Những điều kỳ thú

Vũ Trần Thế Nguyên
(thenguyen)

New Member
QUYỀN LỰC THẦN BÍ CỦA NHỮNG KIM TỰ THÁP

Có một bức màn bí ẩn bao trùm quanh công trình kiến trúc kì diệu của Ai Cập : Kim tự tháp Vĩ đại của vua Cheops , hay Khufu . Khong ai biết chính xác nó được xây dựng khi nào và như thế nào . Một s6ó lý thuyết nói rắng toà nhà này được dựng lên 4500 năm trước , nh7ng phương pháp được dùng d69ẻ xếp những tảng đá vĩ đại ấy vào đúng chỗ vẫn cón là 1 thách đó với ngay cả nên kỹ nghệ hiện đại của chúng ta ngày nay .
Đều đáng ngạc nhiên hơn nữa là 4 góc của đáy kim tự tháp tạo thánh góc vuông gần như hoàn hảo . Mỗi cạnh đáy dài đúng 365 cubit (1cubit=18 inch ) _là số ngày trong 1 năm . Một điều nữa , chiều cao kim tự tháp nhân lên 1 tỷ lần bằng khoảng cách từ trái đất đến mặt trời . Vì KTP là kiểu mẫu kích thước lý tưởng ở bắc bán cuầ , ng xây dựng noá hẳn phải biết chu vi của trái đất và độ dài 1 năm . Tuy vậy những điều nyày các nhà khoa học chỉ biết cách đây 300 năm !
Nếu ta chấp nhận ý kiến rắng các KTT Ai Cập được xây dựng để giữ các xác ướp , thì KTT Cheops là 1 công trình vô dụng . Khi ng Ả rập đục xuy6en qua bức tườn đá dày vào thế kỉ thứ 9 n, họ chỉ tìm thấy 1 quan tài trống rỗng bằng đá granite đỏ . Không có dấu tích nào cho thấy KTT đã bị xâm nhập cho tới lúc đo .
Những câu hỏi về KTT Vĩ đại đã khiến ng Pháp phải bối rối , đó là ông Antoine Bovis khi ông tham quan kì công này vào 80 năm trước đây . Bovis đã phát hiện ra 1 điều lạ lùng _ không khí ẩm trong KTT có xu hướng ướp xác những gì được đặt trong đó 1 thời gian dài . Sử dụng phát minh này , ông đã xây những mẫu kích thước nhỏ của KTT vĩ đại và thí nghiện với mèo chết . Không 1 cái xác nào bị huỷ hoại , cho dù ông đã để chúng rất lâu trong KTT .
Vào những năm 40 , 1 kĩ sư ng Sec t6en là Karel Drbal đã đọc được bản boá cáo thí nghiệm của Bovis . Viên kĩ sư quýêt định tự mình thực hiện thí nghiệm với KTT . Drbal đã chứng minh rằng Bovis đã đúng . Dường như hình dạng của KTT ẩn dấu 1 năng lượng kì lạ và năng lượng đó được quy tụ vào bất kì vật gì được đặt bên trong nó.

Drbal đã đặt dao cạo cùn trong 1 KTT bằng bìa cứng nhỏ , và ông nói rằng con dao dường như tự mài bén trở lại trong vài ba ngày . Năm 1959 , Drbal bắt đầu bán các hộp mài dao KTT Cheops . Phát minh đó đã giúp ông trở nên giàu có và đồng thời nó mở đường cho niềm tin vào năng lực kỳ diệu của KTT phổ biến rộng rãi .
Dĩ nhiên , đó chỉ là những tuyện bố . Vậy có bằng chứng nào về năng lực thần bí của KTT ko ? Trong vài năm gần đây , Hiệp hội Nghiên cứu nhân loại ở Washington D.C đã kiểm tra những tuyên bố trên . Trong phòng thí nghiệm của Hiệp hội , hơn 10 nhà khoa học đã thực hiện trên 25 thí nghiệm khác nhau để kiểm chứng tác động của KTT lên thịt tươi , cây xanh và trên giấc ngủ con người . Thí nghiệm được thực hiện theo 3 cách - đặt dưới KTT , trong khối lập phương và ngoài trời .
Thí nghiệm đã cho thấy điều gì ? Thứ nhất , thịt tươi đặt trong KTT lâu hỏng hơn. Thứ hai, cây xanh đặt trong KTT lớn nhanh hơn . Và thứ ba, các nhà khoa khoa học ngủ trong KTT báo cáo rằng họ cần số giờ ngủ mỗi ngày ít hơn mà vẫn hồi phục sức khỏe. Tóm lại, cuộc nghiên cứu của Hiệp hội dường như ủng hộ niềm tin vào quyền năng của KTT. Tuy vậy, bơ, hoa tươi và nước đặt trong KTT vẫn ko có kết quả . Quyền năng của KTT Vĩ đại - huyền thoại hay thực tế . Những của hỏi về KTT Vĩ đại vẫn còn chất đầy KTT Cheops Vĩ đại


KTT của người A-xtech ở Mexico : đây là loại kim tự tháp bậc thang . có độ dốc cao . Đó là điểm mấu chốt của KTT . Nó gắn liền với tục lệ tế ng của ng A-xtech . Các vị thần của họ thích vật hiến tế phải là máu ng . Vì thế họ đi gây chiến với các bộ tộc khác để bắt tù binh . Buổi lễ hiến tế , các vị thầy tu bắt tù binh nằm trên 1 cây cọc gỗ phía trước KTT , nắm chạt tay chân của vật tế , dùng một con doa nhọn cắt đầu , mở lồng ngực lôi ra trái tim vẫn còn đập dể dâng lên các vị thần rồi đẩy cho cái xác lăn xuống các bậc thang để có nhiều máu hơn dâng cho các vị thần . Chình vì thế các bậc thang phãi làm dốc . Sau đó , đầu của vật tế xấu số sẽ đem treo lên những chiếc giá trong 1 căn phòng bí mật của KTT . Ng ta chưa thống kê được chính xàc có bao nhiêu vật tế như thế nhưng , có 1 trường hợp được ghi nhận lại : 2000 tù binh đã bị tế lễ trong vòng 4 ngày . Các vị vua luôn muốn công trình KTT của mình lớn hơn các vị tiên hoàng , vì thề họ phải hiến tế nhiều hơn . Có thể nói , họ trở thành một nỗi kinh hoàng vì tính tàn bạo của mình .
 
