó thi nó vẫn sống và thậm chí còn sống mạnh mẽ không ngờ. Nhạc và lời ca của PD là thế.
Nói đến ngôn ngữ trong âm nhạc Phạm Duy phải nói đến điểm xuất phát trong sự nghiệp sáng tác của ông. Cả đời ông xưng tụng cái đẹp và cái tuyệt vời vốn đã tồn tại trong lịch sử, trong con người và trong âm nhạc của dân tộc Việt nam. Ngôn ngữ của ông cũng vậy, ông dụng ngữ từ những kho tàng dân gian vốn có, từ những câu ca dao đến những điển tích được dân gian truyền tụng “Treo lên cây bưởi hái hoa, bước ra vườn cà hái nụ tầm xuân”, hay “Hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại nghe em than đôi lời.” Từ những vốn liếng qúy báu ấy, Phạm Duy đưa giai điệu ngũ cung với sự am hiểu tận tường những dấu nhấn âm nhạc của kiến thức nhạc học hiện đại để làm cho những câu ca dân gian ấy có hồn của thời đại. Và vì thế ông đã làm đẹp hơn cái đã có trong dân tộc mà nhiều người gọi là dân ca Phạm Duy. Sự kết hợp giữa tinh hoa của dân tộc và kiến thức âm nhạc hiện đại đã làm giàu hơn giai điệu trong ngôn ngữ của dân tộc, đã làm cho âm nhạc Phạm Duy đến với mọi miền, mọi giới và mọi trình độ. Đây mới thực là giá trị cao quý của âm nhạc đạt được trong con người Phạm Duy bởi lẽ âm nhạc chỉ sống được khi được truyền tụng trong dân chúng, còn nếu nó chỉ tồn tại ở những tập nhạc được in sẵn mà chẳng ai hát, chẳng ai nghe thì làm gì gọi là sống… Nhạc Phạm Duy đã tồn tại trong đáy lòng của mọi người cho dù có nhiều ngăn chặn.
Phạm Duy cho rằng, sự tồn tại của một dân tộc trước hết là sự tồn tại của ngôn ngữ của dân tộc ấy. Sự khai sinh của dân tộc và khẳng định sự độc lập cũng chính là sự hình thành nên ngôn ngữ, vì thế ông mới thốt lên “tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã ngược suôi, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi…” (Tình ca). Nhưng với ông, hình như sự tồn tại của ngôn ngữ không chỉ là sự lưu giữ cái đã có mà là sự phát triển và làm đẹp thêm ngôn ngữ đó. Ông làm đẹp nó bằng những sáng tạo trong câu hát, trong lời ca, sự sáng tạo ấy không là sự lắp ghép một cách cơ học từ ngữ, mà là sự liên kết để vẽ ra những điều đang trăn trở trong tâm hồn và những cái đẹp đang được lưu giữ trong tim Phạm Duy. Trong báo VĂN, ông Trần Huy Thục đã tìm tính hiện thực trong câu ca của Phạm Duy. Thực ra đúng là Phạm Duy luôn tôn trọng hiện thực nhưng ông không trần trụi hoá hiện thực mà cũng biết nghệ thuật hóa hiện thực nhưng vẫn không làm mất đi giá trị của hiện thực. Hãy nghe :
Chiều buông trên giòng sông Cửu Long, như một cơn ước mong ơi chiều.
Về đâu ơi hàng cây gỗ rong nghiêng mình trên sóng sâu yêu kiều…..
Hiện thực của dòng sông đã được thi vị hóa bởi những ước mong, bởi những nét yêu kiều của hiện thực được phản ánh dưới ánh mắt của người ca nhân. Thế là đẹp quá cho ngôn ngữ. Cái hiện thực của nhạc Phạm Duy được ông lý giải “bởi vì đời còn nhiều khi là mơ”nhưng lại “nhiều khi thành thơ” nên mới có những “tiếng ca cho đời thêm buồn… và cho lòng thôi khô héo”. Nghe lai nhiều bài nhạc bất tử của Văn Cao, Đòan Chuẩn, Từ Linh chúng ta có thể nhìn ra được sự thăng hoa trong câu ca đến mức nó trở thành thơ phổ nhạc thóat tục. Nếu đã thóat tục thì lại khó gắn với với trần gian mà chỉ gắn với tâm hồn khi muốn thóat tục. Và vì thế giá trị của ngôn ngữ không thể phát huy trọn vẹn tác dụng đối với những yêu cầu phát triển tiếng nói của dân tộc vì nó chỉ được dùng ít khi trong đời sống.
Quay lại với ngôn ngữ Phạm Duy, tiếng ca từ hiện thực nên nó gắn hiện thực, nó gắn với đời sống của những bà mẹ quê. em bé quê và vợ chồng quê. Chúng ta dễ dàng tìm thấy thật nhiều hình ảnh đàn trâu trong những tác phẩm của Phạm Duy, nhưng đàn trâu trong nhạc Phạm Duy cũng không đơn điệu. Ông không chỉ tả đàn trâu mà ông đang tả đời sống của làng quê yên bình và ấm áp qua hình ảnh lũ trâu, ví dụ :
“Ngày trở về có anh nông phu chống lạng cày bừa, vì thương yêu anh nên ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…”
hay :
“Đàn trẻ đùa bên lũ trâu, tiếng hát người xưa thóang trên bãi dâu.”
Còn nữa :
Xa xa vài ngọn tre thấp thóang vài con nghé tiếng nước dưới chân đê (Kỷ Niệm)
Tính hiện thực ấy đã được thi vị hóa nên nó không còn là sự miêu tả đơn giản và máy móc mà là sự miêu tả dưới cái nhìn của âm nhạc. vì thế nó dễ sống trong lòng người dân. Và nó không tạo sự trần trụi trong ngôn ngữ. Sự kết hợp đầy sáng tạo ấy đã làm cho ngôn ngữ đẹp hơn trong ý nghĩa và linh họat hơn trong cách sử dụng. Vì thế người ta thấy Phạm Duy không “đóng băng ngôn ngữ” và cũng không “trừu tượng hóa” ngôn ngữ, ông đã làm cho ngôn ngữ Việt Nam có sức sống của chính sự vận động trong trí tuệ và tâm hồn của mình.

Điều mà nhiều người đã nói tới khi nghiên cứu về những đóng góp của Phạm Duy cho âm nhạc và văn hóa chính là sự miêu tả cái đẹp của dân tộc bằng âm nhạc. Phạm Duy rất đặc biệt ở chỗ ông không đồng nghĩa dân tộc và lãnh tụ, ông không cho rằng cái đẹp của dân tộc chính từ cái đẹp của lãnh tụ, và vì thế khó mà tìm ra được một tác phẩm chỉ viết về một con người lãnh tụ cụ thể nào. Ông tìm đến cái đẹp của đất nước qua những vẻ đẹp dung dị của thiên nhiên Việt Nam gấm vóc “ngàn dặm” và của con người chân chất mộc mạc. Đã có lần tôi nói rằng Phạm Duy không tả người môi son má phấn lòe lọet mà lại đi ca ngợi những bà mẹ quê, những lão nông phu mình đồng da sắt, những em bé quê “chăn trâu sướng lắm chứ ”. Cái đẹp trong ngôn ngữ mà Pham Duy đem đến là nghệ thuật miêu tả con người. Ông tả thực về con người đến mức chỉ cần nghe qua giai điệu người ta hình dung ngay ông nói ai và người đó như thế nào. Nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc sỹ tài hoa họ Trịnh tả con người… nhưng nghe mãi vẫn chưa biết người ấy như thế nào.

Ví dụ : “Gọi nắng cho tóc em dài cài hoa nắng bay, cho tay em dài gầy thêm nắng mai…”
“Người con gái việt nam da vàng yêu quê hương như yêu đồng lúa chín…”
Ai biết được cô gái có đôi tay dài gầy thêm nắng mai là lọai bàn tay như thế nào, không biết người con gái mà da vàng thì đáng yêu hay đáng thương ? Chúng tôi không dám nói rằng điều đó là hay hay dở, vì yếu tố nghệ thuật trong sử dụng ngôn ngữ của TCS đặt vấn đề trừu tượng hóa quá rõ, điều này cũng có giá trị của nó, nhưng cũng chỉ dừng lại cho sự thỏa mãn ngôn ngữ tức thời trong thời khắc nhất định mà không thực sự làm cho quá trình sử dụng ngôn ngữ của người Việt được phát triển.
Nghe Phạm Duy tả về con người Việt Nam :

Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu mình đồng da sắt không phai màu… Tấm áo nâu ! Những mẹ quê chỉ biết cần lao, những trẻ quê bạn với đàn trâu… (Tình Ca)

hay

Chàng là thanh niên, mạch sống khơi trên luống cày. Nói năng hiền lành như lúa với khoai. Nàng là con gái nết na… Nước da đen ròn…

Nét đẹp của con người Việt Nam hiện lên với những đường nét mạh nhưng rất đỗi dịu dàng. Ông phối màu trong bức tranh con người rất tài hoa, người nông phu với mình đồng da sắt, người ta nghe mà hình dung ra ngay một ông nông dân với những đường nét gân guốc, kiên cường đang trụ vững cho sức sống của một đất nước, người ta mường tượng được ngay sự mạnh mẽ và chân chất của người chồng quê nơi âm nhạc Phạm Duy. Cái đẹp mà Phạm Duy phác họa nơi con người Việt Nam xuất phát từ những điều dung dị nhất của dân tộc, từ tấm áo nâu, từ nước da đen dòn thấm đẫm mồ hôi nhọc nhằn nhưng thật cao cả của mẹ quê và của vợ quê.

Trong thơ ca, nhiều thi sĩ ca ngợi hàm răng đen của những cô gái, mẹ quê thay vì khen ngơi sự trắng lóa của những hàm răng hiện đại… Những cô hàng xén răng đen cười như mùa thu tỏa nắng (Bên Kia Sông Đuống, Hòang Cầm) Net cười đen nhánh sau tay áo, trong nắng trưa hè trước dậu thưa (Nắng Mới, Lưu Trọng Lư)

Đến đây dường như tôi hiểu tại sao Phạm Duy lại đem cái đẹp, cái đáng yêu nhưng bình thường và chân chất vào nhạc của mình, vì trong hồn ông, trong tâm trí ông và trái tim ông luôn thấm đẫm quốc hồn quốc túy của Dân Tộc. Nhưng ông không miêu tả người dân bình thường và nghèo nàn ấy một cách trần trụi với cái vốn có của họ mà ông đã nhìn được tận cùng trong cái dung dị ấy là sự cao cả và tươi đẹp trong chính họ. Ông thấy được cái vững vàng và hùng tráng trên đồi chân mộc mạc và gầy guộc của bác nông phu mình đồng da sắt, ông họa nên sự bền bỉ trong tấm áo nâu quê mùa, thiếu thốn của mẹ quê khi dám “rướn mình đi từ cõi rừng sâu” và cũng ca ngợi cái đẹp tuy không mỹ miều nhưng nồng ấm của nước da đen dòn trên khuôn mặt của người vợ quê. Nghệ thuật miêu tả thực mà đầy chất thơ ấy đặt ra cho âm nhạc một con đường đi đúng và giá trị bởi lẽ sự miêu tả mà thóat thực thì sẽ trở thành mơ mộng hão huyền và có khi lại là sự trốn tránh thực tế. Những nếu miêu tả mà thực đến mức trần trụi thì lại có khi là sự bôi bác và mỉa mai chính dân tộc mình. Điều này cho thấy chân giá trị của nghệ thuật là đem đến cho ngôn ngữ học những tiền lệ dụng ngữ sáng tạo nhưng không mất đi cái gốc của dân tộc. Phạm Duy đóng góp vô cùng to lớn ở điểm này.
Một trong những giá trị và đóng góp của nghệ thuật đối với sự tồn tại và phát triển của tiếng nói dân tộc là khả năng ứng dụng của tiếng nói phát triển không ngừng. Điều này được thể hiện nhiều thông qua sự miêu tả đời sống và cảnh vật chung quanh con người. Trong âm nhạc cũng có giá trị này, và giá trị ấy thể hiện rõ ràng hơn đối với những tác phẩm viết về cảnh vật quê hương nơi mà con người (trong đó có tác giả) đã sống và đã đi qua.

Trong gia tài Tân Nhạc Việt nam gần một thế kỷ, đã có thật nhiều tác phẩm viết về những địa danh hoặc những cảnh vật của Việt Nam, có nhiều tác phẩm đã có sức sống vượt thời gian. Mỗi một tác giả có những cống hiến ở những mức độ khác nhau về đề tài này. Phạm Duy có những đóng góp đặc biệt. Nhìn dưới góc độ ngôn ngữ, việc dụng ngữ để miêu tả luôn đòi hỏi người nhạc sỹ phải tuân thủ nhiều yêu cầu khắt khe trong việc tả cảnh :
Thứ nhất, phải đảm bảo những cảnh vật của mình là hiện thực (có thật). Thứ hai, cảnh vật ấy phải là biểu trưng cho nơi mình đến, để khi nghe hoặc hát lên người ta biết ngay và hình dung ngay cảnh vật được nói và nơi được miêu tả. Thứ ba, ngôn ngữ phải cô đọng và không dài dòng, bởi lẽ nếu dài dòng tác phẩm sẽ trở thành một “trường ca” kể lể nhàm tai người nghe. Có nhiều nhạc sỹ có tiếng đã không đáp ứng được yêu cầu này, nên khi tác phẩm ra đời, có thể có người thích nhưng nó không thật, làm cho người nghe cứ tưởng tượng về nơi mà tác giả đang diễn tả đôi khi tưởng tượng đến mệt cả người.

