Nhân dịp ăn Tết sớm, nhớ cái Tết Mậu Thân

Nguyễn Lý Hiền Nga
(emNga)

Điều hành viên
năm nay Việt Nam ăn Tết trước người Tàu 1 ngày. cực kỳ lúng túng khi đi chúc Tết dân Tàu, tớ lòng vòng và phát hiện ra bài viết này, liên quan đến việc tính lịch âm, và sự kiện Tết Mậu Thân 1968. (giải thích hiện tượng ăn Tết sớm ở link này: http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/calrules_en.html)

http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/LichTa-DoanHung.html



Lịch Ta, Lịch Tàu và sự khác biệt

Đoan Hùng



Ngày 8/8/1967 chính phủ VNDCCH ra quyết định cải cách âm lịch. Qua sự cải cách đó tết Mậu Thân ở miền Bắc tới sớm hơn ở miền Nam (theo lịch cũ) một ngày ( 29/1/68 và 30/1/68). Đúng vào đêm 30 tết Mậu Thân quân đội cộng sản bất ngờ tổng tấn công trên khắp miền Nam, lúc đó ở miền Bắc đã là đêm mồng một tháng giêng. Hai sự kiện đó được sử gia Trần Gia Phụng liên kết lại trong bài "Lịch và Thơ giết người". Sự kiện cải cách lịch được ông chứng minh như là một âm mưu quân sự nằm trong toàn bộ kế hoạch tổng tấn công này. Sự "tính toán" của các lịch gia Hà Nội được sử gia TGP xem là "sai quy luật thiên nhiên" và "nói trắng ra, nhà cầm quyền Bắc Việt ra lệnh cho Nha Khí tượng Hà Nội là phải bớt đi ngày năm Đinh Mão để Tết Mậu Thân ở Bắc Việt sớm hơn một ngày ở Nam Việt theo lịch cũ". Từ đó nhiều sự kiện tưởng như nhỏ nhặt và thông thường như sự nêu ra quyết định số 121/CP trong sách lịch được sử gia Trần Gia Phụng xem như là vì "nha khí tượng sợ trách nhiệm về sau này trước lịch sử.." , hoặc sự kiện Nguyễn Xiển chỉ đạo việc sửa lịch được ông khẳng định là nhằm mục đích đen tối là trút trách nhiệm: "nếu có gì bất lợi phát hiện, thì Nguyễn Xiển và đảng Dân Chủ phải chịu trách nhiệm chứ Hồ Chí Minh và đảng LĐ không dính dáng đến việc sửa lịch".. Việc sửa lịch theo sử gia Trần Gia Phụng "còn gây những ảnh hưởng tai hại về sau này.." vì "..Việt Nam là một nước nông nghiệp. Đối với nhà nông Việt Nam, sự ghi chép lịch không đúng với quy luật thiên nhiên, đưa đến việc dự đoán sai thời tiết, gây trở ngại và thiệt hại lớn lao cho nông dân".



Muốn biết Hà Nội làm thế nào để.. ăn gian mất một ngày và "dối trời" ra sao, thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về lịch nói chung và lịch pháp Á Đông nói riêng cũng như mối liên hệ của nó đối với thời tiết và sự vận chuyển của thiên thể.



1. Đôi nét khái quát về lịch



Như ai nấy đều biết, đời sống của con người gắn bó mật thiết đến sự sáng tối, nóng lạnh, thời tiết và hiện tượng ấy bắt nguồn từ sự vận chuyển của trái đất, mặt trăng, và mặt trời. Sự vận chuyển "nghiêng góc" của trái đất quanh mặt trời quyết định thời tiết, mùa màng. Sự vận chuyển của mặt trăng quanh trái đất ảnh hưởng đến thủy triều, đến đời sống các sinh vật...Từ đó nảy sinh khái niệm ngày, tháng, năm, mà sự sắp xếp của nó theo một quy ước nào đó , hợp với thiên nhiên là lịch.