Những vị thuốc kì quái

Khi những hiểu biết của con ng về các bệnh tật còn chưa được rành rẽ như ngày nay , dược phẩm chủ yếu được pha chế dựa trên hy vọng và niềm tin vào công dụng kì diệu của nó ! Kết quả thường không khả quan và mùi vị của thuốc thì thật kinh khủng . Có lẽ các bác sĩ thờI đó cho rằng vị thuốcc càng công hiệu thì vị thuốc càng phảI khó chịu .
Thành phần của thuốc có thể gồm cả nước tiểu cá sấu , xác ướp nghiền bột hay những bộ phận của các con thú lạ . Vị thuốc ma quỷ nhất có lẽ là theriac . LoạI thuốc khá thông dụng này được coi là có khả năng trị bách bệnh . Việc pha chế theriac đôi khi trở thành một dịp hộI họp . Các quan chức có trách nhiệm trông nom để không bị một thứ gì bỏ sót . Trong theriac có thịt rắn , ếch sống và nhộng !
Các thang thúôc giảI độc là món ăn ưa chuộng của các ông vua và các nữ hòng lo bị ám sát , những ai lo sợ ám sát hơn ai hết . LoạI giảI độc tốt nhất làm tử sừng kì lân . Vì kỳ lân thực ra là con vật tưởng tượng nên bài thúôc đó chỉ là trò kứa bịp . Sừng tê giác có thể được dùng để thay thế , cũng như cái ngà dài chín bộ của một con kì lân biển (một loài cá voi của Bắc Băng Dương ) . Hoặc là hoàng gia sẽ tìm đến bezoar , một chất rút từ ruột của con dê ốm . SỏI gà và sỏI cóc - một viên sản hình thành một cách bí ẩn trong não các con vật đó – cũng rất có giá trị đốI vớI những vụ ngộ độc
100 năm trước , bạn vẫn có thể mua usnea trong các cửa hiệu dược phẩm của Anh quốc . Usnea đựoc coi là loạI thuốc có công dụng trong mọI trường hợp , là thứ cạo từ sọ những kè tử tộI . Những tên tộI phạm xấu xa nhất lạI cho Usnea thần hiệu nhất . Nếu những thứ này nghe ghê quá , có lẽ bạn nên thử qua Powder Of Sympathy ( Bột giao cảm ) . Vốn là thần dược để trị những vết thương chảy máu vào thế kỷ 16 , nó chẳng có gì ngoài một sulphate sắt màu xanh . Nhưng bạn không phảI rắt thứ bột ấy lên vết thương mà lên vật làm bạn bị thương . Nhu thế vết thương sẽ mau lành hơn vì “ Bột giao cảm “đã làm dịu sự khát máu của lưỡI dao hay thứ vũ khí đó . “Bột giao cảm “ có lẽ là thứ dược phẩm không làm bạn đau thêm .
 
NHỮNG BUỔI TIỆC TÙNG LA MÃ

Được mờI đến một bữa tiệc La Mã cổ đạI có thể là một may mắn lớn – mà cũng có thể là một xui xẻo lớn ! Tất cả phụ thuộc vào khẩu vị của bạn , và ngườI mờI bạn tớI ăn tiệc là ai . Vậy cũng nên xem qua cái gì đang đợI chúng ta ở đó !
Việc ăn mặc khá đơn giản : đàn ông mặc togas ( khoảng năm thước vảI len tẩy trắng ) , phụ nữ mặc áo dài tunic có thêu viền ở gấu áo . Ngoài ra , vị khách nào có một dảI màu tím trên áo cần được đón tiếp đặc biệt long trọng . Các thượng nghị sĩ mang theo dảI tím rộng bản , các hoàng thân quốc thích mang dảI hẹp hơn . NgườI mặc toàn màu tím không ai khác ngoài hoàng đế . Và nếu hoàng đế ở đó , bạn chỉ còn biết cầu ước rằng bạn đang dự một buổI tiệc khác - rồI bạn sẽ thấy tạI sao !
tiệc tùng là thú giảI trí chủ yếu của ngườI La Mã , nên bạn sẽ được đưa vào phòng ăn rộng lớn , sang trọng gọI là triclinium . Phòng nhỏ hơn tablium chỉ dành cho bữa tốI thân mật , còn prandium để ăn bữa trưa. Trong khi bạn ngả lưng trên chiếc trường kỉ , tất cả nhu cầu của bạn sẽ do một ngườI nô lệ phục vụ . Nếu để ý đến họ là bạn cư xử không đúng phép lịch sự rồI đó .
Bạn nằm là phảI lắm vì bạn chưa biết thực đon như thế nào đâu . Hơn nữa , bạn sẽ phảI ngồI ăn suốt buổI chiều đến tận đêm . Nếu gai chủ thuê một đầu bếp La Mã chính hiệu , bạn sẽ khai vị vớI món nấm nấu bằng mỡ cá ướp hồ tiêu , hoặc món óc đúc bởI trứng và sữa , hoặc vú bò nhồI nhím biển muối mặn . Vậy món cá chuồn vớI trứng thì sao ? Bạn còn ngồI được không đấy ? Đó chỉ mớI là món khai vị thôi !
Bà chủ nhà của bạn bây giờ mớI hãnh diện giớI thiệu các món chính : đà điểu hầm , chuột sóc nhồI . vẹt quay , bồ câu rùa nấu để nguyên lông (trờI ơi ! em hết muốn ăn nữa rùi ) và canh hồng hạc !!! Trước khi tớI món tráng miệng là bạn đã muốn ói hết ra ngoài , điềnnày cũng được cho phép – các vị khách khác cũng đang đi tớI vomitarium để làm việc đó . NgườI La Mã tham ăm tớI mức họ cố làm thế để có thể nếm thêm các món khác .
Món tráng miệng là sự giảI thoát . Phần lớn là hoa quả , bánh mật ong ướp hoa hồng . Nếu bạn vẫn thấy chưa ngon miệng trở lạI , bạn có thể ngồI xem các vũ công , nhạc sĩ , ngườI làm xiếc mà gia chủ đã thuê suốt buổI tốI
Có nhiều lý do để nói rằng bữa tiệc này vẫn hơn bữa tiệc có hoàng đế . Thứ nhất là các hoàng đế La Mã thừơng bị đầu độc bởI các hoàng thân nóng nảy , và đôi khi các vị khách cũng chung số phận . Vả lạI nếu bạn không chết , các Vệ binh của Đế quốc , các Praetorian , sẽ thắc mắc : bạn chính là kẻ mang thuốc độc ? Một lý do tuyệt vờI nữa để không nên ăn tốI chung vớI hoàng đế là ông ta có thể bắt abn5 ăn bất kỳ thứ gì mang ra . LờI của ông ta là luật .
Hoàng đế Caligula thỉnh thoảng còn mờI bạn ăn ngọc trai hoà tan trong giấm hoặc thịt ướp vàng ăn vớI bánh mì . Ông ta thích nhắc nhở các vị khách rằng ông ta có thể sai ng cắt cổ họ ngay lập tức . Đôi khi ông ta lạI chỉ gửI tặng các viên kẹo tẩm độc là quà . Hoàng đế Heliogabalus đã từng nấu những món ăn kì lạ bằng đá thuỷ tinh và cẩm thạch . Vậy mà khách của ông ta vẫn phảI ăn . Và nếu bạn được mờI ăn vớI hoàng đế Nero hay Tiberius , bạn luôn có vô khốI cơ may để về chầu ông vảI
Nhưng có điều còn tệ hạI hơn ăn tốI vớI hoàng đế là ông ta đến ăn tạI nhà bạn . Hoàng đế Vespasian thường bất chợt ghé qua nhà ai đó trong số thần dân của mình và làm cho họ phảI khánh kiệt vì phảI chuẩn bị bữa tiệc xứng vớI hoàng đế
Bay giờ chắc bạn ước gì tránh xa mọI tiệc tùng của La Mã . Dân thường La Mã ăn uống không phảI sơn hào hảI vị gì nếu so vớI tiêu chuẩn của những nhà quý tộc . Thực đơn chỉ có bánh mì , quả ôliu , nho , một ít mật ong và đôi khi một ít thịt . Cũng đâu có tệ !
Hix hix , cũng may ở nước ta không có tiệc tùng kiểu này nhưng những bữa tiệc của bao giờ cũng tiêu tốn rất nhiều tiền . Nói chung những món ăn đó dù ngon đến đâu rồI cũng có ngày sẽ ngán như câu chuyện dân gian “Mầm Đá” của Trạng Quỳnh ngày xưa
 