Ví dụ, trong tác phẩm Nhớ Mùa Thu Hà Nội của TCS, ông viết :

Hà nội mùa thu, cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ
Hồ tây chiều thu mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Hàng cây thương nhớ bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời

Nghe qua người ta thấy hay hay, nhưng đến Hà Nội mà tìm cho ra một cây bàng lá đỏ là điều hơi khó, và có lẽ bầy sâm cầm mà ông nói đến đã tuyệt chủng từ lâu rồi. Vậy thì Hà Nội của TCS có còn là Hà Nội ngày nay hay là Hà Nội của thời xưa?

Một ví dụ về sự vô lý trong miêu tả, bài hát Chảy Đi Sông Ơi của PĐP có đọan :

Chảy đi sông ơi, chảy đi sông ơi
Ôi con sông chảy mãi muôn đời…

Không để ý đến sự nghèo nàn trong ý tưởng mà chỉ nói đến sự diễn tả một con sông thì lời ca này vô nghĩa và thừa thãi, bởi lẽ sông nào mà chẳng chảy, chẳng cần phải giục giã mà sông vẫn chảy vì nếu sông không chẩy thì chẳng ai gọi nó là sông mà phải gọi là ao hay hồ hoặc có khi là vũng nước. Con sông nó sống được ở chỗ nó luôn chảy. Nghe nhạc PD, thấy mọi con sông của ông lúc nào cũng phải chảy vì nó… là con sông, chỉ có điều nó chảy nhanh hay chậm, ví dụ “Về đâu ơi hàng cây gỗ rong….” Chỉ cần miêu tả về hàng cây người ta biết sông đang chảy, hay “Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn nước tuôn trên đồng vuông vắn…”

Trở lại với nghệ thuật tả cảnh của PD, cảnh vật trong âm nhạc PD luôn có thật, thật đến mức nó có cả hình ảnh, cả mùi vị, cả hương sắc trong tác phẩm. Bức tranh ông vẽ đầy đủ và hài hòa, đơn sơ mà đậm đà. Ông hát về đồng quê miền bắc với :

Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
… tôi nghe tiếng còi tàu
Tôi đi giữa đường quê
Hai bên là đống lúa
Xa xa vài ngọn tre
Thấp thóang vài con nghé
Tiếngn ước dưới chân đê
Tôi mê trời mây tía… (Kỷ Niệm)

Hay

Quê hương tôi
Có con đê dài xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng
Trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê…

Nghe câu hát, một bức tranh hiện ra rõ ràng trong tiềm thức và trong tim người nghe, không hề có một sự tưởng tưởng vô căn cứ. Bức tranh ấy có không gian với chiều cao (trăng lên bằng ngọn cau) có chiều dài của không gian (đi giữa đường đê dài) và cũng có chiều rộng (hai bên là đồng lúa) thế là không gian ba chiều được phác họa lên rõ nét trong âm nhạc một cách tài tình. Rồi PD tô điểm cho bức tranh ấy bằng những hàng tre, những mảnh ruộng nho nhỏ quen thuộc, và những đàn trâu, cuối cùng là sức sống của con người. Bức tranh âm nhạc ấy đầy đủ màu sắc tự nhiên, đầy đủ âm thanh vang vọng đơn giản mà gần gũi “tiếng nước dưới chân đê”, “tiếng còi tàu xa xa”… những hình ảnh đặc trưng của quê hương được PD cảm nhận và thuộc lòng đến mức ông thốt ra lời mà như vẽ ra một bức tranh sống động, bức tranh ấy có cả mùi vị thật sự vì khi nghe hay khi hát lên câu “tôi đi giữa đường đê, hai bên là hương lúa, xa xa vài ngọn tre…” thì dường như ai cũng tưởng như đang ngửi thấy và hình như xung quanh họ đang tràn ngập mùi hương lúa, hương mạ của miền quê ấm áp, bởi vì “trời về đêm vẳng tiếng lúa đê mê”…

Sự miêu tả rất hiện thực và gắn liền với tình cảm của nhạc sĩ và của người nghe, nếu như tình cảm ấy chỉ là của người nhạc sỹ thì chắn chắn người hát và người nghe chỉ hát hộ và nghe cho biết, còn nếu tình cảm mà tác gỉa gửi gắm trong sự miêu tả hiện thực cũng là tình cảm hoặc gợi lên cho người hát và người nghe tình cảm của mình thì người hát hát cho chính họ và tác phẩm sẽ là nơi nói hộ cho người nghe cảm giác của chính họ mà người nghe biết nhưng chưa thể gọi tên. Nhạc Phạm Duy đã làm được cái điều tưởng là rất khó ấy.

Đêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em ân cần rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương từ đồng xa
Bỗng quay về ngào ngát trên hè, ngòai đường khuya
Trời đêm sao yên vui người đi quen lối…

Lời ca vừa miêu tả, vừa nói lên cảm giác của con người trước sự thanh bình của đời sống thật, chân chất quê và đầm ấm tình người. Người Việt nếu đã từng có một ngày, một giờ ở vùng quê Việt Nam, thì ai cũng có cảm giác tuyệt vời ấy. Nghe nhạc phẩm Dạ Lai Hương, người ta nghe được cảm giác của chính mình và hồi tưởng những cảm giác của chính mình, những khát khao thật của mình về cuộc sống êm đềm của quê hương. Tình cảm ấy không chỉ là của riêng PD, không chỉ là của riêng tôi mà của những người yêu sự thanh bình trong tâm hồn.

Yêu cầu thứ ba của sự miêu tả là sự ngắn gọn trong ngôn ngữ, ngắn gọn không có nghĩa là tiết kiệm, PD sử dụng từ ngữ chính xác đến mức nghe lời ca mà người ta hình dung ngay được cảnh vật mà ông muốn nói, khó có thể tìm được một câu thừa trong nhạc PD. Như ông Trần Huy Thục đã viết, Phạm Duy tả cảnh thực và hợp lý vô cùng, trong bài Ngày Trở Về. Ông tả cảnh vật theo thứ tự mà người chiến binh gặp khi quay về, không thể gặp bà mẹ mù trước khi nhìn thấy rặng tre, và cũng không thể nhìn thấy rặng tre nếu không bước đi trên quãng đường đê. Sự hợp lý làm cho bức tranh cũng hợp lý và thấm đẫm tình người. Nếu ông xoay cái cảnh vật khác đi một chút thì tôi chắc chắn cái tình mà ông truyền tải cũng khác hẳn. Ví dụ : trong bài Bà Mẹ Gio Linh, khi bà me đi lấy đầu con, nếu ông chỉ cần cho một người nào đó xuất hiện ở đầu đường thì chắn chắn sự bi thương sẽ giảm đi rất nhiều và bản anh hùng ca cũng sẽ bớt đi tính anh hùng nơi bà mẹ già huyện Gio Linh. PD đã tả như sau :

Mẹ già không nói một câu đem khăn gối đi lầy đầu
Chiều về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa reo… hò oi hò
Tay nâng nâng lên
Rơm rớm nước mắt đầy
Mẹ nhìn đầu con
Tóc trắng phất phơ bay

Sự vắng lặng của con người trong cảnh vật làm cho bức tranh chỉ còn một mẹ già với cái đầu con trên tay, và đâu đó âm thanh buồn bã và hoang phế của tiếng chuông chiều vang lên đánh thức tận tâm can người nghe sự rùng rợn của cái chết và của sự anh hùng nơi hai nhân vật là bà mẹ và người con chỉ còn cái đầu. Nếu giảm đi sự thảm khốc của cái vắng lặng bằng việc cho một người nào đó thậm chí một con vật nào đó chắc chắn tính bi hùng trong tác phẩm giảm đi ngay lập tức. Và nếu tiếng chuông chiều mà đổ trước khi bà mẹ lấy được đầu con hay tóc bạc trắng mà bay trước khi bà mẹ đưa cái đầu khủng khiếp nhưng oai hùng lên ngắm nhìn thì chắc chắn nỗi đau của bà mẹ sẽ không thể được người nghe cảm nhận đúng thực như nó vốn có. Tài của PD trong tả người tả cảnh là thế, và đóng góp của ông với sự phát triển trong dụng ngữ miêu tả nói riêng và sự phát triển tiếng nói của dân tộc là rất lớn.
Càng nghiên cứu càng thấy cái mênh mông và tài tình của sự sáng tạo trong âm nhạc PD.

Sức sống của cái chết
trong âm nhạc Phạm Duy

Khi nói đến và nghiên cứu về tư tưởng của PD, người ta nhắc đến nhiều điều vĩ đại như : lịch sử, tổ quốc, chiến tranh, hòa bình, tình yêu nhiều lọai, tâm linh v.v… Và còn một lĩnh vực nữa mang đầy tính triết lý sống, đó là cái chết.
Triết học của con người trong sự tồn tại của xã hội cũng chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề cơ bản nhất trong đó có cái chết. Ở Việt Nam, nhiều nhạc sỹ của nền Tân Nhạc đã đề cập đến điều này và dường như cái chết đối với họ được nhìn nhân hoặc như sự chấm hết hoặc như sự giải thóat : ví dụ : sống để chờ xem có chết không (NĐT) hoặc Ô hay tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hòai (VTA). Với Phạm Duy, Ông nhìn cái chết từ sự sống và nhìn dưới nhiều góc độ, vì vậy cái chết của Ông có được một sự sống kỳ lạ và đa màu sắc. Giống như phúc âm đem đến cho lòai người sự sống sau cái chết thì ở nhạc Phạm Duy cái chết nhìn thật đẹp và từ đó người ta tìm được ý nghĩa của sự sống.

Cái chết mở đầu bằng sự kết thúc cuộc sống hiện tại, “tim vang còn giây lát, hơi run còn thơm ngát …” sự kết thúc ấy không hề đem đến cho người chết một cảm giác sợ hãi, chúng ta không nghe được sự run sợ cái chết trong giai điệu này mà lại nghe sự thưởng thức sự sống còn lại thấy đẹp thấy thú vị. Lúc ấy có lẽ con người đang trằn trọc với những nỗi đau thể xác để “chấm hết” cái sống, thế mà PD lại thưởng thức những gì đẹp còn lại. Vì thế mà mặc dù bao nhiều eo sèo, gian dối và những sự lọc lừa của con người và cuộc đời, ông chỉ coi đó như “dăm eo sèo nhân thế… đôi ba lần gian dối” và như thế, ông mới yêu cuộc sống biết bao. Yêu cuộc sống, dù chết ông vẫn dâng cho đời “cây đàn, thậm chí là nấm mộ thô sơ” thế thì cuộc đời đối với nhạc Phạm Duy đâu có hết ? Cái chết đâu có khốn cùng ? Nó đem lại cho con người mốt ý nghĩa thật sự to lớn là “cảm nhận đúng về sự sống” điều này chính là sự sống trong cái chết. Ông không tuyên truyền cho bất kỳ một chủ nghĩa chính trị nào, Ông chỉ tuyên truyền mãi mãi một chân lý nhân bản, thậm chí chân lý ấy vẫn còn được ca tụng khi cái chết đến đầu giường. Vì thế có thể thấy cái chết trong nhạc Phạm Duy bắt đầu bằng cái nhìn của sự sống và cũng vì thể, PD chết rồi nhưng còn “vấn vương trong chiều tà”.

Cái chết có là chấm hết không ? Có lẽ nhiều người, nhiều nhà tư tưởng và nhiều nhạc sỹ thậm chí có cả những họa sỹ khi diễn tả về cái chết thường rơi vào trạng thái bi quan và coi đó như sự chấm hết một sự sống của con người. Phạm Duy coi đó như một cánh cửa mở ra một hành trình mới và vì vậy mới có “những gì đem theo vào cái chết”. Ông tự hỏi “rồi mai đây tôi sẽ chết tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây ?” nhưng đó không phải là câu tự hỏi mà là câu hỏi dùm cho mọi người vì ai mà chảng hỏi điều đó cho mình khi nghĩ về cái tưởng chấm hết đó. Hỏi rồi lại trả lời với những triết lý vùa đẹp lại vừa lạ. Những đam mê của cuộc sống trần tục luôn đẩy đưa con người đến với những thèm muốn trần tục, những cái tưởng chừng như vĩnh cửu thế mà PD lại nhìn nó thật hạn hữu. Ai chẳng thèm muốn “tiếng anh hùng”. Với PD điều đó cũng phải có giới hạn, như giới hạn của chính người anh hùng vì vậy cái chết cũng sẽ là dấu chấm hết của cái anh hùng, của tiền tài của danh vọng của khát khao thân xác con người. Cái con người đem theo được trong hành trình ấy lại là “đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời” “tình yêu đúng nghĩa của nó”. Lạ quá, tất cả để lại cho con người và thế gian, chỉ còn lại trong mình sau cái chết là những điều thật giản đơn và thật đẹp.

Ông không dùng những câu nói sáo rỗng với những lời “đạo lý” truyền giáo. Mà ông dùng giai điệu và những câu tự sự cho chính mình để người nghe tự hiểu, tự tìm kiếm tư tưởng trong chính câu trả lời của bản thân đang vang vọng trong tiềm thức của từng người.