Giá như tạo hóa dựng nên trời đất với bàn tay chính xác của.. một người thợ đồng hồ để cho một tháng chẵn chòi 28 ngày, một năm chẵn 12 tháng thì hẳn "tiện" cho loài người biết bao! Đằng này mặt trăng quay quanh trái đất theo chu kỳ 29.530588 ngày, trái đất chu du quanh mặt trời mất 365.2422 ngày. Và dĩ nhiên là con người chẳng thể sống với quy định là "tháng x bắt đầu từ ngày y lúc z giờ" được! Tóm lại lịch phải "làm chẵn" các chu kỳ tự nhiên. Khi làm chẵn tất sinh ra sai lệch, và muốn lịch không sai với tự nhiên thì phải chỉnh lại sau một thời gian và ấy là phép "nhuận".



Dương lịch bỏ qua số lẻ của trăng mà chỉ giải quyết phần "dương". Một năm có 365 ngày, ngắn hơn năm thời tiết 0.2422 ngày. Cứ 4 năm thì bù thêm một ngày vào năm nhuận để chỉnh lại cho hợp thời tiết. Như thế thì lại hơi dài nên cứ 300 năm lại bỏ đi ba năm đáng nhuận trở thành năm thường. "Thuần" âm lịch ,như lịch Á Rập, bỏ phần "dương" và chỉ làm chẵn phần lẻ của tuần trăng với quy định tháng đủ, tháng thiếu lần lượt bù trừ cho nhau. Một năm có 12 tháng và ngắn hơn năm thời tiết. Vì không được chỉnh lại, nên năm âm lịch không còn dính dáng đến thời tiết.

Âm lịch dùng ở Đông Á thực ra là âm-dương lịch. Bởi nó bao gồm cả hai yếu tố âm và dương. Các lịch gia trải qua bao đời đã tìm cách "khớp" cả hai số lẻ (số ngày trong tháng, số tháng trong năm). Và vì phải tìm ra phương cách để làm chẵn cả hai số lẻ (thay vì một như dương lịch) nên phép nhuận của âm-dương lịch phức tạp và khó nhớ hơn dương lịch. Năm âm lịch với 12 tháng ngắn hơn năm thời tiết khoảng 11 ngày, sau khoảng 2-3 năm thì phải chỉnh lại bằng cách thêm một tháng nhuận. Như thế năm ấy có 13 tháng.



Khi ta làm chẵn số lẻ, tức nhiên là đã chấp nhận một sai số tối đa là vào hàng đơn vị tính toán. Âm-dương lịch làm chẵn tháng với đơn vị ngày và năm với đơn vị tháng nên: Sai số tối đa của tháng đối với tuần trăng là một ngày và của năm đối với năm thời tiết là một tháng. Đơn vị nhuận của dương lịch là ngày, nên năm dương lịch chính là năm thời tiết với sai số một ngày. Như thế phải chăng âm-dương lịch thiếu chính xác so với dương lịch? Nếu chỉ căn cứ vào tháng theo kiểu "tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà.." thì hẳn cả thế giới Đông Á phải.. tiệt chủng vì đói do mất mùa liên tục!



2. Năm, Tháng, Ngày, Khí trong âm lịch



Thực ra âm-dương-lịch rất chính xác và chi ly! Nói về tháng là chỉ nói chừng chừng, đại khái mà thôi. Còn chính xác hơn về thời tiết thì đó là các thời điểm KHÍ trong âm lịch mà người nông dân dùng nó làm mốc mà gieo, cấy, gặt... Chẳng hạn như giở âm-dương-lịch ra thì ngày hôm nay là ngày 14/2/2001 tức ngày Đinh Sửu, 20 tháng 12, Kỷ Sửu năm Canh Thìn, KHÍ Đại Hàn. Tìm hiểu kỹ hơn ta sẽ thấy trong âm dương lịch có hai hệ thống tháng: tháng tuần trăng và "tháng" thời tiết (giữa các điểm khí). Muốn hiểu rõ hơn về hai hệ thống này cũng như cách sắp xếp ngày, tháng, năm, nhuận của âm-dương-lịch thiết tưởng chúng ta nên đi sâu vào định nghĩa của các khái niệm này cũng như mối liên hệ của nó với sự vận chuyển của "trời đất".