Lời nguyền của kho báu INCA




CŨNG như các truyền thuyết về người Ai Cập, người Viking, về Thành Cát Tư Hãn, Tần Thủy Hoàng… nền văn minh Inca là một trong những bí mật của nhân loại mà hàng bao đời nay, con người cố tìm cách giải mã để hiểu được nó. Các nhà khoa học Đức vừa quay một cuốn phim tư liệu lịch sử sống động về vùng đất bí hiểm này và cho công bố trên kênh truyền hình ZDF một số bí mật mới thu lượm được.

Đế quốc của thần mặt trời

Ngày 31.6.1946, tại Niedzica, một lâu đài thơ mộng ở miền nam Ba Lan, một người Ba Lan tên Adrezj Benesch đã khám phá ra thông điệp tiếng Peru có nội dung bí ẩn, được niêm phong kỹ càng bởi một chuỗi các dấu niêm, thông điệp có tên là Quipu. Không ai có thể giải mã nó được. Liệu có phải Benesch đã tìm ra dấu vết dẫn đến kho báu của dân tộc Inca?

Một đế quốc hùng cường, rộng mênh mông. Nó dẫn bạn đến đầu bên kia của thế giới, đến một đất nước của những kho báu bằng vàng bị phủ bóng dưới vô số câu chuyện thần thoại. Peru - một xứ sở tọa lạc tại lục địa Nam Mỹ - đã từng là Thủ đô của đế quốc Inca hùng mạnh kéo dài hàng thế kỷ.

Những rặng núi hùng vĩ của dãy núi Andes đã bảo vệ thủ đô linh thiêng này suốt một thời gian dài khỏi kẻ xâm lăng. Cư dân của nó đã tạo dựng nên một đế quốc hùng mạnh và một nền văn minh khởi sắc. Họ thờ thần Inti, thần mặt trời, như là vị thần tối cao, và vua của họ, người đứng đầu dân tộc Inca, là con trai của thần mặt trời.

Là người đứng đầu quốc gia, nhà vua nắm mọi quyền lực trong tay. Kiểm soát bộ máy hành chánh, ban hành luật lệ và chỉ huy quân đội. Một mạng lưới giao thông chằng chịt dài 20.000km bảo đảm quyền kiểm soát trên khắp lãnh thổ. Chỉ trong một vài thập niên, họ đã chinh phục một vùng rộng lớn trải dài hơn 4.000km từ bắc xuống nam. Đế quốc khổng lồ này kéo dài từ vùng cao nguyên không thể tiếp cận được, qua các vùng khí hậu khác nhau cho đến bờ biển Thái Bình Dương.

Những thành lũy bí ẩn

Từ trên cao nhìn xuống khe núi Urubamba hoang vắng, thành Machu Picchu trông giống như bị phủ bóng bởi những đỉnh núi cao đến chóng mặt.

Thành lũy rộng lớn này với hơn hai trăm tòa nhà là một kiệt tác kiến trúc: các bức tường dày được dựng nên bởi những tảng đá nặng hàng tấn được mài dũa bóng lượn. Chúng đã được đục đẽo tinh vi và được đặt khít vào nhau sít sao mà không cần đến hồ vữa.

Một hệ thống các con lộ bậc thang được xếp đặt khéo léo nối kết các phần khác nhau của thành lũy. Được cất giấu khỏi người Tây Ban Nha, kho châu báu bị lãng quên trong rừng sâu mãi cho đến khi một nhà nghiên cứu người Mỹ tìm thấy trong những đống đổ nát khổng lồ vào tháng 7.1911. Ông kinh ngạc khi nhìn thấy bàn thờ hiến tế, được xây dựng chính xác theo hình ảnh thần mặt trời.

Những bức tượng được đúc bằng vàng ròng. Người Inca tin rằng, vàng bạc là "những giọt mồ hôi của mặt trời" - do thần Inti, vị thần tối cao, tạo ra. Chỉ có nhà vua, con trai thần mặt trời được phép sở hữu chúng. Vàng và bạc - theo truyền thống của họ - có ý nghĩa trong nghi thức hiến tế, nhưng lại không hề có giá trị vật chất.