Cái chết và sự sống nó có một mối tương xuyên mật thiết, nhận thức điều đó một cách rõ nét nên PD không hề tuyên truyền con người lẩn tránh cuộc sống. Ông sống một cách say mê và khao khát cuộc sống cho nên “Chủ nhật nào tôi im hơi… hồn lìa rồi, tình còn nồng đôi con ngươi, mắt vẫn cười …” nếu không yêu cuộc sống và khát khao cuộc sống thì làm gì con người còn nồng nàn tình yêu đến thế. Ông không rao giảng con người phải thóat tục, nhưng ông cũng không trần tục hóa cuộc sống. Điều tưởng chừng mâu thuẫn này lại được giải quyết hết sức triết lý trong tư tưởng PD. Đời sống phải chết nhưng cái chết không hết mà nó mở ra một hành trình mới. Trong hành trình ấy sẽ có cái chúng ta đem theo được và có cái chúng ta không thể đem theo, vì vậy ông kêu gọi mọi người phải sống cho xứng đáng với nhân bản của con người. “Chắp tay lại người cho xin nụ cười . . . Tâm là đảo quý giữa biển luân hồi” … chỉ khi sống với điều nhân bản ấy thì sự vĩnh hằng của con người mới hiển hiện và lúc đó “đâu không là phật đâu chẳng là trời … xin mở lòng ra cho trời đất hiện “. Chỉ những điều nhân bản ấy mới còn tồn tại còn những gì chỉ là nhu cầu tức thời của cuộc sống thì ông không phủ nhận việc tìm kiếm nó nhưng ông không cổ vũ sự lạm dụng nó.

Trong giai điệu âm nhạc về cái chết, giai điệu nhac của Ông nhẹ nhàng như những dòng suối mơ và êm ái như tiếng sáo thiên thai. Không hề buồn hay bi lụy trong giai điệu, giai điệu trong những nhạc phẩm như : Tạ Ơn Đời, Những Gì Sẽ Đem Theo Về Cõi Chết, Bài Hát Nghìn Thu, Ru Người Hấp Hối, Nắng Chiều Rưc Rỡ. . .

Dường như đang mở ra một không gian rộng rãi và thóang đãng biết bao. Nó không có cái nặng nề của nhạc cổ điển nhưng cũng không đơn giản như những bản nhạc thời trang. Giai điệu ấy cứ đưa con người vào một không gian của sự hồi tưởng của chính tâm hồn mình và mở ra một khỏang sáng trong cuộc sống tương lai. Sự nhịp nhàng và êm ái ấy không thỏang qua tai mà thấm vào tận tâm hồn người nghe một cách ngẫu nhiên như cõi thiên thai. Giống như giọt mưa trên lá đem lại sự sống thì giai điệu trong các nhạc phẩm về cái chết đem đến cho con gnười cái nhìn về cái chết của sự sống hiện tại. Và cứ thế sức sống tuôn tràn từ giai điều lời ca để nói về cái chết… mà vẫn mãi sống với con người.


Nguyễn Ngọc Sơn
Saigon (August 2003)



PS : các bạn có thể vào đây để nghe rất nhiều bản nhạc nổi tiếng trong kho tàng hơn 900 sáng tác của Phạm Duy
http://dactrung.net/nhac/tacgia.aspx?TacGiaID=jXQ0YNDGv4m5Cm4Z76GOWA==
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Khoảng 5 năm trước, nhờ ông ngoại - anh biết đến một số nhạc phẩm của Phạm Duy, nhưng chỉ là nhạc hòa tấu guitar.
Hôm nay đọc bài viết (sưu tầm) của em, mới được giác ngộ cái hay, cái đáng nghe của nhạc Phạm Duy.
Phải công nhận, bài viết là sự tổng hợp khá chi tiết về tư tưởng, màu sắc và hành trình của âm nhạc Phạm Duy.

Sự miêu tả rất hiện thực và gắn liền với tình cảm của nhạc sĩ và của người nghe, nếu như tình cảm ấy chỉ là của người nhạc sỹ thì chắn chắn người hát và người nghe chỉ hát hộ và nghe cho biết, còn nếu tình cảm mà tác giả gửi gắm trong sự miêu tả hiện thực cũng là tình cảm hoặc gợi lên cho người hát và người nghe tình cảm của mình thì người hát hát cho chính họ và tác phẩm sẽ là nơi nói hộ cho người nghe cảm giác của chính họ mà người nghe biết nhưng chưa thể gọi tên.
Có những khi cảm xúc chỉ là chút cảm giác mơn man trong lòng mà chẳng thể nói ra cụ thể được, thế mà lại có những nhạc phẩm như nói lên được những điều khuất trong lòng mình thì mừng biết mấy.
Đọc tới nửa bài viết trên thì anh đã bắt đầu mở lại những bài em gửi và ngồi search thêm các tác phẩm có lời của Phạm Duy về nghe.
Đúng như ông giáo sư người Ukraina nói: "trong dòng nhạc này có âm hưởng của nhạc cổ điển Châu Âu, nhưng lại mang phong cách phương Đông rõ nét. Từng giai điệu và những điểm nhấn trong âm vực, âm hưởng đầy hoành tráng của nhạc cổ điển, vững chắc như những rừng cây nhưng thiết tha như những cơn gíó, điều này chỉ có trong nhạc cổ điển Châu Âu. Bên cạnh đó, cách luyến âm, chuyển đọan lại rõ nét âm nhạc của phương Đông…", đây là cảm giác anh đã có ở ngay lần đầu tiên nghe các tác phẩm hòa tấu ấy, âm hưởng nhạc phương Tây thì gờn gợn, mà cái miên man gần gũi mang âm hưởng phương Đông cũng rất rõ, có điều chỉ là cảm giác chứ chẳng thể tìm ra lời lẽ mà miêu tả rõ được.

Đọc bài viết và nghe thêm các nhạc phẩm của Phạm Duy, chợt thấy nhớ nhà da diết, muốn về quê, mặc dù quê nhà bây giờ có lẽ chẳng phải hình ảnh hiện lên trong âm nhạc Phạm Duy. Kì lạ thế đấy!

Ở bài viết trên, tác giả có đôi chỗ khẽ phê bình các nhạc sĩ hay thể loại nhạc khác, sau cùng là để đề cao cái tinh túy trong nhạc của Phạm Duy. Nhưng nhạc TCS trước sau vẫn là kho tàng đáng trân trọng, mang những ý nghĩa vượt quá khả năng diễn đạt của lời nói. Nên dù có đôi chỗ người ta bắt bẻ ngôn từ và hình ảnh trong nhạc của TCS thì cũng không thay đổi được cái nhìn của bao người về nhạc Trịnh. Điều cơ bản là qua đây, lại càng thấy được rõ hơn cái hay, cái đẹp trong nhạc của Phạm Duy.

Nhắc tới những lời ca nghe mộc mạc mà gợi hình của Phạm Duy:
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
… tôi nghe tiếng còi tàu
Tôi đi giữa đường quê
Hai bên là đống lúa
Xa xa vài ngọn tre
Thấp thóang vài con nghé
Tiếngn ước dưới chân đê
Tôi mê trời mây tía… (Kỷ Niệm)

Hay

Quê hương tôi
Có con đê dài xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng
Trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê…
anh chợt nghĩ đến thơ Haiku, một loại thơ của Nhật mang đậm chất Thiền. Cũng như tâm hồn của thơ Haiku, các ca từ của Phạm Duy "thực" tới mức khiến người nghe như đứng trước cảnh vật ấy, mà thấy cả không gian xung quanh.

Chẳng sống trong cảnh chiến tranh, chỉ biết chút ít qua phim ảnh, thế mà nghe đoạn
Mẹ già không nói một câu đem khăn gối đi lầy đầu
Chiều về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa reo… hò oi hò
Tay nâng nâng lên
Rơm rớm nước mắt đầy
Mẹ nhìn đầu con
Tóc trắng phất phơ bay
vẫn thấy rùng mình, tưởng tượng được là mình đang chứng kiến cảnh bà mẹ héo hắt ôm đầu con mình mang về.

Các hình ảnh mà Phạm Duy sử dụng trong sáng quá! những "anh nông phu", "đàn trẻ", rồi những em bé, những vì sao, chú Cuội (một đàn con trai rủ đàn con gái.. ra nghe chú Cuội ngồi gốc cây đa...) ... rồi nhiều nữa, toàn những hình ảnh gắn bó, không trực tiếp thì gián tiếp.

Hôm trước có cô bé khoe với anh là vừa nghe mấy bài của Phạm Duy thích lắm. Anh sẽ gửi link bài viết trên cho cô bé ấy ^^ (có thể là gửi cho cả ông ngoại nữa :D)

Cảm ơn Bách nhé!
 
Chỉnh sửa lần cuối:
công nhận là cảm thụ âm nhạc của anh cũng cực kỳ tinh tế và sâu sắc , lâu lắm rồi mới tìm được những người trẻ tuổi mà lại chia sẻ những sở thích và quan niệm về âm nhạc với em như anh nên em rất vui . Em mong là ngày càng có nhiều bạn trẻ sẽ nghe , sẽ hiểu và sẽ yêu nhạc của Phạm Duy , mà không chỉ có nhạc Phạm Duy đâu , còn biết bao nhạc sỹ cùng thời nữa cũng để lại cho đời những tác phẩm có giá trị , và anh có thể sẽ là một người có vai trò rất tích cực trong việc dẫn dắt , định hướng ...âm nhạc cho các bạn trẻ khác .


Nói về nhạc Phạm Duy thì có nhiều thể loại , trước tiên là nói về tình ca , thì trong những bài hòa tấu không lời em đã gửi cho anh hôm nọ, em thấy hay nhất là bài "Chiều về trên sông" . Chỉ là cảm xúc của ông khi đi trên dòng nước Cửu Long thôi , vậy mà sao , khi nghe vào ban đêm , em thấy có cả cảm hứng vũ trụ (!) ở trong đó nữa . Có cái gì đó huyền bí , quyến rũ lắm .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
ôi phức tạp quá .....

mấy cái cảm hững này mình vẫn thích nhạc Enya hơn :|
 
Anh đang tận dụng kho nhạc và thông tin về âm nhạc của em để mở rộng vốn kiến thức về âm nhạc Việt Nam mà, cảm ơn em nhiều lắm!
Nhưng dù sao, anh vẫn chỉ đang nghe nhạc cho chính mình, chứ không có xu hướng dẫn dắt ai cả, anh thấy cứ nên để mỗi người cứ chọn loại nhạc phù hợp với mình mà nghe, miễn sao cảm thấy thoải mái và không làm ảnh hưởng đến ai khác là được. Đời người cũng chẳng dài lắm đâu, nghe nhạc sau cũng vẫn chỉ là để giải trí để đỡ căng thẳng trong cuộc sống thôi mà. Khi chết thì cái cảm nhận âm nhạc cũng chẳng còn :D

Về bài "Chiều về trên sông", ban đầu anh như thấy một cái nhìn từ trên cao xuống mặt sông, có gió miên man và nước sông thì chảy chầm chậm; sau đó có cảm giác như người đang quan sát ấy đi dần xuống, tới gần sông hơn, nghe tiếng nước rõ hơn; đoạn cuối lặp đi lặp lại những hợp âm như ở đoạn mở đầu, tạo cảm giác như hướng vào bên trong con người, thấy lòng hơi trống trải.
Anh còn cảm thấy con sông trong nhạc phẩm này chỉ có thể là sông mùa thu hoặc mùa đông, lại thấy có chút gì đó mang màu sắc của sự chia tay, mà là cuộc chia tay hào hùng, không não nề.
 
Một trong những lí do mà tôi chọn nhạc Phạm Duy vì ông không chỉ viết nhạc mà ông còn có một biệt tài là đặt lời Việt cho những bản giao hưởng hoặc những bản tình ca mang phong cách cổ điển hoặc bán cổ điển Tây Phương . Bằng ngôn từ phong phú , ông đã thổi hồn Việt Nam vào những tinh hoa nghệ thuật của thế giới mà tưởng chừng sẽ khó tiếp cận được với công chúng Việt Nam vì hàng rào văn hóa ngăn cách Đông -Tây . Có thể kể đến "Vũ nữ thân gầy" (dựa trên nhạc của bản tango nổi tiếng nhất thế giới từ trước đến nay La Cumparsita của nhà soạn nhạc người Argentina Gerardo Matos Rodriguez ) , Chủ nhật buồn (nguyên tác là bài hát "Szomorú Vasárnap" của Hungary do nhạc sỹ , nhạc công piano Rezső Seress vào năm 1933 ) ... Nhưng , được phổ biến rộng rãi hơn cả , và cũng đã từng được trình diễn trong buổi văn nghệ tối hôm kỉ niệm 20 năm ngày thành lập trường Ams thân yêu của chúng ta , nói đến đây chắc các bạn đã đoán ra , đó là bài Dòng Sông Xanh . Nếu ai hay nghe nhạc giao hưởng thính phòng sẽ nhận ra nguyên tác của nó là " An der schönen blauen Donau op. 314 " (tạm dịch :Bên dòng sông Danube xinh đẹp) của Johann Strauss sáng tác năm 1867 . Cũng là cảm hứng sông nước , nhưng nếu bài " Chiều về trên sông " mà tôi đã nhắc đến trong 2 bài post ở trên là sông Cửu Long , hiền hòa , đã nuôi dưỡng cho bao thế hệ người Việt Nam ta qua suốt chiều dài lịch sử của vùng đồng bằng sông Cửu Long , thì ở đây là Blue Danube (dòng sông xanh) lại lấy cảm hứng từ sông Danube , một con sông của Châu Âu , vừa hùng vĩ , nhưng lại ẩn chứa nét đẹp thơ mộng , khơi gợi cảm hứng sáng tạo cho người nghệ sỹ . Mỗi người có thể có một cảm nhận riêng khi nghe lại ca khúc này , nên tôi xin nhường phần bình luận cho các bạn .Và sau đây , hãy cùng du lịch trên sông Danube qua bản nhạc bất hủ "Dòng Sông Xanh" với tiếng hát cao vút của Thái Thanh .