Một ngày bắt đầu từ điểm nửa-đêm và chia làm 12 giờ (Tý-Hợi) . Một giờ lại được chia thành hai khoảng: Sơ và Chính. Một ngày không bắt đầu bằng giờ đầu tiên là giờ tý mà ở điểm bắt đầu của chính tý. Giờ tý như thế có hai phần, nửa đầu thuộc ngày hôm trước. Nhìn kỹ lại ta thấy thực ra xưa cũng như nay ngày dều chia thành 24 khoảng. Chính Tý tương đương với 0 giờ, Sơ Sửu là 1 giờ sáng.



Tháng thể hiện sự vận chuyển của mặt trăng. Khi mặt trăng và mặt trời ở cùng một hướng đối với trái đất và xoay nửa tối về phía ta thì gọi là thời điểm SÓC (nghĩa là trăng sống lại). Khi nó ở hướng ngược lại và xoay nửa sáng về phía ta thì gọi là thời điểm VỌNG (nghĩa là trông). Khi người ta quan sát chuyển động biểu kiến trên tinh cầu thì thấy nó chạy trên quỹ đạo gọi là BẠCH ĐẠO. Chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo, từ điểm sóc này đến điểm sóc tới gọi là SÓC-SÁCH. Ngày chứa điểm SÓC là ngày mồng một, là điểm gốc để bắt đầu một tháng. Số ngày trong tháng được làm chẵn thành tháng đủ 30 ngày và tháng thiếu 29 ngày.



Năm thể hiện sự vận chuyển của trái đất quanh mặt trời, hay về mặt thiên văn biểu kiến mà nói, thì mặt trời chạy vòng trên tinh cầu theo quỹ đạo gọi là HOÀNG-ĐẠO. Trên hoàng đạo có bốn điểm chính là xuân phân, hạ chí, thu phân và đông chí là các điểm mốc để phân định thời tiết. — điểm "phân" cuả xuân và thu ngày và đêm dài bằng nhau. — điểm "chí" của hạ thì (đối với bắc bán cầu) ngày dài (nhất) so với đêm còn ở điểm đông chí thì ngược lại. Đứng về mặt vị trí trái đất mà nói thì ở điểm hạ chí trái đất nghiêng bắc bán cầu vào phía mặt trời và điểm đông chí thì ngược lại. Từ bốn điểm mốc đó người ta phân nhỏ hơn thành 24 thời điểm gọi là KHÍ là các điểm mốc về thời tiết. Khí được phân làm hai loại: TIẾT là ngăn chia, và TRUNG là giữa. Như vậy ta có 12 trung khí và tiết khí xen kẽ nhau. Chính ở khái niệm khí này mà ta thấy trong âm lịch có một hệ thống phân bổ "tháng" (khoảng giữa hai điểm trung hay tiết) song hành với dương lịch, nghĩa là với năm thời tiết. Mỗi điểm khí có một ngày tương ứng trong dương lịch. Tên gọi các khí mang ý nghĩa về thời tiết hay muà màng.



Sau đây là một vài điểm khí trong năm với ý nghĩa, tính chất và điểm tương ứng của nó trong dương lịch (với sai số 1 ngày): Đông Chí (trung,giữa đông, 22/12) ; Tiểu Hàn (tiết, rét vừa, 6/1) ; Đại Hàn (trung, rét gắt, 21/1).Lập Xuân (tiết,đầu xuân,5/2) ; Vũ Thuỷ (trung,mưa nước,29/2) ; Kinh Trập (tiết,sâu bọ tỉnh dậy,5/3) ; Xuân Phân (trung,giữa xuân,20/3) ; Thanh Minh (tiết,trời trong,5/4) ...