Nghi thức hiến tế thần mặt trời

Cuzco là thủ đô và trung tâm đầu não của chính quyền. Để bảo vệ cư dân của nó, vào thế kỷ 15, nhà vua đã cho xây một thành lũy - vượt cao lên trên thành phố.

Từ nơi này người da đỏ đã có thể chinh phục được một đế quốc rộng bao la. Đến tận những nơi xa xôi nhất của xứ sở, đến mọi dân tộc và bộ lạc đã bị chinh phục, họ dạy những người này thờ lạy thần Inti.

Họ biến đạo giáo của mình thành quốc giáo, tất cả mọi người đều phải thần phục thần Inti. Hằng năm đến ngày 23.6, dân chúng cử hành lễ Inti Rami, ngày hội của mặt trời, ngày lễ linh thiêng nhất trong lịch của người Inca. Đồ hiến tế - như thực phẩm, lá cây coca, thú vật hoặc các sản phẩm bằng vàng - sẽ làm vui lòng vị thần tối cao.

Người ta tin rằng vị thần mang đến sự hưng thịnh cho đế quốc và cho nhà vua. Là con của thần mặt trời, nhà vua cũng là thầy tư tế cao cấp nhất. Những bài hát và lời cầu nguyện được dâng lên theo nghi lễ đã được qui định từng chi tiết.

Bản di chỉ khó hiểu

Văn kiện lịch sử được niêm phong cẩn thận này được gọi là Quipu, bởi vì người dân vùng núi Andes không có chữ viết. Một hệ thống ký hiệu phức tạp biểu trưng cho những con số và cho các thông điệp khác. Nếu không có chú giải bằng lời của người trong cuộc, không ai có thể hiểu được nội dung của nó. Sau cuộc xâm lăng của người Tây Ban Nha, văn kiện Quipu được nhiều người biết đến. Viện bảo tàng dân tộc học Berlin - Đức hiện đang giữ một số trong các văn kiện độc đáo này.

(theo ZDF)
 
KIM TÁNG, MỘT TẬP TỤC CHÔN CẤT CỦA NGƯỜI TÂY TẠNG

Một trong những phong tục lạ lùng, mang nhiều màu sắc Tây Tạng nhất là tục chôn cất người chết. Ở Tây Tạng, vì lí do địa hình: đất núi cằn cỗi và lớp đất mềm phủ trên đá cứng quá mỏng nên ko thể chôn cất người chết theo kiểu địa táng như nhiều nơi trên thế giới vẫn làm. Người ta cũng ko dùng phương pháp hỏa táng vì cây gỗ ở đây rất hiếm và rất đắt. Muốn có đủ gỗ, người ta phải nhập từ Ấn Độ, và việc này đối với đại đa số người dân Tây Tạng là vượt quá khả năng kinh tế của họ. Họ cũng ko thể dùng phương pháp thủy táng như các dân tộc ở các hòn đảo Nam Thái Bình Dương, vì Tây Tạng là xứ sở ở sâu trong lục địa, ko có hải phận như các nước khác. Chỉ còn một cách là huyền táng, tức là treo quan tài lên trên những vùng núi cao, và điểu táng là cho các loài chim kên kên ăn thịt xác chết. Cách chôn theo kiểu “điểu táng” là phổ biến nhất, được mô tả lại trong nhiều tác phẩm của các nhà thám hiểm.

Còn có một cách “chôn người” khác, rất đặc biệt và rất huyền bí mà ít có người biết đến, đó là kim táng, tức là một kiểu mạ vàng lên xác chết. Khác với kiểu “điểu táng” dành cho những thường dân và những người ko có chức vụ quan trọng trong giáo đoàn Tây Tạng, kim táng là một kiểu chôn đặc biệt dành cho các vị Lạt Ma trưởng, tức là những đấng hóa thân, theo quan niệm tôn giáo của người Tây Tạng. Một quan niệm ảnh hưởng từ Phật giáo, vàng tượng trưng cho những gì tôn quý nhất (có thể liên tưởng đến những từ Phật giáo như kim ngôn, kim thần, kim khẩu, kim tạng). Kim tạng tức là kho vàng dùng để chỉ Phật tánh, vì thế, khi các vị Lạt Ma trưởng , những người đã luyện cho tâm hồn của mình thành một thứ “vàng”, mất đi, tức là linh thể đã rời bỏ xác thể, thì có thể phục hồi lại linh thể này bằng cách mạ một lớp vàng lên xác chết. Trong trường hợp này, vàng ko chỉ có chức năng bảo vệ cho thể xác được trường tồn, mà còn có một ý nghĩa tượng trưng về mặt tinh thần, chỉ sự bất hư hoại của linh hồn.

Kĩ thuật mạ vàng xác chết của người Tây Tạng rất đặc biệt và đến nay nó vẫn còn là một bí ẩn. Theo lời thuật lại của Lobsang Rampa, một vị Lạt Ma Tây Tạng đã từng tận mắt chứng kiến và tham gia vào việc kim táng này, thì quá trình chôn cất đặc biệt có thể chia làm 3 giai đoạn như sau:

Giai đọan thứ nhất: Khi một vị Lạt Ma trưởng từ giã cõi trần để bước qua cõi tinh thần thì thi hài của vị này được ướp bằng một thứ hương liệu đặc biệt có tác dụng tấy hết các mùi ô uế của tử thi và giữ xác trong một thời gian dài (Tây Tạng cũng là một xứ nổi tiếng về hương liệu đã từng xuất khẩu xạ hương sang các nước láng giềng như Ấn Độ, Trung Quốc). Nếu thi hài của các vị này ko được đặt trong một cái hòm thủy tinh để trưng bày trong các đền thờ thì sẽ được đem đi mạ vàng và để ở một nơi rất bí mật, sâu tận trong lòng đất.