http://download.yousendit.com/9A1C6CF841EB7B14

PS : ở trên em có nhắc đến bài "Vũ nữ thân gầy" nên cái này em xin tặng riêng cho anh Việt , chất lượng khá tốt (Khánh Ly hát phê quá )
http://download.yousendit.com/8BD38E4C409980FC


ghi luôn cái lyric cho mọi người tiện theo dõi :
Dòng Sông Xanh

Một dòng xanh xanh, một dòng tràn mông mênh
Một dòng nồng ý biếc, một dòng sầu mấy kiếp
Một dòng trời xao xuyến, một dòng tình thương mến
Một dòng còn quyến luyến, một dòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền
(HẾT ở đây)
Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu
Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.
Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui
Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.
Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi
Đời là khúc nhạc, đời là tiếng thơ
Nước sông reo như ru cuồn cuộn sóng trôi xa
Là tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta.
Sông về sông dào dạt ý
Hát tang bồng theo tầu mà đi
Ai giang hồ sau ngàn hải lý
Lỡ tình duyên nơi đâu đó ghé qua kinh kỳ.
Ôi, mắt em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời.
Ôi, mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai.
Sông về, sông cười ròn tiếng
Yêu mối tình bên bờ Thành VIENNE.
Đôi giang hồ quay về bờ bến
Ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao Thiên Đàng.
Ngày ấy, có tiếng ai khoan hò thuyền về.
Ngày ấy, có dáng em soi dòng chiều hè.
Ngày ấy, có tiếng ta hát gọi tình về
Nước sông miên man trôi đi.
Ngày ấy, lúc đến với em một lời thề.
Ngày ấy, lúc nói với em một chuyện gì.
Ngày ấy, lúc vui cuộc sống nhịp tràn trề
Nước sông miên man trôi đi.
. . . . .
A á a a a a a a a a ! Em ơi ! Em ơi ! Yêu đi !
A á a a a a a a a a ! Có sóng nước trên sông ghi.
A á a a a a a a a a ! Em ơi ! Em ơi ! Ra đi !
A á a a a a a a a a ! Nước cũ đón đưa về...

Người hỡi ! Ánh trăng rụng không tới nước.
Vì đêm rét mướt, dòng sông lắng câm.
Người hỡi ! Giúp nhau mở đôi mắt ướt
Ngắm cầu nhớ sông im cúi gầm.
Đi về đâu ? Đi về đâu ?
Nước lặng khô cứng đờ.
Màn tang buông tuyết phủ.
Người ơi ! Đi về đâu ?
Kiếp tù đầy nước giá
Xót thương cho cây khô nghèo.
Rồi đàn chim xanh từ trời thanh về vờn quanh.
Gió Đông chết ngoài sông mới, mùa Xuân tới.
Ai mơ hồ ngủ kỹ, mau ra đời.
Bông hoa đầu rụng rơi trên sông xanh lơ.
Đi ! Ta đi, cùng đi theo sông, vờn sóng nước biếc.
Theo nhịp sóng vui tưng bừng.
Sông vi vu ù u... vui nghe tầu hú... u hú.
Sẽ đưa ta đi nơi xa mờ
Cùng đi, vào Thương với Nhớ.

(trở lên đầu để HẾT)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Cảm ơn Bách nhé, Phạm Duy viết lời bài hát đặc biệt thế! rất hợp với bản nhạc ^^

Đàn đã khơi rồi, trong lúc đêm tàng rời đàn khóc ai hoài
Cho heo hon lòng tôi đàn nhớ nhung người
Như sắc hương tàn phai đàn cố nguôi lời
Cho giấc mơ còn lời... ôi ... nghe tiếng đàn reo mà thương người
Nghe tiếng cười reo xót xa đời
Nhớ nhung đau thương mà thôi

Người vũ nữ người xưa mến thương ngồi
Nhớ tới hương đêm kinh đô chưa qua đời
Nhớ tới đôi môi hương tươi, nhớ tới xa xôi
Nay đã xa rồi

Người vũ nữ ngồi bên cốc lên men
Bát ngát hương đêm cho anh say mềm
Nhịp nhàng reo trên sàn êm, rộn ràng nghe bao lời điên
Cuồng khách giang hồ say triền miên

Ta ghì cho tan vỡ trái tim này
Cho người ăn chơi nhíu đôi lông mày
Ta cười cho say nát kiếp lưu đày
Cho người vũ nữ khóc tấm thân gày

Chưa nói yêu nhau mà lòng đã đau
Chưa biết mê say mà tình đã bay
Chưa uống môi em mà hồn đã quên
Đã qua 1 đêm.


"Chủ nhật buồn" anh cũng nghe rồi, nói chung 20 versions "Gloomy sunday" anh nghe thì ai hát cũng khác nhau. Nói chung anh không thích bài đó, có lẽ vì màu sắc của nó quá u ám.
 
có lẽ vì thế mà có mấy người nghe xong bài đó tự tử luôn thì phải , theo em biết thì như vậy .
thế nên trong mấy bản nhạc ngoại quốc lời Việt kể trên , em ko dám đưa bài đó lên , vì sợ nhỡ có bạn nào đang hợp tâm trạng u ám như thế mà nghe xong ko chừng là làm liều thì chết :))
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Trần Xuân Bách đã viết:
có lẽ vì thế mà có mấy người nghe xong bài đó tự tử luôn thì phải , theo em biết thì như vậy .
Đây là câu chuyện về "Gloomy sunday":
"Gloomy Sunday" là tên của một bài hát kể về 1 tình yêu đã mất. Thật đúng như tựa đề của nó, bài hát được viết vào một ngày Chủ Nhật thật ảm đạm của tháng 12 năm 1932 bởi 1 nhà soạn nhạc tên là Reszo Seress.

Reszo thường nằm nguyên ngày trong căn phòng của mình ở thủ đô Paris. Người phụ nữ anh yêu vừa cự tuyệt tình yêu cao thượng của anh. Reszo luôn luôn tôn thờ tình yêu của mình, nên vì vậy anh đã phải đau khổ thật nhiều khi tình yêu của anh bị từ chốị Trong nỗi thất vọng, anh đã sáng tác ra bài hát sầu thảm nhất trong đời. Khi bài nhạc được hoàn thành, Reszo cảm thấy nhẹ nhàng hơn đôi chút trong lòng. Tuy nó không bù vào nỗi mất mát tình yêu to lớn kia, nhưng bài hát của anh ta thật hay - đủ hay để được đưa vào đĩa nhạc thời bấy giờ.

Khi Reszo cố gắng bán "Gloomy Sunday", thoạt đầu anh đã gặp nhiều khó khăn khi tìm người tiêu thụ. Các nhà sản xuất đĩa nhạc cho rằng bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành 1 đĩa nhạc có giá trị.

Một nhà sản xuất đã viết rằng: " Có cả một mối tuyệt vọng bị cưỡng ép thật kinh khủng trong bài hát ấỵ Tôi không nghĩ rằng nó sẽ đem lại điều gì hay ho cho người nào nghe bài hát ấỵ" (There's a sort of terrible compelling despair about it. I don't think it would do anyone anyone any good to hear a song like that.)

Nhưng không vì thế mà Reszo ngừng cố gắng để tìm mối tiêu thụ. Cuối cùng, anh ta đã tìm được 1 nhà sản xuất chịu phát hành nhạc của anh. Khi bài hát được tung ra thị trường cũng là lúc nhiều sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra.

Một người đàn ông đang ngồi trong 1 quán café đông đúc tại Budapest đòi ban nhạc chơi bản "Gloomy Sundaỵ" Người đàn ông ngồi tại bàn ông ta vừa nhấp rượu champagne vừa lắng nghe bài nhạc. Khi bản nhạc chấm dứt, người đàn ông trả tiền, rời khỏi quán, và vẫy 1 chiếc xe taxi. Vừa ngồi vào trong xe, ông ta liền lôi ra 1 khẩu súng và tự kết liễu đời mình.

Vài ngày sau đó, một cô gái bán hàng thật trẻ đã tự treo cổ tại Berlin. Nằm phía dưới chân của cô gái là tờ nhạc của bài "Gloomy Sunday".

Một cô thư ký xinh đẹp tại New York tự tử trong căn apartment bằng hơi ga đã để lại một mẩu giấy nhỏ xin yêu cầu bản nhạc "Gloomy Sunday" được chơi vào buổi lễ an táng cô.

Khắp thế giới, có nhiều bài tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ây. Ca sĩ chết trong lúc hát. Người ta chết trong lúc nghe.

Cuối cùng thì công ty truyền thông Anh Quốc phải cấm hẳn bài "Gloomy Sunday" vào những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng. Công ty này không thể làm ngơ trước những lời phiền hà đến từ bài hát ấy.

Nhiều hệ thống viễn thông Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm giống vậy. Mười lăm quốc gia khác đã đâm đơn kiện bài hát. Các luật sư quanh thế giới đã tranh luận rằng người soạn nhạc của bài hát có nên chịu trách nhiệm cho hàng loạt cái chết là hậu quả của sự sáng tạo của anh ta hay không. Nhưng khi các đài radio cố gắng hủy bỏ bài hát thì nó càng trở nên phổ biến hơn. Người ta còn cảm thấy hào hứng hơn khi nghe bài hát "tự tử" này (suicide song).

Bài hát dường như ảnh hưởng mọi người không phân biệt gì đến tuổi tác hay tầng lớp. Một người đàn ông 80 tuổi tự hủy diệt đời mình bằng cách nhảy từ cánh cửa sổ lầu bảy xuống trong khi bài nhạc đang hát. Một cô gái 14 tuổi chết đuối khi trong tay còn cầm một bản copy của bài "Gloomy Sunday".

Một nạn nhân trẻ tuổi khác, một cậu bé sai vặt người Ý, đang đi ngang một người ăn xin trên lề đường đang hát bản nhạc "Gloomy Sunday" đột nhiên dừng lại, để chiếc xe đạp của cậu sang một bên, tiến dần đến chỗ người ăn xin và cho ông ta hết số tiền mà cậu đang có. Sau đó chẳng một lời nào, cậu bé đi đến một cây cầu gần đấy và tự nhảy xuống tìm lấy cái chết.

Báo chí lượm lặt hết tất cả những câu chuyện và gửi phóng viên đến phỏng vấn Reszo và hỏi anh ta nghĩ gì về điều ấy. Nhưng Reszo cũng bàng hoàng như bao người khác. Anh ta cũng chẳng hiểu vì sao bài hát của mình đã gây ra nhiều điều bất thường đến vậy.

Từ đó, người soạn nhạc dường như bị truyền nhiễm những điều bất lành theo sau bài nhạc bất cứ khi nào và nơi đâu khi bản nhạc được chơi lên. Khi bài "Gloomy Sunday" trở thành một "top hit" trong tuần, Reszo đã viết một lá thư gửi cho người yêu cũ của chàng và xin thêm một cơ hội nữa để nối lại mối duyên xưa.

Ngày hôm sau, người ta tìm thấy thi hài của cô gái trẻ đã chết vì uống thuốc quá liều lượng. Bên cạnh cô ta là một tờ giấy với nét chữ nghệch ngoạc trên ấy nhưng còn có thể đọc được. Đó là tên của bài nhạc "Gloomy Sunday".

Đến lúc này thì Reszo chẳng còn nghi ngờ gì về bài hát mang đầy tính nguyền rủa của chính mình. Lần đầu tiên trong đời, Reszo cố gắng thu hồi lại bài nhạc để nó khỏi bị lan ra nhiều thêm. Nhưng tất cả mọi nỗ lực của anh đều không thành. Bài hát càng bị cấm, nó lại càng trở nên phổ biến hơn. Những bản copy lậu được bày bán trên đường phố như một loại trái cấm.

Trong mỗi quốc gia, số người chết lại càng gia tăng. Bài hát đã đem lại nhiều lời đồn đại chết người đến nỗi các nhạc sĩ không dám chơi bài ấy hay thậm chí các ca sĩ cũng sợ không dám hát.

Thời gian trôi quạ Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và người ta cũng bắt đầu quên đi bài hát ấy. Dần dần, cơn sốt bài hát được lắng dịu xuống.

Vào thời điểm này Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc quyết định nới lỏng lệnh cấm bài hát. Đài BBC cho phát thanh "Gloomy Sunday" trên làn sóng điện, nhưng bấy giờ bài nhạc chỉ còn là một hợp tấu khúc (orchestral piece). Từ ấy bài hát được sửa lại theo lối hoà âm hợp khúc nàỵ

Cũng bài nhạc được sửa lại theo
kiểu version mới này được phát ra và cứ lập đi lập lại hàng giờ trong một căn apartment nhỏ. Người cảnh sát đi tuần gần đấy cứ phải nghe mãi một bài hát và lấy làm lạ. Tiếng âm nhạc phát ra từ cánh cửa sổ của một hộ apartment trên con phố mà người cảnh sát tuần tiễu. Cảm thấy lạ vì người nào có thể nghe mãi một bài hát cứ hát đi hát lại mãi thật nhiều lần mà không ngừng nghỉ, người cảnh sát cuối cùng quyết định điều tra.

Khi viên cảnh sát bước vào căn nhà, "Gloomy Sunday" đang được hát trên dàn máy hát xoay tròn tự động. Thân thể của một thiếu phụ đang nằm cạnh chiếc bàn nơi để chiếc máy hát đang chạỵ.Người thiếu phụ đã chết với một liều thuốc ngủ cực mạnh.