Nếu xem 12 khoảng giữa các "tiết" hoặc "trung" như một hệ thống "tháng thời tiết" thì ta thấy âm-dương-lịch không khác gì với dương lịch. Ta có thể nói một cách khác là: trong âm-dương-lịch có hai hệ thống "tháng" : tháng tuần trăng và "tháng thời tiết" với độ dài hơi chênh nhau. Tuần trăng có 29.53 ngày và tháng thời tiết là 30.41 ngày (đây là số trung bình bởi vì mặt trăng và trái đất xoay có khoảng nhanh khoảng chậm, theo định luật thứ hai của Kepler). Vấn đề là đặt ra quy tắc để hai hệ thống tuần-trăng và thời-tiết song hành với nhau với độ chênh ít nhất như có thể. Quy tắc đó là phép NHUẬN.



Muốn hình dung ra phép nhuận chúng ta hãy tưởng tượng ra hai xâu chuỗi thời gian: chuỗi tuần trăng với các hạt là điểm sóc màu xanh, chuỗi thời tiết với các hạt là điểm trung-khí màu đỏ. Cầm hai chuỗi chập lên nhau ta sẽ thấy: mới đầu giữa hai hạt xanh thế nào cũng có một hạt đỏ, sau đó các hạt xanh do khoảng cách ngắn hơn dần dà di động thụt lui so với hạt đỏ, và đến một lúc nào đó sẽ có hai hạt xanh nằm gọn trong khoảng hai hạt đỏ. Khác với các khoảng khác, lúc này giữa hai hạt xanh không có một hạt đỏ nào. Nếu ta giả vờ "quên" không đếm khoảng ấy thì sự phân bổ các hạt cuả hai chuỗi bớt lệch đi và lại trở lại "song hành" như trước. Khoảng ấy gọi là "nhuận". Với nguyên tắc đó các lịch gia đặt ra quy tắc: Tháng không có trung khí là tháng nhuận. Tháng nhuận đó không tên gọi cũng như can chi riêng (nói cách khác: không được "đếm") mà mang tên của tháng trước với từ Nhuận ở kế bên. Thời xưa, ngày sóc tháng nhuận, vua không làm lễ cốc-sóc như mọi đầu tháng mà chỉ đứng ở cửa nhà cáo-miếu chứ không vào, vì thế chữ "nhuận" được viết là chữ "vương" là vua ở giữa chữ "môn" là cửa.



3. Do đâu có sự khác biệt?



Như thế ta thấy cách sắp xếp lịch dựa trên thời điểm của các "biến cố" về thiên văn. Các biến cố này tuy xảy ra cùng một lúc (thời gian tuyệt đối) nhưng lại được ghi lại bằng ngày, giờ là thời gian "tương đối", thay đổi theo vị trí (kinh độ) của điểm quan sát trên trái đất. Điều này dẫn đến tới vấn đề có tính nguyên tắc là: Cách ghi chép âm-dương lịch (sự phân bố ngày tháng năm) chịu ảnh hưởng bởi vị trí quan sát!



Lịch cho điểm A có thể khác biệt ( khác chứ không phải sai-biệt) với lịch cho điểm B nếu hai điểm không cùng kinh độ. Sở dĩ ở trên tôi dùng chữ "ghi" là cốt nhấn mạnh rằng cả hai tuy khác nhau nhưng không cái nào sai đối với thiên nhiên cả. "Khác" là khác cách ghi chép mà thôi! Nếu tôi nói nhật thực xảy ra lúc 15.20 phút (giờ California) thì người khác nói là nói xảy ra lúc 18.20 ở New York, thì không có ai sai ở đây cả. Tính chất này rất quan trọng mà ta cần biết khi muốn tìm hiểu âm-dương-lịch. — đây ta lại có vấn đề "sai số ở hàng đơn vị" khi "làm chẵn". Điều này dẫn tới: sự khác biệt của lịch ở hai nơi có thể lên đến một ngày hoặc thậm chí một tháng!