Sau khi làm lễ long trọng trong thánh thất của tu viện, thi hài của vị Lạt Ma trưởng được để ngồi theo tư thế kiết già và đưa xuống dưới lòng đất sâu theo một đường hầm bí mật ít người biết đến, xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng. Mãi một lúc thật lâu, thi hài mới được đưa tới một gian phòng lạnh lẽo, và ở đây thi hài được tắm rửa sạch sẽ, người ta sẽ móc tất cả lục phủ ngũ tạng cho vào một cái vại riêng và niềm chặt lại. Phía nên trong mình được rửa thật kĩ lưỡng, để cho khi khô ráo, người ta sẽ đổ vào đấy một thứ nhựa thật đặc biệt. Thứ nhựa này có tác dụng chống lại sự thối rửa của thể xác và giữ cho thi hài có vẻ tự nhiên hnư khi còn sống. Sau đó người ta nhồi thêm vào các đồ tơ lụa và luôn giữ cho thể xác có hình dáng thật giống như khi còn sống. Người ta lại đổ thêm chất nhựa vào, một thời gian sau, thứ nhựa này sẽ đông đặc lại và như thế là thi hài đã giữ đúng dáng vẻ khi còn sống, ko bị tóp khô lại vì mất hết nước, như đối với các thi hài ướp theo kiểu thông thường khác. Tử thi được tiếp tục phết lên một lớp nước thuốc đặc biệt, rồi được bó lại bằng những băng lụa rất mịn.

Giai đọan thứ hai: Khi tử thi đã hoàn toàn khô ráo và trở nên cứng rắn, người ta mang tử thi vào một phòng khác, gọi là phòng ướp xác. Thật ra phòng này là một cái hỏa lò dùng để nung (chứ ko phải đốt) thi hài ở nhiệt độ cao. Tử thi được đặt ngồi giữa hỏa lò. Người ta nhồi vào lò một thứ tạp chất gồm muối, các loại dược thảo và khoáng chất, sau đó lửa được đốt lên và cháy suốt một tuần lễ. Đến cuối ngày thứ bảy, ko đốt thêm lửa nữa và đến ngày thứ 11, nhiệt độ trong phòng trở lại bình thường. Các nhà sư thay nhau cạo sạch chất bột đã đặc cứng ở trong phòng. Khi các tảng muối và các tạp chất giòn tan khác đã được gỡ xong, thi hài hiện ra và vẫn ngồi chính giữa theo tư thế liên hoa, Người ta cẩn thận nhấc xác lên, đem trở lại căn phòng thứ nhất và bắt đầu giai đoạn thứ ba.

Giai đoạn thứ ba: Lúc này các băng lụa bao bọc thi hài được gỡ ra và lại được phết thêm một lớp nhựa mới. Trong cái xác giống như một người đang ngồi trong tư thế thiền và có thể mở mắt ra, hoặc đứng dậy bất cứ lúc nào. Công việc quan trọng nhất trong giai đọan này là mạ vàng được bắt đầu. Để làm việc này, cần phải nhờ đến các nhà sư chuyên môn, có tay nghề. Với một kĩ thuật có tính bí truyền, các nhà sư này từ từ phết lên tử thi nhiều lớp vàng tinh lọc, mịn màng và tinh nhuyễn nhất. Họ làm việc rất tỉ mỉ, chăm chú, ko bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Nhìn họ làm việc, người ta có cảm giác đây là những người thợ đặc biệt được phái tới tứ một cõi huyền bí nào đó, với nhiệm vụ rất ít người có thể làm được là mạ vàng một xác chết.

Khi công việc được hoàn thành, xác chết đã trở thành một hình tượng bằng vàng trông thật sống động, ko có vẻ gì là một xác chết. Kĩ thuật ướp xác và mạ vàng tử thi của người Tây Tạng đã đạt đến trình độ siêu đẳng, vượt qua cả kĩ thuật của người Ai Cập. Cuối cùng, xác ướp được đưa đến một cái phòng đặc biệt gọi là phòng các Đấng hóa thân và đặt trên một chiếc ngai cũng bằng vàng. Theo tiết lộ của vị Lạt Ma Lobsng Rampa, hiện có 98 xác ướp mạ vàng ở phòng các Đấng hóa thân, nhiều xác đã tồn tại từ thời kì tiền sử của nhân loại. Giống như những hình người bằng sáp trong Viện bảo tàng ở Luân Đôn, những xác ướp này ngồi sắp hàng như những vị thẩm phán nghiêm minh và xuyên qua những đôi mắt hé mở, có vẻ như họ đang quan sát như sa đọa và tội lỗi của con người thời hiện đại.

Có thể nói rằng toàn bộ lịch sử bí ẩn của Tây Tạng gắn liền với các xác ướp có một ko hai trên.
 
Lời nguyền 3000 năm trước .

- Bài sưu tầm ( chỉ có công type thui ) -

Tháng 2 năm 1923 , một đàon khảo cố học người Anh đã đến khai quật phần mộ của pharaon Tuten Khamon ( Tutankhamun nhà ta ) , người qua đời cách đây 3000 năm . Đoàn khảo cổ học phát hiện nơi cửa mộ có khắc một lời nguyền : " Ai phá giấc ngủ của Pharaon, người đó sẽ về thiên cổ "

Kannap Sunge là người dẫn đầu đoàn thám hiểm , trước đó ông đã nhận được một bức thư nặc danh , trong thư viết : " Ông Kana Pomsonge , các ông không được vào phần một của Tuten Khamon , nếu không nhất định các ông sẽ nhận mọi hậu quả : lầm bệnh nặng vô phưong cứu chữa . Ông Sunge dĩ nhiên không tin ; và khi tháy lời nguyền ở cửa mộ , ông cũng chẳng e dè , sợ sệt . Thế nhưng , vào một buổi sách cách ngày khai quậy không lâu , ông tỉnh lại trong phòng khách và chỉ thốt đúng một câu : " Tôi khó chịu quá " , và đếm đó ông mất trong đau đớn . Theo lời bác sĩ , nguyên nhân gây ra cái chết của ông là do một loài muỗi độc cắn . Và một đềiu kỳ lạ nữa, vết muỗi cắn trên người ông lại ngẫu nhiên trùng hợp với vết đen trên xác ướp của pharaon Tuten Khamon .
Kể từ sau sự kiến này , những cái chết kì bí khác không những không chấm dứt hẳn mà ngượic lại thần chết liên tiếp gõ cửa nhiều nhà khoa học . Tỏng số đó có một chuyên gia về phóng xã , ông đã từng chụp X quang cho xác ướp một pharaon , kết quả là sau đó ông bị đau đớn khắp người và không bao lâu sau thì qua đời . Ông Richard Peter , một thành viên trong đàon của ông Sunge , đã qua đời trong phòng ngủ do chứng bệnh gan bộc phát đột ngột . Nhà khoa học người ANh , Grior Woor , là người tham gia trong đợt đầu tiên khám phá các ngôi mộ thất của các Pharaon cũng có chung số phận , ông bị sốt cao và qua đời cách ngày tìm kiếm không lâu .
Nửa thế kỉ sau , một đài truyền hình đã bí mật phỏng vấn người duy nhất may mắn còn sống sót trong đoàn ông Sunge - là Richard Adamson , ông cho biết : " Tôi không tin vào những chuyện vớ vẩn này " . Thế là khi đang trên đường từ đài truyện hình về nhà , xe ông đam vào một xe tải .
 