Đây mới chỉ là một bắt đầu của hàng loạt cuộc tự tử khác nối tiếp. Một lần nữa, Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc phải ra cấm lệnh đối với bài hát.

Giờ đây thì Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh bởi những cái chết do bài hát của anh ta gây nên.

Có hơn 100 người chết sau khi nghe bài hát "Gloomy Sunday". Bài hát vẫn có thể được nghe từ thời này sang thời khác. Gần đây, số tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy không còn nữa. Có lẽ lời nguyền năm xưa đã hết linh nghiệm chăng? Có thể là vậy. Nhưng nếu bạn đang ở trong một quán bar nào đó và khi nghe người disc jockey bảo rằng bài nhạc cũ kỳ lạ "Gloomy Sunday" sắp được chơi, tôi thành thật khuyên bạn nên bước ra ngoài và tham gia những trò chơi khác thì tốt hơn.

Còn một vấn đề mà bạn cũng nên biết là ông Rezso Seress, người viết ra bài nhạc nầy tự tử vào năm 1968.
Lời dịch tiếng Anh:
Sunday is gloomy, my hours are slumberless.
Dearest, the shadows I live with are numberless.
Little white flowers will never awaken you,
Not where the black coach of sorrow has taken you.
Angels have no thought of ever returning you.
Would they be angry if I thought of joining you?
Gloomy Sunday.

Gloomy is Sunday; with shadows I spend it all.
My heart and I have decided to end it all.
Soon there'll be candles and prayers that are sad, I know.
Death is no dream, for in death I'm caressing you.
With the last breath of my soul I'll be blessing you.
Gloomy Sunday...
Tác giả:

reszo.gif


seress.jpg


:D
 
Đỗ Việt đã viết:
Đây là câu chuyện về "Gloomy sunday":

Vụ này xưa đã có 1-2 topic riêng trong TTTG rồi thì phải.

Bài viết Việt post đầy rẫy chi tiết thất thiệt :)) Cũng ko rõ xuất xứ ban đầu của nó ở đâu, nhưng thấy tiếng nước nào cũng có (kể cả tiếng Hung - Hung là quê hương của Seress, nơi những chi tiết bá láp rất dễ bị phát hiện).

Có tấm ảnh anh chụp tại tiệm ăn mà Seress chơi nhạc gần 20 năm trong đời mình, ở Budapest. Để anh kiếm rồi gửi lên...

L.

TB. Hàng chữ trên tấm bảng là: "Seress Rezso, tác giả những bản nhạc được ưa chuộng, trong thời gian 1934-1950 đã sáng tác những ca khúc còn mãi với thời gian tại nơi đây".

Và ở dưới là câu đầu trong bản "Chủ nhật buồn" (nguyên tác là Szomorú vasárnap): "Chủ nhật buồn với muôn ngàn cành hoa trắng...", mà PD đã dịch từ bản tiếng Pháp là: "Chủ nhật buồn - Đi lê thê - Cầm một vòng - Hoa đê mê..."
 

Đính kèm

  • not_nhac_1.JPG
    not_nhac_1.JPG
    54.7 KB · Xem: 3
"Dòng sông xanh" hầu như ko mấy ai hát đủ lời do PD đặt, có lẽ vì dài quá nên đứt hơi? :)) PD cũng đã có lần nói về chuyện này.

Gần đây, ở Việt Nam có CD toàn nhạc (bán) cổ điển lời Việt, trong đó AC&M hát "Chủ nhật buồn" theo kiểu mơi mới. Trong đó, có 1 cô nào đó (anh quên tên rồi) hát "Dòng sông xanh" đủ lời. Bách hay Việt có bản ấy ko, post lên cho cả nhà nghe nhé.

L.

Trần Xuân Bách đã viết:
ghi luôn cái lyric cho mọi người tiện theo dõi :
Dòng Sông Xanh

Một dòng xanh xanh, một dòng tràn mông mênh
Một dòng nồng ý biếc, một dòng sầu mấy kiếp
Một dòng trời xao xuyến, một dòng tình thương mến
Một dòng còn quyến luyến, một dòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền
(HẾT ở đây)
Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu
Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.
Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui
Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.
Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi
Đời là khúc nhạc, đời là tiếng thơ
Nước sông reo như ru cuồn cuộn sóng trôi xa
Là tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta.
Sông về sông dào dạt ý
Hát tang bồng theo tầu mà đi
Ai giang hồ sau ngàn hải lý
Lỡ tình duyên nơi đâu đó ghé qua kinh kỳ.
Ôi, mắt em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời.
Ôi, mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai.
Sông về, sông cười ròn tiếng
Yêu mối tình bên bờ Thành VIENNE.
Đôi giang hồ quay về bờ bến
Ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao Thiên Đàng.
Ngày ấy, có tiếng ai khoan hò thuyền về.
Ngày ấy, có dáng em soi dòng chiều hè.
Ngày ấy, có tiếng ta hát gọi tình về
Nước sông miên man trôi đi.
Ngày ấy, lúc đến với em một lời thề.
Ngày ấy, lúc nói với em một chuyện gì.
Ngày ấy, lúc vui cuộc sống nhịp tràn trề
Nước sông miên man trôi đi.
. . . . .
A á a a a a a a a a ! Em ơi ! Em ơi ! Yêu đi !
A á a a a a a a a a ! Có sóng nước trên sông ghi.
A á a a a a a a a a ! Em ơi ! Em ơi ! Ra đi !
A á a a a a a a a a ! Nước cũ đón đưa về...

Người hỡi ! Ánh trăng rụng không tới nước.
Vì đêm rét mướt, dòng sông lắng câm.
Người hỡi ! Giúp nhau mở đôi mắt ướt
Ngắm cầu nhớ sông im cúi gầm.
Đi về đâu ? Đi về đâu ?
Nước lặng khô cứng đờ.
Màn tang buông tuyết phủ.
Người ơi ! Đi về đâu ?
Kiếp tù đầy nước giá
Xót thương cho cây khô nghèo.
Rồi đàn chim xanh từ trời thanh về vờn quanh.
Gió Đông chết ngoài sông mới, mùa Xuân tới.
Ai mơ hồ ngủ kỹ, mau ra đời.
Bông hoa đầu rụng rơi trên sông xanh lơ.
Đi ! Ta đi, cùng đi theo sông, vờn sóng nước biếc.
Theo nhịp sóng vui tưng bừng.
Sông vi vu ù u... vui nghe tầu hú... u hú.
Sẽ đưa ta đi nơi xa mờ
Cùng đi, vào Thương với Nhớ.
(trở lên đầu để HẾT)
 
Em chỉ móc được file ở Nhạc số về, một đoạn demo thôi, còn bài hoàn chỉnh em chưa tìm thấy ạ :D

Chủ nhật buồn (AC&M)

Anh chờ em tìm thêm, nhưng xong vụ "Chủ nhật buồn" thì phải trả lại topic "Phạm Duy" :D
 
Cám ơn Việt, nếu kiếm được cả bản này thì cho anh xin nhé. Và cả bản "Dòng sông xanh", version anh nhắc đến ở trên nữa.

Đồng ý là trả lại đề tài này cho PD và nhạc PD. Thực ra, về PD, có lẽ nói một lời cũng là thừa, và ngàn lời cũng chưa đủ, như nhận xét của ai đó. Trên trang chủ của PD và các trang, các forum trên Net, số bài viết về PD và nhạc của ông có lẽ cũng lên tới con số cả vạn. Đọc hết những bài đó, chắc cũng phải mất nửa đời.

Nhưng quan trọng hơn cả, nghe và cảm thụ hết được nội dung và tâm tình của PD, chắc chắn một đời cũng còn ít!

Nhân sinh nhật của PD (vừa qua được mấy ngày), anh muốn post lại một bài phỏng vấn PD, cũng mươi năm nay rồi. Khi ấy, thú thực, cả người đặt câu hỏi (anh) và có lẽ, cả người trả lời, PD, vẫn chưa mường tượng được "ngày về" của PD.

Tuy nhiên, loại trừ một vài vấn đề trong bài phỏng vấn có thể đã bị thời gian vượt qua, thì vẫn còn những điều rất đáng quan tâm về thế giới tâm linh và nghệ sĩ của PD.

Bài dài nên anh post làm mấy phần. Ai ko đủ kiên nhẫn đọc bài dài trên forum, xin thông cảm và bỏ qua.

Gửi tới nhạc sĩ PD lời chúc sinh nhật muộn màng, và lòng biết ơn từ một người yêu nhạc ông!

L.

Đỗ Việt đã viết:
Em chỉ móc được file ở Nhạc số về, một đoạn demo thôi, còn bài hoàn chỉnh em chưa tìm thấy ạ :D
Chủ nhật buồn (AC&M)
Anh chờ em tìm thêm, nhưng xong vụ "Chủ nhật buồn" thì phải trả lại topic "Phạm Duy" :D
 
Phạm Duy - đôi điều tâm sự​

Mùa xuân 1997, trên đường lưu diễn ở Đức, tại các thành phố Hannover và Dusseldorf, nhạc sĩ Phạm Duy đã có một cuộc nói chuyện rất thân mật với một nhóm bạn trẻ Đông Âu. Một phần nội dung cuộc trao đổi này đã được trích đăng trên tạp chí GiÓ ĐÔNG số 1, năm 1997 (Đức), và toàn văn cuộc trao đổi được đăng trên tạp chí VĂN, số đặc biệt về Phạm Duy, năm 2002 (Hoa Kỳ).

*

Hỏi: ''Nhân sinh thất thập...''. Nếu tính theo tuổi ta thì tháng Mười năm nay (1996) nhạc sĩ Phạm Duy đã tròn bảy mươi sáu. Vượt qua ngưỡng thượng thọ đã lâu, sức khỏe cũng như sức sáng tạo nghệ thuật của bác có còn sung mãn như xưa? Bác vẫn sáng tác đều đặn?

PD: Đã suốt đời không hút thuốc lá, không uống rượu, gần đây lại rất chăm tập thể dục, cho nên trong đám ''thanh niên cụ'', tôi là người có một cơ thể vững chãi hơn các bạn đồng tuế mà tôi gọi là bạn vàng (ami jaune). Tôi vẫn tự gọi mình là Tarzan (cười). Nói vui vậy chứ thực thì tôi vẫn còn đầy đủ sức khỏe và quan trọng là vẫn còn đầy đủ cảm hứng để sáng tác tới hơi thở cuối cùng. Về phương diện tinh thần, tôi không lúc nào cho phép đầu óc tôi được lười biếng hay nghỉ ngơi cả. Suốt đời học hỏi về nghệ thuật, hơn nữa từ ngày qua Hoa Kỳ, tôi đã đi vào lĩnh vực điện tử để áp dụng vào nghề nhạc của mình, vì thế tôi có thêm rất nhiều phương tiện để làm việc. Làm việc gì, nếu không phải là sáng tác? Có thể trả lời anh em rằng: nhờ có computer mà sự sáng tác của tôi có phần sung mãn hơn xưa đấy nhé! Tuổi trẻ ở Hoa Kỳ hiện nay gọi tôi (ngoài cái tên BỐ GIÀ) là Cụ HAI TẾCH.

Hỏi: Trong ''cái thuở ban đầu lưu luyến ấy'', điều gì đã quyến rũ bác trở thành một nhạc sĩ? Và yếu tố gia đình (cụ thân sinh của bác, nhà văn Phạm Duy Tốn, một trong những người đầu tiên viết văn xuôi đề tài xã hội) có ảnh hưởng thế nào đến tính thơ đẫm trong những sáng tác đầu đời của bác?

PD: Tôi cũng không định làm nghệ sĩ đâu. Đó là một tai nạn nghề nghiệp (cười). Tôi có may mắn sinh ra trong một nước bị trị nhưng vào đời đúng lúc nước tôi chuyển mình. Lúc còn trẻ, khi trong nước có hiện tượng đi tìm một nhạc ngữ mới để thay thế cho nhạc cổ, tôi bỏ nhà theo một gánh hát rong và đã trở thành một ca nhân bất đắc dĩ. Rất may, lúc ấy đang là thuở đầu đời của tân nhạc (hồi ấy gọi là ''âm nhạc cải cách'') và tôi đã là một trong những người sáng lập nên tân nhạc Việt Nam. Rồi từ đó tôi cứ đi trên đường ấy. Phải nhấn mạnh điều này: cái may của tôi là đã ở đúng thời - thời có thể nói là chưa có bài hát tân nhạc nào - và tôi là một trong những người đầu tiên đi hát tân nhạc và thành công ngay. Nếu vào đầu thập niên 40, tôi mới lên 5 lên 10 hay đã quá 40, 50 tuổi và nếu tôi không phải là - cũng do chó ngáp phải ruồi mà thôi! - một chàng du ca 20 tuổi thì có lẽ dòng nhạc mới này đã trôi qua mà chẳng có tôi đâu!

Lẽ cố nhiên gia đình đã ảnh hưởng tới tôi khi chọn cho mình con đường hát ca ''bất đắc dĩ'' ấy. Bố tôi là nhà văn xã hội. Mẹ tôi là nữ thi sĩ, con gái nhà Nho. Anh tôi là một ông viết tiếng Pháp hay lắm (cười). Thành thử viết có hay không thì không biết, nhưng rõ là có lợi khi từ trong bản chất đã có được những ảnh hưởng của gia đình. Rồi thì hoàn cảnh đẩy đưa tôi tới chỗ lão luyện hơn thôi. Và cũng do say mê làm văn nghệ nên tôi còn được tồn tại đến hôm nay.