Thí dụ như thời điểm xảy ra SÓC được ghi nhận ở một điểm A vào lúc 15 giờ thì đối với điểm B cách đó 5 múi giờ về phía tây nó được ghi nhận là lúc 10 giờ. Điều đó không ảnh hưởng gì cả. Nhưng nếu nó xảy ra tại A vào lúc 2 giờ sáng thì đối với B lại là 9 giờ đêm ngày hôm trước. Điều này dẫn tới: Tháng này đối với B hụt mất trọn một ngày và trở nên tháng "thiếu" trong khi đó tháng lại "đủ" đối với B. Nếu tình cờ điểm "trung khí" cũng xảy ra ở ranh giới này thì sự khác biệt có thể là một tháng vì tại A là "nhuận" mà tại B thì không! Do sự khác biệt này xảy ra khi có sự trùng hợp khá đặc biệt của các biến cố thiên văn ở những điểm chuyển ngày, chuyển tháng. Vì thế về đại thể thì lịch tại hai nơi khác nhau phần lớn vẫn trùng hợp với nhau mà sự dị biệt chỉ là ngoại lệ.



Đến đây chúng ta có thể cùng nhau "lật tẩy" việt cộng trong sự gian dối về ngày tháng vào thời điểm tết Mậu Thân theo nguyên tắc của lịch pháp "Ngày chứa điểm Sóc là ngày mồng một". Ta biết: điểm gốc quan sát của lịch mới là múi giờ thứ 7 và của lịch cũ theo giờ Bắc Kinh hoặc theo múi giờ thứ 8. Dựa theo đó trong năm 1968 điểm SÓC của tháng giêng xảy ra vào lúc nào? Bằng cách nào cộng sản đã tự tiện bớt đi một ngày của tháng chạp năm đinh mùi như sử gia Trần Gia Phụng khẳng định?



Không có gì dối trá dược lâu dài dưới ánh sáng của.. internet! Chỉ cần vào yahoo search engine kiếm khái niệm "new moon", chỉ sau 5 phút chúng ta có thể kiếm ra thời điểm SÓC vào đầu năm 1968 tại một web site [4] của U.S. Naval Observatory với số liệu như sau: Jan 29 , 16.29 UT (Universal time).

Như vậy điểm SÓC xảy ra ở múi giờ 7 (kinh độ 105 đông) vào lúc 23.29 ngày 29/1 và ở múi giờ 8 (kinh độ 120 đông) vào lúc 0.29 ngày 30/1. Phiền quá! Chẳng lẽ các lịch gia Hà Nội tính.. đúng theo thiên văn!? Ngày mồng một (chứa điểm SÓC) như thế ở múi giờ thứ 7 là ngày 29/1 dương lịch và theo múi giờ thứ 8 là ngày 30/1. Tháng chạp năm Đinh Mão theo giờ Việt Nam trở thành "thiếu" mà ở Bắc Kinh hay theo lịch "cũ" thì lại là "đủ".



Năm 1985 tết Ất Sửu sớm hơn một tháng và theo sử gia Trần Gia Phụng điều đó khiến cho "lá cao su chưa rụng" và công nhân đồn điền phải nghỉ thêm một tháng. Điều này được sử gia xem như một minh chứng đó là "ảnh hưởng tai hại lâu dài về sau này" của "việc đổi lịch và chép lịch sai với những quy luật thiên nhiên". Nếu chấp nhận luận cứ của sử gia là đúng thì tất nảy ra một câu hỏi "cắc cớ" như sau: Nếu đằng nào cũng là sai với thiên nhiên mà lịch gia Hà Nội ăn gian bớt mất đi một ngày ở năm 1968 thì tại sao họ không rình rình lúc không ai để ý để mà.. len lén nhét đại vào thêm một ngày một năm nào sau đó sao cho lịch trở lại như xưa? Ăn vụng thì phải biết chùi mép! Cớ sao họ lại để cho sự "sai lầm" tiếp diễn khiến cho đến 1985 nó "sai" hết một tháng! Vậy ta hãy kiểm lại thời gian 1984/1985 về mặt thiên văn.