Ý nghĩa của những chữ cái

Bạn chớ có tưởng rằng chỉ có chữ Hán và chữ Ả Rập cổ mới là thứ chữ tượng hình.Ngay cả mẫu tự Latinh ta đang sử dụng cũng có nguồn gốc từ chữ tượng hình.
Để hình thành nên chữ cái hiện đại ngày nay,chúng đã trải qua một quá trình “tiến hoá” khá thú vị.Cách đây hơn khoảng 3500 năm để viết được một từ hay một cái tên,con người thời xa xưa đã dùng hình ảnh của các sự vật quen thuộc để diễn tả như con lạc đà,bò mộng hay ngôi nhà… những bộ phận trên cơ thể (đầu,tay…) mửi một hình ảnh như vậy tượng trưng cho một chữ cái và chúng cũng mang một ý nghĩa nhất định.Do tính phức tạp của các hình vẽ,người ta dần lược bớt các nét vẽ cho đến khi chúng trở thành biểu tượng.Tiếp tục một quá trình lượt bớt nữa,chúng ta có được những chữ cái như ngày nay.

---Ý nghĩa của các chữ cái theo tự dạng Latinh mà chúng ta đang sử dụng:

---Chữ cái ==> Bắt nguồn từ hình ảnh ==> Ý nghĩa


A ==> đầu bò ==> chỉ sức mạnh,lòng khoan dung,trí tuệ,sự khởi đầu.
B ==> ngôi nhà ==> chỉ tính nội tâm khép kín đồng thời cũng chỉ sự đón tiếp,lứa đôi,gia đình và cả tính năng động nữa.
C ==> lạc đà ==> chỉ sự hiền lành chín chắn,khôn ngoan.
D ==> cánh cửa ==> chỉ sự dồi dào,giàu có ( hậu vận “khá” đấy)
E ==> con người ==> chỉ sự nhân đạo,hạnh phúc,cảm hứng,năng lượng.
F ==> cái đinh ==> chỉ sự tự nguyện,các mối quan hệ,giao tiếp.
G ==> 2 thanh kiếm bắt chéo ==> tượng trưng cho quân đội,xung đột, đối đầu.
H ==> thành luỹ ==> chỉ năng khiếu chung thủy
I,J ==> bàn tay ==> năng khiếu,sự trao đổi,sự thống nhất,sự hạnh phúc.
K ==> lòng bàn tay ==> chỉ việc thiện,buôn bán,sự phồn thịnh,hoà bình.
L ==> ngòi chích của ong ==> chỉ sự sáng tạo,khả năng tiến lên cao,năng động,thông minh.
M ==> nước ==> nguồn gốc,sự chuyển động,sự năng động.
N ==> con cá ==> sự bạo dạn,cá tính,sự hạnh phúc,giàu sang.
O ==> con mắt ==> sự tin đời,năng khiếu hùng biện.
P ==> cái miệng ==> nói nhiều,thần giao cách cảm.
Q ==> khối lượng ==> lạnh lùng,sự xa cách,sự trống rửng.
R ==> cái đầu ==> chỉ con người tri thức và có định hướng.
S ==> cái răng ==> chỉ khả năng phân tích,sự say mê tìm tòi nghiên cứu.
T ==> cái khiên ==> chỉ sự gặp gỡ hay tiếp xúc một quá trình.
U ==> cái đinh ==> giống chữ F
V ==> cái đinh ==> giống chữ F
W ==> những cái đinh ==> những cái đinh
X ==> cái thang ==> sự giúp đỡ, ủng hộ.
Y ==> mu bàn tay ==> giống chữ I
Z ==> thanh kiếm ==> giống chữ G

Ví dụ:

Từ Mẹ: M chỉ nguồn gốc,chữ E chỉ sự hạnh phúc,sum vầy.Mẹ là người sinh ra ta luôn nâng niu,chăm sóc và mang đến hạnh phúc cho chúng ta.

Tên Nhiên ...

==> là một người không ưu sự ồn ào,náo nhiệt.thích tự giam mình trong phòng nghe nhạc, đọc sách và cả ngủ nữa ( chữ H ).Có một gia đình hạnh phúc,có một chút tài lẻ ( chữ I ).Luôn muốn mình là người có ích vì vậy rất hay làm việc thiện.Nhờ có chút âm đức đó mà luôn được hạnh phúc,giàu có….

--ST--
 
Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới



Bác sĩ Alizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được".

Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Ðược thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Ðang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.

Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Ðây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Ðiều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Ðến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Ðiều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú v.v.... Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hủ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Ðừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Ðời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.

Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Ðiều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.

Bác sĩ Henri Desrives.

* Nhà văn Nguyên Phong biên soạn và dịch thuật.
 
Vì sao nụ cười của Mona Lisa bí ẩn?

Những sắc thái tình cảm khác nhau trên mặt nàng Mona Lisa khi có các nhiễu thị giác.
Trong nhiều thế kỷ, các họa sĩ, sử gia và khách du lịch bị hút hồn bởi nụ cười mỉm hư ảo của nàng Mona Lisa. Giờ đây, dường như sức mạnh thôi miên trong kiệt tác của Leonardo da Vinci lại nằm ở một điều không ai ngờ tới: những rối nhiễu ngẫu nhiên trong hệ thống thị giác của con người.

Christopher Tyler và Leonid Kontsevich tại Viện nghiên cứu mắt Smith-Kettlewell ở San Francisco (Mỹ) đã điều chỉnh một bức ảnh kỹ thuật số được chụp lại từ bức tranh này, bằng cách bổ sung vào đó các nhiễu loạn thị giác - giống như những vết nhiễu trên một kênh tivi kém. Sau đó, họ yêu cầu 12 người quan sát đánh giá cảm xúc của nhân vật trên tranh, phân theo 4 bậc, từ buồn rầu tới hạnh phúc.