Hỏi: Đã hơn sáu mươi năm trôi qua kể từ thời điểm những ca khúc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam ra đời. Đơn cử: BẼ BÀNG của Lê Yên, năm 1935. Do nhiều hoàn cảnh, thế hệ hậu sinh chỉ được biết một cách đại khái về thời tiền khởi ấy, mà cũng chỉ chừng sáu, bảy năm trở lại đây. Giá như họ được biết thêm về không khí âm nhạc của đất nước cách đây già nửa thế kỷ qua một vài hồi niệm của bác!

PD: Sau hơn nửa thế kỷ, ấn tượng về thời Tân nhạc mới ra đời còn in sâu trong tôi là sự hứng khởi chung của toàn thể người nghe và người hát vào thời điểm đó. Dù nét nhạc của chúng tôi rất thô sơ (dường như đều chỉ nằm trong một âm thể độc nhất là ré minơ), dù lúc đó chỉ có khoảng ba hay bốn ca sĩ nhà nghề mà thôi, nhưng có thể nói tuổi trẻ mở thật rộng cõi lòng ra để tiếp đón những khúc điệu đầu tiên của thời đại, phản ánh ít nhiều tình cảm của họ là thứ lãng mạn tính mà nhạc cổ không có... Sự hứng khởi đó, chúng ta nên có những đêm trình diễn có tính chất rétrospectif (tôi gọi là: hồi tưởng) để cho các thế hệ sau (như các anh) học hỏi.

Đó là không khí chung, còn những kỷ niệm riêng thì phải cho tôi một ''ngàn một đêm lẻ'' để kể lại cho những ai muốn nghe. Có anh chị nào, ở trong hay ngoài nước, quan tâm tới cái ''thuở ban đầu lưu luyến ấy'' của Tân nhạc Việt Nam, dám mời tôi tới để hồi tưởng chuyện ngày xửa ngày xưa hay không?

Các anh đã nhắc đến thuở khai sinh của tân nhạc Việt Nam, tôi có thể nói thêm thế này: tân nhạc Việt Nam có cái may mắn ra đời đúng lúc cả dân tộc cựa mình đi tìm tự do độc lập. Nhưng không may: tân nhạc Việt Nam lại phải lớn lên ở một nước chiến tranh kéo quá dài, chính trị nhiều quá, chia rẽ nhiều quá, hết chia Nam Bắc lại chia lý tưởng. Người ta không có được một khoảng thời gian xã hội yên bình để nghe nhạc. Cho tới giờ phút này, khi tôi ngồi với các anh em ở đây, tôi vẫn có cảm giác rằng người Việt Nam vẫn chưa nghe nhạc như những người bình thường. Nghe nhạc với một tâm lý bất bình thường xem là nó trúng ai, nó theo ai thì... bỏ mẹ rồi (cười). Âm nhạc, cũng như mọi bộ môn nghệ thuật khác, cần phải có một thời bình. Ở Việt Nam không có, thành thử đó cũng là một thiệt thòi lớn... (ngừng) ... cho tôi. Những bài hát tôi làm cách đây chừng năm sáu mươi năm giờ đây anh em cũng không được nghe, vì nó không được công nhận ở đất nước Việt Nam. Anh em hỏi tôi về những kỷ niệm riêng. Thì thế đấy: buồn có, vui có, cũng lung tung lắm. Nhưng tôi có thể nói hết sức lạc quan: cho đến hôm nay, tân nhạc Việt Nam có đến sáu mươi năm trưởng thành rồi và tuổi trẻ Việt Nam ngoài thú vui âm nhạc - tôi nghĩ - cũng chưa có thú vui nào khác hơn. Người trong nước hay ngoài nước vẫn còn tìm đến nhau, an ủi nhau, yêu nhau, ghét nhau bằng âm nhạc. Với tôi, đó là một điều mừng.
 
Hỏi: Nếu lấy 1945 làm mốc đánh dấu kỷ nguyên đầu tiên - kỷ nguyên thành lập - của tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Phạm Duy đã có ba bài ''tiền chiến'': CÔ HÁI MƠ; KHỐI TÌNH TRƯƠNG CHI và CÂY ĐÀN BỎ QUÊN. Đâu là điểm tương đồng, đâu là điểm dị biệt trong nhạc tình của Phạm Duy thời này so với nhạc lãng mạn của những tổ sư tân nhạc khác, chẳng hạn như Lê Thương, Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong...?

PD: Buổi khởi đầu, tân nhạc Việt có hai xu hướng: nhạc hùng và nhạc tình. Nói riêng về nhạc tình thì nhạc tình của chúng tôi vào lúc Tân nhạc mới ra đời, về nội dung, tất cả đều là nhạc lãng mạn, lãng mạn chủ nghĩa theo lối Pháp. Ông nào ngày đó cũng làm vài bài nhạc về mùa thu, về con nai vàng ngơ ngác. Về thể điệu thì chúng tôi lấy nhạc cổ điển hay tân kỳ Âu Mỹ làm tiêu chuẩn. Bây giờ, nếu cần phải phân loại tí ti thì ta hãy tạm gọi nhạc Đặng Thế Phong là nhạc lãng mạn mùa Thu (cả ba bài ĐÊM THU, CON THUYỀN KHÔNG BẾN, GIỌT MƯA THU đều chỉ nói tới mùa Thu), nhạc Dzoãn Mẫn là nhạc tình sông nước (CÔ LÁI ĐÒ, BIỆT LY). Và nếu đóng khung vào ba bài nhạc tình mà các anh vừa kể thì CÔ HÁI MƠ, KHỐI TÌNH TRƯƠNG CHI, CÂY ĐÀN BỎ QUÊN của thằng tôi nhút nhát là nhạc tình ấp úng. Về sau, tôi bạo dạn hơn nên nhạc tình của tôi là nhạc tình cảm tính (sentimentale), nhạc tình dục tính (sensuelle)...

Kỹ hơn chút nữa, nếu nói một cách ngắn gọn thì nhạc tình cảm tính của tôi khác với nhạc tình của Lê Thương, của Đặng Thế Phong... ở chỗ: hai người yêu nhau không cần phong cảnh nào cả, không cần ''thuyền mơ'', ''suối mơ'', ''bến xuân'', chỉ có anh và em, chỉ có ''ngày đó chúng mình yêu nhau'', ''đừng xa nhau'', ''kiếp nào có yêu nhau''. Đại khái thế.

Hỏi: Nhạc sĩ Phạm Duy đã tham gia tích cực và là một trong những linh hồn của giới văn nghệ sĩ trong sáu năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi văn nghệ còn ít nhiều tự do [...]. Đã sống và sáng tạo trong sự biến thiên sâu sắc của lịch sử hiện đại Việt Nam, bác nghĩ như thế nào về thời kỳ ấy? Liệu có thể coi đây là một trong những giai đoạn thành công, đáng ghi nhớ nhất trên hành trình sống và sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy?

PD: Tôi hãnh diện vì được tham gia vào kháng chiến chống Pháp và vì đã đóng góp được vào nền âm nhạc nước nhà bằng ba mươi bài ca kháng chiến. Không lúc nào tôi phủ nhận điều này. Giờ đây, tôi vẫn cho rằng trong vòng năm trăm năm nay nước mình chỉ có mười năm đoàn kết, thực sự yêu nhau, cùng gánh vác giang sơn và đó chính là khoảng thời gian từ bốn nhăm đến năm nhăm (1945 - 1955). Còn việc nhà cầm quyền và nhân dân đánh giá như thế nào về phần đóng góp của tôi thời kháng chiến, là ba mươi ca khúc ấy, thì nói thật: tôi xin chịu. Tôi chỉ biết cống hiến xong rồi, là xong (cười).

Nói kỹ hơn, Cách mạng và Kháng chiến (với Mặt trận Việt Minh) đã là cái giàn phóng để cho các nhạc sĩ tiền phong trẻ tuổi là chúng tôi bay nhanh, bay xa... hay bay chậm, bay gần. Nếu không đi theo Kháng chiến, có thể tôi đã ngưng làm nhạc từ lâu. Lúc đó, với lòng tự hào dân tộc của toàn dân trong chiến đấu, tôi quyết định không đi theo trường phái nhạc cổ điển hay tân kỳ Âu Mỹ, dù cũng biết yêu quý Bach hay Mozart, Schubert hay Beethoven, Debussy hay Ravel.... Trước khi Tân nhạc ra đời, vì đã sống ở đồng quê và đi theo một gánh hát rong, tôi có cơ hội tiếp thu gần như toàn thể Dân ca, Dân nhạc cổ truyền Việt Nam. Khi khởi sự cái gọi là Tân nhạc của tôi đó, tôi quyết định ra đi từ cái vốn liếng của dân tộc... Quả rằng bài Dân ca mới đầu tiên của thời đại là bài NHỚ NGƯỜI THƯƠNG BINH, soạn tại Vĩnh Yên năm 1947, có thể được coi là sự thành công của tôi trong thử thách soạn nhạc mới, lấy tứ nhạc từ dân ca, dân nhạc và lấy cảm hứng từ người dân. Từ đó, tôi vững tâm đi theo con đường Dân ca mới mà tôi vạch ra, với những bài như DẶN DÒ, MÙA ĐÔNG CHIẾN SĨ, RU CON, BÊN NI BÊN TÊ, NHỚ NGƯỜI RA ĐI, TIẾNG HÁT TRÊN SÔNG LÔ, NƯƠNG CHIỀU, GÁNH LÚA, BÀ MẸ GIO LINH, VỀ MIỀN TRUNG v.v... dựa vào tiêu chuẩn tứ nhạc và cảm hứng mà tôi đã nói. Vào thời điểm này, như anh em nói, tôi chưa gặp một sự khó khăn nào của giới lãnh đạo văn nghệ.

Thật là đáng tiếc cho tôi là sau sáu, bẩy năm hứng khởi ở vùng quê như vậy, tôi gặp ít nhiều khó khăn nên đành phải tìm về thành thị để tiếp tục làm cuộc hành trình nghệ thuật của riêng mình. Những bài Tình ca quê hương, Tình tự dân tộc tôi soạn ra ở miền Nam là sự tiếp nối những bài dân ca kháng chiến của thời trước đó... Cao điểm của loại dân ca cải tiến này là những bản Trường ca soạn ra về sau như CON ĐƯỜNG CÁI QUAN, MẸ VIỆT NAM...

Qua Hoa Kỳ, sau 1988, với sự tiếp sức của người con thứ Duy Cường, chúng tôi tiến từ giai đoạn đơn điệu (monophonique) qua giai đoạn đa điệu (polyphonique). Nếu phải qui loại cho nhạc phẩm của chúng tôi thì đó là những bài bản soạn theo trường phái quốc gia ấn tượng (nationale, impressioniste). Hiện nay, tôi đang thai nghén sáng tác cuối cùng là bốn bức MINH HỌA KIỀU.

Tôi nghĩ rằng, khởi sự đời mình bằng dân ca kháng chiến, kết thúc đời mình bằng việc xưng tụng tác phẩm muôn đời của nền thi ca dân tộc là truyện KIM VÂN KIỀU, chân lý của tôi là: chỉ muốn làm một nhạc sĩ Việt Nam, dù thế này hay thế nọ, dù thế kia hay thế đó, dù vắng xa hay gần gũi, dù ở trong hay ở ngoài, dù được yêu hay bị rủa, dù còn sống hay đã chết, vân vân và vân vân...

Hỏi: Nhắc đến Phạm Duy, không thể không nhớ tới Văn Cao. Có thể coi Văn Cao như là điển hình cho thế hệ văn nghệ sĩ của bác, tài hoa nhưng gặp bao nhiêu là tai họa [...]. Nhiều người đã nghĩ rằng gia tài âm nhạc của Văn Cao sẽ không chỉ có thế, ngót nghét hai chục bài, nếu ông được sống cho âm nhạc trong những điều kiện khác. Và, đã bao giờ bác nghĩ đến chuyện nếu nhạc sĩ Phạm Duy ở lại miền Bắc thì sự nghiệp âm nhạc của ông sẽ theo hướng nào?

PD: (cười) Nếu so sánh Văn Cao và tôi thì phải công nhận là anh Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều lắm. Về nhạc. Về họa. Về thơ. Đủ mọi phương diện. Nói anh ấy không may thì cũng không đúng. Vào lúc nước Việt Nam, từ nền Dân chủ Cộng hòa biến thành chế độ Cộng sản, cả hai chúng đều đã chọn đất đứng của mình một cách rất rõ ràng, minh bạch. Ông ấy đã chọn con đường của ông ấy: ở lại. Thành quả là tuy Văn Cao chỉ có một sự nghiệp nhỏ nhưng ông lại có một vinh quang lớn: ông là tác giả bài Quốc ca của nước Việt Nam. Tại sao đã là công dân nước Việt, quý vị cứ luôn luôn buồn phiền hộ ông mà không hãnh diện vì ông?

Tôi cũng chọn con đường của tôi: làm một người tự do tuyệt đối. Vào thời điểm 1951, tôi cũng được chính quyền và nhân dân yêu lắm. Nhưng tôi muốn tự do, để sáng tác, vâng, thế là tôi đi. Đi, cho tới lúc này, ngồi cạnh anh em ở Hannover, vẫn chưa ngừng nhé (cười).

Việc đánh giá Văn Cao, cũng như những kết quả đến với ông ấy ra sao thì tôi không dám nói. Văn Cao có cái vinh và cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê. Chứ còn tôi, nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc Cực chăng? (cười) Tôi không dám đem mình so với Văn Cao, nhưng tôi xin nói là nếu anh Văn Cao có được một - đời - sống - được - làm - việc như mình muốn, nghĩa là tự do chọn lựa, tôi chắc anh ấy còn làm được hơn tôi.