Đúng như dự đoán, các vết nhiễu làm rìa môi của Mona Lisa nhếch lên khiến nàng trông hạnh phúc hơn, còn những vết nhiễu kéo phẳng đôi môi lại tạo cho nàng một vẻ buồn bã.

Tyler cho biết, hệ thống thị giác của chúng ta bị nhiễu bởi nhiều nguồn, như: số lượng photon ít nhiều đập vào các tế bào cảm nhận ánh sáng trong mắt, hoạt động sai lệch ngẫu nhiên của các sắc tố hấp thụ photon, và sự loé sáng ngẫu nhiên của các nơron có nhiệm vụ mang tín hiệu thị giác tới não.

Những nguồn nhiễu tự nhiên này khiến cho người quan sát tin rằng sắc thái tình cảm của nhân vật trên tranh đang thay đổi phảng phất, mà không nghĩ rằng thực sự cái mà họ nhìn thấy chỉ là một dạng biểu lộ song mơ hồ.

"Đó có thể là một phần tạo nên sức mạnh huyền bí của bức tranh" -ông nói - điều mà Leonardo chắc phải nhận ra theo bản năng.

B.H. (theo NewScientist)
 
NHỮNG VÒNG TRÒN BÍ ẨN TRÊN CÁNH ĐỒNG LÚA MẠCH, CÁNH ĐỒNG NGÔ


Vào 19/1/1966, tại miền Bắc bang Queensland của Australia ng` ta phát hiện ra 1 hiện tượng kì lạ. Trong lòng 1 vùng hồ cạn rất nhiều cây lau sậy bị nhổ bật cả rễ, nếu đứng từ trên cao nhìn xuống thì những cây cỏ hỗn loạn kia lại được xếp thành 1 vòng tròn lớn rất có qui củ. Những thân cây sậy nằm trong vòng tròn đều đổ rạp theo hướng chiều kim đồng hồ những cây sậy nằm ngoài vòng tròn thì vẫn đứng vững.

...Vào trung tuần tháng 6 năm 1986, kỹ sư về hưu Digalo và nhà văn Anderos nghe nói giáp vùng Winchester gần đây liên tiếp xuất hện những hiện tượng kì lạ. Với trí tò mò sẵn có họ đem theo các dụng cụ cần thiết để quan sát hăng hái lên đường tìm ra bí ẩn. Đến nơi, họ chọn địa điểm nghên cứu là 1 cánh đồng ngô cuối sườn núi nằm ở phía đông bắc, quanh cánh đồng họ lắp các thiết bị ghi âm, máy ảnh và các máy móc khác sau đó mang theo ống nhòm họ trèo lên đỉnh sườn núi cắm trại tạ đó bắt đầu theo dõi ko kể ngày đêm...Đã 21 ngày qua cả khu vực ko có hiện tượng lạ nào. Nhưng vào buổi sớm trước bình minh ngày 7/7 khoảng 4h sáng mây càng lúc càng mù mịt tiếp đó là mưa dầm. Khi mặt trời lên thì mưa đồng thời cũng tạnh. Hai nhà thám hiểm bất ngờ phát hiện ra cách họ khoảng 300m trong cánh đồng ngô trước mặt, 1 vòng tròn khổng lồ hiện rõ mồn một. Những thân cây ngô nằm trên vòng trong đều bj đổ rạp 1 cách kì lạ theo chiều kim đồng hồ theo 1 vòng xoáy chính xác. Những cây ngô nằm cạnh vòng tròn đều ko bị ảnh hưởng. Hai người vừa phấn khởi vừa bối rối. Trong thời gian vừa qua họ luôn chú ý quan sát cánh đồng, ko phát hiện thấy có ng` hay loài thú nào xuất hiện, cũng ko có 1 đợt gió lốc nào cả...
Vậy thì vòng tròn đó đã xuất hiện lặng lẽ bí hiểm như thế nào đây?

Ngày 4/6/1991, 6 nhà khoa học say mê tìm hiểu bí ẩn về các vòng tròn kì lạ đã tìm đến ngoại ô thành phố Dilshens, họ cắm trại trên ngọn núi Mogen có độ cao trung bình, lắp đặt thiết bị thu sóng vô tuyến và máy tính điện tử, dưới cánh đồng dưới chân núi họ lắp đặt nhiều thiết bị hiện đại như: máy quan sát ban đêm bằng tia hồng ngoại, máy chụp ảnh tự động, camera, máy ghi âm....
Đã 3 tuần kể từ khi họ cắm trại tại đây nhưng những vòng tròn bí ẩn vẫn ko chịu xuất hiện... Nhưng vào 29/6, 1 nhà khoa học qua thiết bị quan sát đã nhìn thấy trong 1 khoảng ruộng lúa mạch bốc lên những đám sương mù. Chẳng bao lâu cả 1 khoảng rộng đó bị khói mù dày đặc bao phủ. Các thiết bị quan sát vẫn làm việc, mọi ng`ai nấy đều tập trung vào màn hình quan sát tại phòng điều khiển. Sau khoảng 1 tiếng sương mù tan dần, 2 vòng tròn lớn hiện lên trên màn hình theo dõi. Họ kinh ngạc chạy xuống cánh đồng đến bên khoảng ruộng lúa mạch đó và thận trọng quan sát 1 vòng tròncos đường kính vòng ngoài là 61m, đường vạch rộng 2m, vòng tròn kia có đường kính còn lớn hơn, khoảng 85m đường vạch rộng 3m. Những cây lúa mạch trong vòng tròn đều đổ rạp xuống mặt đất theo chiều kim đồng hồ. Điều thú vị là cho dù bị đổ rạp xong ko hề có 1 cây nào bị gãy.