Còn tôi, từ khi đã chọn làm người hát rong tự do và độc lập, nếu chỉ vì tôi không phục vụ cho một chế độ nào cả cho nên tôi có bị lịch sử (!) gạt đi và coi như không có một sự nghiệp nào ở nước Việt Nam hiện nay... thì đó là cái giá mà tôi vui lòng móc túi ra trả.

Hỏi: Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nói riêng tân nhạc, Phạm Duy - từ thuở cầm cây đàn - là một ''người tình'' tuyệt vời và có một không hai. Người tình ấy đã tham gia kháng chiến và đã không đi hết con đường ấy. Có phải là tình yêu tự do, tự do trong sáng tạo nghệ thuật, tự do trong tư tưởng, tự do trong cuộc sống hàng ngày của nhạc sĩ Phạm Duy mạnh hơn bất cứ một tình yêu nào khác? ''Cho rồi xin lại tự do'', nhạc sĩ Phạm Duy nghĩ sao? Người nghệ sĩ trong Nam thuở xưa có tự do đến mức nào trong cuộc sống và lao động nghệ thuật?

PD: Tôi vừa nói về vấn đề chọn lựa. Câu hỏi của các anh cũng là câu trả lời. Tôi thấy rõ cho đến giờ phút này, nếu tôi còn sáng tác được thì đó là vì tôi hoàn toàn tự do.Tự do ngay cả với chính mình. Tôi không bó tôi vào cái gì cả. Phạm Duy không đặt mình vào dòng nhạc nào. Phạm Duy là con chim bay nhảy. Ngày hôm nay làm Tâm ca. Ngày mai làm Tục ca. Phạm Duy không sợ ai cả. Tôi không trói tôi. Vợ con tôi cũng không trói được tôi. Và lẽ dĩ nhiên: không chính quyền nào trói được tôi cả. Tôi là ''thằng mất dạy'' (cười).

Trong 20 năm (1954-75) đất nước bị chia đôi, phải công nhận miền Nam tương đối có tự do. Cũng có những cơ quan của chính quyền kiểm soát các hoạt động của văn nghệ sĩ, nhưng chúng tôi qua mặt Bà Già Kiểm Duyệt khá dễ dàng. Các anh nói đúng: nếu không có sự tự do trong sáng tạo nghệ thuật, sự tự do trong tư tưởng, sự tự do trong cuộc sống hằng ngày thì, riêng về phần tôi, không thể nào tôi có nhiều loại ca khác nhau như vậy được.

Hỏi: Sự hòa quyện tính dân tộc và tính hiện đại trong nhạc của bác, cũng như của mọi nhạc sĩ đã được vinh danh, là một thực tế. Khi sáng tác, bác có ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải kết hợp dân tộc và hiện đại? Bác quan niệm như thế nào về bản sắc dân tộc? Có sự chọn lựa cái hay và cái dở trong khi dung hợp cái hiện đại và dân tộc ở quá trình sáng tác?

PD: Nói ngay vào thực tế, tôi thấy rõ rằng không có một nhạc sĩ nào thành công trong ý muốn tạo một cái gì đó đúng với ngôn ngữ dân tộc và thời đại mà lại bỏ qua các giá trị của âm nhạc dân tộc. Một trong những lý do làm tôi sáng tác được cho tới hôm nay là tôi đã có được một vốn âm nhạc cổ truyền ngay từ khi còn trẻ. Tôi xuất thân là thằng đi hát rong. Tôi đã hát nhạc cổ truyền để nuôi sống mình, từ quan họ bắt qua trống quân... Âm nhạc dân tộc đã nhập vào tôi từ hồi nhỏ, vào thế nào và ra thế nào tôi xin được nói sau. Chỉ xin được khẳng định là chẳng anh nào trở thành nhạc sĩ của dân tộc nếu thiếu cái vốn về âm nhạc dân tộc. Ngoài cái vốn đó ra tôi còn tạo được cho mình một cái vốn khác. Tôi có may mắn đã học ở Pháp, chương trình tám năm tôi học trong hai năm 1954 - 1955. Cái này rất quan trọng. Cần phải biết quá trình từ cổ điển lên hiện đại ở nhạc châu Âu thế nào? Nhạc của Debussy khác Chopin ra sao?... Mở rộng ra là cần phải thông hiểu lịch sử âm nhạc thế giới nữa, ở những nét căn bản nhất, chẳng hạn sự xuất hiện của các trường phái. Thiếu cái vốn này thì không thể nói tới sự chọn lựa để phát triển nghệ thuật của mình. tôi đã rút được kinh nghiệm này cách đây mười năm: tôi không dám đi lên nhạc đa điệu ngay trước khi phát triển nhạc đơn điệu lên tột độ của nó. Và khi tới với nhạc đa điệu, tôi phải nhờ tới con tôi - Duy Cường. Ở điểm này con tôi giỏi hơn tôi. Bố con tôi đã tìm ra một con đường hoàn toàn riêng cho nhạc đa điệu. Không giống Chopin. Không giống Mozart. Không giống Debussy. Hoàn toàn Việt Nam. Ra làm sao thì anh em phải nghe. Có thể nói thế này: âm nhạc cổ truyền giúp tôi khi sáng tác nhạc đơn điệu, âm nhạc quốc tế giúp tôi làm nhạc đa điệu. Vấn đề ở đây là tiếp thu như thế nào: bắt chước hoàn toàn hay chỉ lợi dụng? Mượn phong cách hoành tráng của Wagner hay biểu tượng của Debussy là những yếu tố kỹ thuật. Cho tới bây giờ, tôi vẫn quan niệm đó vẫn là một thử thách. Cũng như tôi vẫn thường cho rằng người nhạc sĩ Việt Nam nếu coi thường âm nhạc cổ truyền của dân tộc thì mọi sáng tác của anh ta sẽ chỉ là bắt chước, nhưng đồng thời phải tiếp cận được với cái mới, chẳng hạn như Rap, New Wave... Tôi có cái may là ở ngoài và dễ học hỏi cái mới hơn nhiều nhạc sĩ trong nước. Tôi vẫn đang học dù đã bảy sáu rồi. Sự học ấy có trở thành một cái gì ở tôi không thì tôi không nói được. Anh em là người xét đoán.
 
Hỏi: Tâm ca có một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy. Biết bao nhiêu trái tim trí thức, học sinh, sinh viên miền Nam một thuở đã bị chinh phục bởi Tâm ca. ''Kẻ thù ta không phải là người - giết người đi thì ta ở với ai''. Dễ hiểu vì sao các ông "cai văn nghệ" quy kết Tâm ca là ''phản động'', là ''ru ngủ thanh niên''. Nhưng có lẽ mười bài Tâm ca cũng là phần tương đối khó tiếp thu với những người mới chỉ quen với nhạc tình Phạm Duy. Xin bác cho biết ít nét về thời kỳ Tâm ca quan trọng này.

PD: Tôi xin được ''báo cáo'' là có ba con người trong một Phạm Duy. Con người tình cảm Phạm Duy luôn làm những bản nhạc tình yêu. Con người xã hội Phạm Duy làm những bản nhạc cho đất nước. Thế cho nên mới có những bài ca kháng chiến, mới có Tục ca... Con người thứ ba ít người biết lắm là con người tâm linh. Tôi đã phát hiện ra nó khi viết Tâm ca. Tâm ca ra đời vào 1965, lúc cuộc chiến đã tới hồi cao nhất, hận thù leo giốc tới mức cao độ nhất, khiến cho nước tôi bị tha hóa hoàn toàn. Những người chủ trương chiến tranh, bạo động cố nhiên không thích Tâm ca. Nhưng có những người trẻ tuổi... Ở những bài như KẺ THÙ TA, như TÔI ƯỚC MƠ, tôi đã nói được cái phần tâm linh của con người đã bị chiến tranh làm tha hóa. Hay dở không biết, nhưng tôi là người dám nói. Anh em tiếp thu thế nào, như các anh vừa nói, tôi lấy làm mãn nguyện lắm. Không ngờ những bài tôi viết ra lại có người tiếp thu, đồng thời có người đả phá (cười).

Các ông ''cai văn nghệ'' (như anh em gọi) rất nhầm lẫn khi nói rằng Tâm ca ''ru ngủ thanh niên'', trái lại, Tâm ca đã làm cho nhiều người thức tỉnh lương tâm. Biết bao nhiêu thanh niên đã yêu Tâm ca vì nó dám nói lên những điều mà mọi người muốn nói nhưng chưa dám nói... Giá trị tối thiểu của Tâm ca là ở vào thời điểm 65-70, đó là những bài hát nhân bản nhất trong khi ca nhạc ở nước ta luôn luôn bị giữ lại ở trình độ những bài hát tuyên truyền.

Anh em nói rằng: Tâm ca không dễ tiếp thu! Không khó đâu, anh em ạ. ''Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?'' là câu hát dễ ợt, hồi đó con nít miền Nam hát hoài, không có ai là người không tiếp thu được nó. Những bài khác như TIẾNG HÁT TO, ĐỂ LẠI CHO EM, GIỌT MƯA TRÊN LÁ... còn làm cho những người được lệnh chống Tâm ca phải khóc cơ mà? Tôi mà không soạn Tâm ca vào thời đó thì tôi không đích thực là tôi, kẻ đã chọn làm một ca nhân ''khóc cười theo mệnh nước nổi trôi''... ngay từ khi mới khởi sự kiếp cầm ca!

Hỏi: Nhạc sĩ Phạm Duy là người thích phân loại các nhạc phẩm, căn cứ vào chủ đề của chúng. Người yêu nhạc của bác đã tiếp xúc với hơn chục loại ca. Bác thích và hài lòng với loại ca nào hơn cả? Khi sáng tác, bác có tự giới hạn mình trong những mục đích nhất định? Hoặc có thể diễn đạt lại như thế này: bác có phân biệt những loại ca có ý nghĩa phục vụ một lợi ích nhất thời nào đó của xã hội với những loại ca mang tính vĩnh cửu, trường tồn. Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra là vì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, khi được hỏi về nhạc Phạm Duy, đã nói (xin trích): ''...Đạo ca, Tâm ca, Tục ca chỉ có tính cách phong trào, giai đoạn, vui chơi ngôn ngữ, không bền...''

PD: (cười) Tôi cũng cám ơn anh Trịnh Công Sơn vì nhận xét có phần nông cạn về nhạc của tôi. Tâm ca, cũng như các loại khác dẫu có bị kiểm duyệt thì tôi cũng ném ra được tới quần chúng. Nhưng Tục ca thì ít người biết. Kể cả Trịnh Công Sơn. Không! Tôi không chơi đùa trong sáng tạo! Tôi làm văn nghệ một cách đứng đắn. Phải hiểu Tục ca khi đặt nó trong tâm thế thời đại lúc đó: người Việt Nam chỉ muốn văng tục. Dĩ nhiên, tôi hiểu rằng mọi người có quyền phê bình tác phẩm của tôi. Nhưng tôi muốn trả lời một lần nữa câu anh em hỏi: Tôi có chơi đùa với chữ nghĩa, âm thanh không? Không! Đấy là những bài nhạc hết sức đứng đắn của tôi.

Như đã nói qua loa ở trên, đã từ lâu, từ đầu thập niên 50 lận, tôi đã thấy mang máng rằng tôi phải phân thân ra làm ba con người:

1- Con người tình cảm, soạn những bài Tình ca đôi lứa, Tình ca một mình... nghĩa là soạn nhạc cho cá nhân, cho riêng mình;

2- Con người xã hội để từ nhạc Kháng chiến ca, Tình ca quê hương tiến tới Tâm ca, Tục ca v.v... Đó là loại nhạc tôi gọi là nhạc nhân hòa (điều hợp con người và xã hội);

3- Con người tâm linh để soạn những bài hát nhiên hòa (hòa mình vào thiên nhiên, siêu nhiên) như HOA XUÂN, LỮ HÀNH... trước khi đi vào Đạo ca, Rong ca, Thiền ca...

Trả lời câu hỏi của anh em là: tôi yêu loại ca nào? Tôi yêu cả ba con người vừa kể. Tục ca, đối với tôi cũng rất quan trọng như Tâm ca, Đạo ca, Tình ca quê hương hay Tình ca đôi lứa. Sế dĩ tôi tạo ra nhiều loại ca như vậy là vì tôi là một nghệ sĩ làm việc có phương pháp, có kỷ luật. Có thể vì cầm tinh con bướm nên thỉnh thoảng tôi đùa vui với nhạc tình, nhưng không bao giờ tôi tùy hứng trong phạm vi nhạc xã hội đâu! Trong loại nhạc này, tôi cũng là người tạo ra phong trào chứ không phải là người chạy theo phong trào. Trịnh Công Sơn nói câu ''tâm ca, tục ca chỉ có tính cách phong trào, giai đoạn, vui chơi ngôn ngữ, không bền... '', tôi nghi chàng bị bắt buộc phải nói như vậy. Chẳng lẽ con người soạn ra những bài hát tuyệt vời lại có cái nhìn hẹp hòi như vậy? Họ Trịnh đã biết: khi Tâm ca xuất hiện, nó gây ra nhiều dư luận khác nhau. Chàng cần biết thêm: sau hơn 30 năm Tâm ca ra đời, vẫn còn rất nhiều bài báo ở hải ngoại nhắc nhở tới nó. Gần đây nhất, ông Hà Sĩ Phu còn nhắc tới câu: ''Kẻ thù ta tên nó là chủ nghĩa...'' Tâm ca rất bền bỉ đến độ, qua bài phỏng vấn này, các anh là một trong rất nhiều người trẻ tuổi 1997 còn sốt sắng muốn tìm hiểu Tâm ca 1965.

Hỏi: Từ ngày rời miền Bắc vào Nam, rồi lại sống ở hải ngoại, xa quê hương, nhạc sĩ Phạm Duy có để tâm và nhận xét gì về nhạc miền Bắc?

PD: Tôi không dám phát biểu về nhạc miền Bắc vì chưa nắm vững vấn đề. Nếu có thì giờ và có tài liệu để nghiên cứu, tôi sẽ trả lời anh em sau.

Tuy nhiên, tôi chắc phải có một giá trị nào đó. Bởi vì những người làm nên nó là những người thành thạo trong nghệ thuật rồi và họ đã hợp thành mấy thế hệ, kể từ những người như Nguyễn Xuân Khoát cho tới những ông như ông Trần Tiến. Tìm hiểu thì tôi thấy rõ rệt nhạc miền Bắc từ năm tư đến bảy nhăm nói được cái kiêu hùng của dân tộc trong khi nhạc miền Nam lại nói được cái hiền lành. Tôi sẽ trình bày sâu hơn về vấn đề nhạc Hà Nội trong những năm tháng đó trên Internet. Từ thống nhất tới bây giờ, tôi chắc không thiếu người tài, nhưng vì ở xa quá, tôi không dám mạnh miệng phê bình. Tôi hy vọng đất nước mình sẽ thay đổi như chúng ta mong muốn - ai chả muốn Việt Nam mình thay đổi phải không ạ? - để cho văn hoá nghệ thuật trong đó có âm nhạc trở về với sinh hoạt bình thường, không bị đánh giá một cách nông cạn theo lập trường chính trị, như đã và đang... Còn bị kiểm duyệt thì văn học nghệ thuật còn khó lòng...

Hỏi: Rất nhiều tài năng âm nhạc lớn đang khép lại thế kỷ này bằng sự ra đi vĩnh viễn của mình. Như Văn Cao. Như Dương Thiệu Tước. Như Thẩm Oánh. Vừa mới đây thôi, tác giả ba HÒN VỌNG PHU sừng sững ngóng chồng cũng vĩnh biệt chúng ta. Là một trong những nhạc sĩ cuối cùng của thế hệ khai sinh tân nhạc Việt Nam, cũng là người có thẩm quyền nhận định về tình hình âm nhạc đất nước, bác nghĩ ra sao về hướng đi tới của nhạc Việt, cả ở trong nước lẫn hải ngoại? Phải chăng đỉnh cao của nó chỉ là sự uốn éo, đánh mông đánh đít, mô phỏng vụng về những điệu Disco, New Wave, Rap, Techno của các xứ tiên tiến mà thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước đang rất chuộng? Hay vàng vọt, ỉ eo kiểu nhạc sến? Bác có kỳ vọng gì ở thế hệ nhạc sĩ trẻ hiện nay của ta không?

PD: Anh em cũng thừa biết rằng nhạc Âu Mỹ, vốn là sản phẩm của một xã hội siêu-tiêu-thụ, rất có ảnh hưếng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở một nước đang trong thời kỳ quá độ như nước ta. Những quái thai âm nhạc ở cộng đồng người Việt hải ngoại hay ở trong nước như ''ca nhạc sĩ uốn éo, đánh mông đánh đít bắt chước những điệu Disco, New Wave, Rap, Techno... '', theo tôi, chỉ là thú vui rẻ tiền của những người không có nhiều học thức trong một nước thấp kém, ở đó dân chúng bao giờ cũng chỉ thích những thương phẩm âm nhạc hạ cấp... Đối với những hiện tượng âm nhạc đó, các nhạc sĩ trẻ ở nước ta và những cơ quan có trách nhiệm về văn hóa cần có thái độ. Hoặc phải thi đua tranh thủ quần chúng bằng những sáng tác tốt đẹp, phải nâng cao trình độ thẩm âm của dân chúng lên. Hoặc phải ngăn chặn những chất độc tinh thần đó như ta ngăn ma túy vậy.

Mặt khác, ở một nước bình thường, chứ không bất bình thường như đất nước mình, cũng có hai loại nghệ thuật. Có thứ nghệ thuật cho đám đông. Coi nó là trò chơi cũng không có gì là quá. Ví dụ như đánh giá âm nhạc nước Mỹ chỉ qua Michael Jackson hay Madonna thì tội cho nước Mỹ quá. Vẫn phải có một loại nhạc tiêu biểu cho một đất nước dù rằng đám đông chưa chắc hiểu nó. Ở Việt Nam cũng vậy. Nhưng mà tình hình chính trị còn lung tung thế này thì làm sao có thể nói đến nghệ thuật được. Tuy nhiên, cứ tạt ngang sang văn chương mà xem. Trước đây ta cứ nghĩ là trong hoàn cảnh như ở nước mình, lấy đâu ra một tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần thời đại. Điều này giờ đã được cải chính chỉ nội qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Đọc, thấy mình có quyền hy vọng vào dân tộc mình lắm. Tôi nghĩ rằng tình hình trong âm nhạc cũng vậy. Có thể có thứ nhạc sến, nhạc nô dịch. Nhưng biết đâu trong âm thầm có những người như Nguyễn Huy Thiệp trong văn học. Nếu cởi mở thực sự, không chừng những cái họ sáng tạo đó sẽ được ném ra. Tôi cam đoan như thế. Chẳng lẽ một đất nước bị khuấy động hàng bao năm như thế lại không có được một nhạc sĩ nói về điều ấy như là đại diện của dân tộc. Mình chưa thấy ra đó thôi. Tôi còn mong anh em ở nhà biết ai thì cho tôi hay để tôi còn đi kiếm. Chỉ mong âm nhạc không bị dùng làm tuyên truyền. Âm nhạc là để xưng tụng chứ không phải để chửi nhau (cười). Tôi hy vọng. Có những người như tôi, như anh Nguyễn Xuân Khoát, có những người như Trần Tiến, như Dương Thụ...Ở nhà cứ cởi trói thực sự đi. Biết đâu chẳng có tác phẩm hay. Phải cho tôi cái quyền được lạc quan như vậy.

Hỏi: Ca sĩ nào đã thể hiện ca khúc của bác thành công nhất?

PD: Một tác phẩm âm nhạc, muốn thành công, cần có ba điều kiện: thứ nhất, tác phẩm soạn ra phải có giá trị; thứ hai, phải có ca sĩ đủ sức truyền tải tác phẩm tới quần chúng; thứ ba, quần chúng chấp nhận. Đời tôi may mắn lúc nào cũng có Thái Thanh, lúc nào cũng được quần chúng lắng nghe. Nhờ thế mà một bài hát dễ trở thành cổ điển, ví như VIỆT NAM, VIỆT NAM, TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI... Ngoài Thái Thanh tôi có Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo, và gần đây nhất tôi có Tuấn Ngọc.
 
Hỏi: Trong số ba mươi ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy thời kháng chiến, có nhiều bản bất hủ, tác động sâu sắc tới tâm thế của bao thanh niên thời buổi ấy, giục giã họ đầu quân, lên đường cứu nước. Ba mươi ca khúc, đó là một lượng bài hát có thể nói bằng tất cả các ca khúc đáng nhớ của tất cả các nhạc sĩ thời ấy cộng lại. Ở thời kỳ sau, bác lại là tác giả của biết bao bài hát về quê hương, đất nước, con người Việt Nam. ''Tôi yêu tiếng nước tôi - từ khi mới ra đời''... Đứng trên mọi bình diện, hoàn toàn có thể gọi nhạc sĩ Phạm Duy là một người yêu nước vĩ đại, hoặc là ''một người hát rong'' vĩ đại - nếu cách định danh này hợp ý bác hơn. Nhưng hơn nửa thế kỷ nay, [ở Việt Nam] Phạm Duy và nhạc Phạm Duy là một đề tài cấm kỵ, điển hình là câu phán rất không vị nhân tình của ông Trần Bạch Đằng cách đây bảy tám năm [...]. Bác nghĩ gì [về điều này]

PD: Phải cho tôi thở dài cái đã (cười). Mệt quá. Có gì đâu. Chuyện hết sức giản dị: Một con chim sinh ra để hát những điều tốt đẹp, trong mùa xuân. Nghe con chim hót bằng trái tim của ông công an thì... bỏ mẹ rồi; mà nghe bằng trái tim của ông Trần Bạch Đằng thì... khổ quá. Không chấp. Kệ. Sự công nhận của quần chúng thầm lặng vẫn là điều bền nhất. Tôi hy vọng nhiều ở họ lắm. Ở thời kỳ nào cũng thế, tôi không dám nói là tôi nhìn sáng suốt hơn, nhưng quả thật tôi đã nhìn kỹ hơn, nhìn đúng, nhìn ra những nỗi khổ đau của dân tộc trong những bài hát của mình. Tôi nghĩ người nghệ sĩ nào cũng phải có ý thức về điều này, còn có làm được hay không lại là chuyện khác.

Ngẫm lại, có lẽ chúng ta cũng chẳng nên quá băn khoăn về mối tình rất sâu giữa tôi và nguời yêu hay về sự bất hòa rất lâu giữa tôi và kẻ ghét làm gì... Trong suốt một đời đi hát rong, hát dạo, tôi chỉ làm một công việc duy nhất là tặng cho ba, bốn thế hệ tình nhân của âm nhạc (music lovers) những bài ca - tôi nghĩ rằng - rất cao đẹp. Nếu trong hành trình văn nghệ của mình, đôi khi tôi phải cất tiếng phê bình xã hội và con người thì tôi cũng chỉ mong xã hội và con người khá hơn lên.

Nay các anh đặt vấn đề trao tình giữa tôi và người yêu kẻ ghét thì tôi xin được thưa rằng: người nào còn yêu nhạc Phạm Duy thì cứ việc đi tìm nghe nó trong cassette hay CD, qua video hay trên Internet... Người nào ghét nhạc Phạm Duy thì cứ việc giữ lấy cục bông gòn đã nhét chặt vào lỗ tai. Đã suốt đời chưa hề xin ai một ân huệ nào thì vào lúc cuối đời này, tôi cũng không thể hét vào lỗ tai ai cả!

Hỏi: Rồi thế nào cũng có một ngày người ta phải trả lại cho Phạm Duy lòng kính trọng và sự tôn vinh thỏa đáng mà bao lâu nay họ vẫn nợ ông. Ngày đó, [...] giữa lòng Hà Nội, bác sẽ hát cho người Tràng An nghe những bài gì, nếu cần chọn lấy mười bài?

PD: (Cười) Chắc chắn là không được hát Tục ca rồi. Đủ rồi, không cần phải chửi ai nữa!

Trả lời câu hỏi của một phóng viên báo TUỔI TRẺ ở thành phố Hồ Chí Minh năm ngoái về sự nợ nần nhau, tôi thú thật với anh ta là: chỉ có gia đình ông bà N. M. C. (đã quá cố) là còn nợ tôi nửa món tiền mua căn nhà ở Phú Nhuận mà chưa trả hết, nợ này chắc phải lấy tầu ngầm xuống Âm Ty may ra mới đòi được... Riêng vợ chồng tôi thì còn mắc nợ nhà băng ở Hoa Kỳ vài chục ngàn đôla để mua căn nhà tại Thị trấn Giữa đàng, California USA từ 19 năm nay, nợ này chắc chắn sẽ trả xong trong ít năm nữa. Ngoài hai món nợ đó ra, tôi xin khai báo là không còn một món nợ nào khác giữa tôi và cõi đời này nữa. À quên, bắt chân chữ ngũ, vắt tay lên trán, sực thấy còn vài cái nợ tình với vài ba bà... thì hình như mấy cái nợ vặt này, chúng tôi cũng đã trả cho nhau gần hết cả rồi...

Bây giờ nói tới truyện thần tiên là: trên đường đi hát rong trên thế giới, có ngày tôi ghé hát ở Tràng An, chắc chắn là tôi sẽ không đả động tới 10 bài hát (như các anh đặt hàng) trong bất cứ loại ca nào có thể gây nên những phiền muộn cho mọi người. Có lẽ tôi sẽ mời người Hà Nội mến yêu của tôi nghe một trong bốn đoạn MINH HỌA KIỀU mà tôi đang hoàn tất chăng? Nhưng, cái quan trọng là chúng ta phải trở về với sự bình thường. Tôi thích một nét tính tình này của người Việt mình: không có cái gì được quan trọng hóa cả. Nhưng trong năm mươi năm qua chúng ta bị quan trọng hóa nhiều quá. Cái ngày trở về Việt Nam tôi sẽ hát HÁT TRÊN ĐƯỜNG VỀ. Về đây không phải là về với Sài Gòn hay Hà Nội. Về đây là về với chính bản thân mình. Người Việt Nam đánh mất mình năm mươi năm năm nay rồi. Phải về lại với chính bản thân mình...

(1997)
 
trời ơi , sao topic này mình lập ra tâm huyết như thế mà có mỗi anh Việt , anh Linh (riêng anh Linh thì ko còn là thế hệ trẻ nữa rồi :)) ) tham gia thôi ???
chán như con gián ! >>> ko sao , chưa mất ý chí đâu .
 
Không sao, rồi sẽ có thêm người quan tâm mà em :D

Bài "Màu thời gian" thơ của Đoàn Phú Tứ do Phạm Duy phổ nhạc chắc em đã nghe rồi? anh thích cả lời thơ, cả giai điệu của Phạm Duy và giọng ca sĩ Thái Hiền ^^
 
Back
Bên trên