Theo thống kê chưa đầy đủ, trên thế giới từ trước đến nay đã phát hiện được hơn 2000 vòng tròn kì lạ trên cánh đồng, phần lớn là các hình tròn, elip, vòng tròn đồng tâm hết sức chính xác, vòng tròn lớn nhất có đường kính lên tới 600m, vòng tròn nhỏ nhất có đường kính chưa đầy 1m. Cây cỏ nằm trong vòng tròn kì lạ này chủ yếu chỉ bị đổ rạp chứ ko hề bị đè gẫy, sau 1 thời gian chúng lại có thể đứng thẳng trở lại. Nhưng kì lạ hơn là trong thời gian những cây này chưa đứng thẳng trở lại,nếu ng` hay súc vật đi đến gần vòng tròn đều cảm thấy rất khó chịu, Không chỉ có vậy, trong vòng tròn, các máy móc đều bị vô hiệu hóa, máy bay bay trên vòng tròn cũng bị ảnh hưởng khi ra khỏi đó lại trở về bình thường.

Nhiều năm qua, những vòng tròn kì lạ này luôn làm các nhà khoa học phải đau đầu, họ đã đưa ra rất nhiều giả thiết lập luận để giải thích với nhiều quan điểm khác nhau có người còn cho rằng đây là sản phẩm của đĩa bay và người ngoài hành tinh.

Nhà khoa học Nhật Bản, giáo sư Oki Hiroshi đưa ra quan điểm khác nhưng cũng có lí, ông cho rằng những vòng tròn bí ẩn xuát hiện trên những cánh đồng lúa mạch, cánh đồng ngô của nước Anh và hơn 30 quốc gia khác, nguyên nhân ko phải do các vật thể bay ko xác định( UFO), cũng ko phải do con ng` tạo ra do hiện tượng "quả cầu lửa đẳng ly" của tự nhiên.
Vị giáo sư này đã thực hiện thành công việc tạo ra quả cầu lửa này trong phòng thí nghiệm. Ông cho rằng cầu lửa là hình thức khi điện li có sức mạnh vô cùng lớn có sức nén và co dãn. Khi quả cầu lửa này tiếp xúc với bề mặt chiếc đĩa có phủ bột chì sẽ tạo nên rất nhiều vòng tròn đẹp mắt, những vòng tròn này giống hệt những vòng tròn bí ẩn mà ng` ta bắt gặp trên những cánh đồng.

Trong tự nhiên, những quả cầu lửa đẳng ly do nhiễu từ trường trong ko khí tạo nên dạng cầu lửa này xuất hiện nhiều nơi trên thế giới, khi được hình thành, chúng gâyu 1 sức ép theo phương đi xuống, đè bẹp những cây cỏ bên dưới, tạo nên những vòng tròn.

Vậy đây có phải là câu trả lời chăng ???


Vòng tròn bí ẩn kể từ khi được công khai trên báo chí năm 1980, đã tạo nên những dư luận khác nhau trên thế giới. Vậy hiện tượng này là do đâu bàn tay con ng` hay là của ng` ngoài hành tinh. Dưới đây là 1 số vòng tròn khác nhau.

XEM HÌNH RÕ HƠNhere
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Hay! hay quá!
Cái topic này hay quá!
Sao ko ai vào nhể?
Tui thì chỉ biết những chuyện bầy ra trước mắt thui!
 
Công nhận cái topic này hay nhưng hiếm khách, có lẽ vì bạn ấy viết hơi dài nên nhìn hơi ngại. Có ai muốn biết các phong tục kì quái ở các nơi không? :) (tui viết lên cho)
 
Viết nhanhh lên đe!
Ở gần nhà tui hay có tai nạn giao thông lắm!
Dạo này cũng có mấy người treo cổ!
Ko hiểu có phải ma ám ko nữa!>_<
Ko hiểu bao h đến lượt tui ra đi nữa!
Nếu mà có ma thì...
 
Sống chết có số mà :x không sao đâu
Ngày hội rắn ở Ấn Độ:
Được tổ chức vào ngày thứ năm tháng Kinđu (khoảng giữa tháng 7, 8), hội thiêng NôgaPanchami tôn vinh rắn, đặc biệt là loại rắn chúa-rắn mang bành. Sau những tháng hè khô nóng, những trận mưa rào đầu tiên làm các con sông đầy nước và loài rắn xuất hiện trở lại, vì vậy chúng được coi là biểu tượng của cuộc sống, của sự phì nhiêu và sinh sản(ngoài ra còn vì quan niệm việc rắn lột da chẳng khác gì Mặt trời vào buổi sớm rũ bỏ khỏi đêm đen-cái xấu, cái ác). :mrgreen:
Trước ngày hội, họ tiến hành chiến dịch săn rắn trên khắp các cánh đồng, thung lũng để tìm loại rắn thiêng nhưng không được làm hại chúng (vì như thế là điềm gở). Năm nào làng Shirala cũng bắt được gần 300 con rắn mang bành và hàng trăm loai rắn vô hại khác. :eek:
Vào ngày hội, trước khi Mặt trời mọc, dân làng kéo nhau ra sông cử hành nghi thức tắm, sau đó mang những bình vò đựng rắn đến đền thờ nữ thần may mắn Amba. Người lớn thì đội những bình vò chứa rắn thiêng còn trẻ con thì cho những con rắn lành quấn quanh cổ.Tại sân đền thờ lũ rắn thiêng được thả ra, chúng đung đưa trước tượng thần Samba trong tiếng cầu nguyện của đám đông vây quanh. Sau đó, đám rước diễu hành qua các con đường làng. Các cô gái trẻ cúi sát xuống lũ rắn đang lúc lắc đầu, rắc hoa lên đầu chúng. Người bản địa cho rằng được thấy rắn mang bành thì nhất định sẽ gặp may mắn. Không khí tôn giáo bến thành không khí hội hè, người khắp nơi đổ về. Buổi chiều, một đàn bò phủ những tấm vải óng ánh kéo theo những chiếc xe mà bên trên đặt những mảnh ván phẳng, ngất ngưởng những con rắn mang bành cổ bạnh ra, vươn cao đầu lắc lư. Không khí náo nức còn kéo dài đến đêm khuya. =D>
Sáng hôm sau, rắn được trang trọng mang ra ngoài cánh đồng thả, trao trả lại cho thiên nhiên. Ngày hội rắn kết thúc song niềm vui, hi vọng gặp may mắn còn sưởi ấm tâm hồn người dân đến tận năm sau. Ở Shirala, người ta khẳng định là chưa bao giờ có người nào bị rắn cắn…
(theo báo Pháp Science illustré, 5-1992)
 
Hay!
Nhưng chưa bao h bị cắn tui thấy cũng tài cho mấy ng` đó!
 
Back
Bên trên