Để dễ hiểu chúng ta cần nhớ lại quy định của lịch pháp "Tháng không có trung khí là tháng nhuận" và biết thêm quy tắc giả-nhuận: "nếu trong vòng 20 tháng trước đó đã có tháng nhuận thì tháng đó là giả-nhuận, nghĩa là không tính là nhuận nữa". Năm Giáp tý (1984) theo múi giờ thứ 7 tất cả các thời điểm trung khí lọt vào tất cả khác tháng, nên ở VN năm đó là năm thường. Trong tháng 12/1984 có một sự "trùng hợp oái oăm" xảy ra:



1) Điểm SÓC xảy ra lúc 11.47 UT ngày 22/12 (theo web site [4]), tức là ở VN lúc 18.47 và ở TH 19.47 cùng ngày. Ngày 21/12 như thế là ngày cuối của tháng 11 âm lịch của ta cũng như tàu.

2) Trung khí Đông Chí (winter solstice) xảy ra vào lúc 16.23 (UT) ngày 21/12/84, có thể xem ở web site [5]. Như thế ở VN là lúc 23.23 ngày 23/12 tức ngày cuối tháng 11 âm lịch, mà ở bên TH đã là 0.23 ngày đầu tháng sau! Tháng 11 VN như thế có trung-khí mà ở TH thì KHÔNG! Bởi thế cùng tháng ấy mà ở VN là tháng 11 thường, ở TH là tháng 10 NHUẬN. Bước sang ngày 22/12 thì ở VN là đầu tháng chạp mà ở TH thì còn là đầu tháng 11! Ngày Tết do lẽ đó mà chênh nhau một tháng.

Quy luật "nhuận" có tính "bù trừ" nên lịch sẽ "tự chữa" sau đó không lâu. Trung khí xuân phân xảy ra ở Việt Nam vào lúc 23.08 giờ ngày cuối tháng hai, sang tháng sau thì lại không có trung khí nên Việt Nam có tháng hai nhuận. Cùng điểm xuân phân đó lại xảy ra ở Trung Hoa vào lúc 0.08 giờ ngày đầu tháng hai làm cho tháng giêng không có trung khí. Tháng giêng ở Trung Hoa lẽ ra cũng phải nhuận nhưng vì vừa mới nhuận ba tháng trước nên theo quy tắc giả-nhuận nó trở thành tháng thường. Do được bù trừ như thế mà từ tháng ba Ất Dậu trở đi hai lịch lại ăn khớp với nhau như trước. Xin tóm gọn sự khác biệt giữa hai lịch trong khoảng thời gian này theo một "chuỗi" như sau ( mỗi ngoặc đơn là một tháng , số trước là tên tháng Việt Nam, số sau là Trung Hoa) :

[ 10 - 10 ) - ( 11 - 10 Nhuận ) - ( 12 - 11 ) - ( 1 - 12 ) - ( 2 - 1) - ( 2 nhuận - 2 ) - ( 3 - 3 )



4. Đôi điều nhận xét



Tóm lại sự khác biệt của lịch là do điểm quan sát mà các lịch gia Hà Nội đã viết trong "Lịch thế kỷ XX" như sau:

"Phần này tính căn cứ theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội Đồng Chính Phủ. Đã tính tất cả 792 ngày tiết và 408 tháng âm lịch, trong đó có 217 tháng đủ, 191 tháng thiếu, 12 tháng nhuận. Trong thời gian 33 năm sắp tới trên thế giới sẽ xảy ra 73 nhật thực và 48 nguyệt thực: — nước ta sẽ trông thấy 10 nhật thực và 29 nguyệt thực. Ngày tháng âm lịch trong thời gian nói trên đều tính theo giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7. Nó khác với lịch cũ hoặc tính theo giờ Bắc Kinh (Vạn Niên Thư) hoặc tính theo múi giờ thứ 8 (Nhị bách niên lịch biểu). Cụ thể là từ 1968 đến năm 2000 có tất cả là 29 ngày tiết và 26 tháng âm lịch thiếu, đủ khác vời lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với lịch cũ, ngày tết Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày. Ngày tết Ất Sửu (1985) sớm hơn một tháng... Các tư liệu lịch sử cũng như các phần tính toán trong lịch đã được thẩm tra qua nhiều tư liệu trong nước và nước ngoài..".



Tôi không có "Lịch thế Kỷ XX" trong tay và chỉ trích lại qua bài của sử gia Trần Gia Phụng. Đoạn văn trên khá chi tiết đủ để chúng ta nắm một cách đại lược công việc của các lịch gia cũng như điểm mốc mà họ dùng. Không hiểu sao sử gia TGP trích dẫn mà không hề chú ý đến những chi tiết rất quan trọng về mặt lịch pháp đó? Mà như ai nấy đều biết, lịch pháp là một "công cụ" vô cùng quan trọng trong sử học. Cần phải minh định rằng tôi không có ý định "bào chữa cho Hà Nội" hay khẳng định rằng sự sửa lịch và tổng tấn công Mậu thân không có liên quan gì đến nhau. Tôi tôn trọng ý kiến của ông như một "nghi vấn lịch sử". Chỉ có điều là chúng ta đang bàn về lịch sử mà sử học cần có sự chính xác nhất định của nó. Nhất là khi vấn đề cụ thể chúng ta đang bàn dính dáng về lịch pháp, một lĩnh vực có thể "đo" và "tính" được. Chỉ xin phép được bàn phiếm thêm rằng, nếu như đó quả là một âm mưu có dự tính trước thì tất nó phải đến từ một "quân sư", và người này phải nắm vững quân sự, thiên văn học, lịch học để "biết trước" điểm sóc xảy ra vào cuối năm Kỷ Mùi là một trường hợp thiên văn khá hi hữu, lại phải kết hợp thêm điều kiện "múi giờ" thì.. vân vân.. và lợi dụng nó vào mục đích quân sự. Nếu như ta biết rằng điều đó chẳng phải là đơn giản mà chính các chuyên gia có thể không biết về nó, ngay cả "sau khi" đã đọc lịch. Một quân sư "trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý" theo kiểu "tam quốc chí" như thế có thể có thực trên đời được chăng?



Cho dù các lịch gia Hà Nội có ý đồ hay âm mưu gì đi nữa thì họ vẫn viết lịch đúng theo lịch pháp và thiên nhiên. Chỉ có thể chứng minh rằng họ sai nếu như ta có thể xác quyết được rằng: lịch phải được tính từ điểm mốc là Bắc Kinh và không được dời đi đâu hết! Dời đi thì nó sai! Nhưng nếu như thế thì lịch pháp ấy chỉ đúng với.. Trung Hoa mà thôi, và ta dùng nó làm gì? Ngay chính Trung Hoa cũng không ngần ngại gì khi thay đổi điểm quan sát, thí dụ như từ năm 1929 họ quy định lại mốc quan sát là múi giờ thứ 8 (kinh độ 120 Đông) thay vì Bắc Kinh ở kinh độ 116.466. Sự chênh lệch khoảng 3 độ rưỡi về kinh độ dẫn đến sự chênh lệch khoảng 14 phút về thời gian. Nếu như các biến cố thiên văn xảy ra trong khoảng nửa đêm +- 14 phút thì sự khác biệt về lịch mới, cũ cũng sẽ phải xảy ra ngay chính với bản thân Trung Hoa. Nhật Bản, từ năm 1684, cũng bắt đầu dùng kinh tuyến nước mình làm mốc cho lịch với sự tính toán của các lịch gia Shibukawa, Yashitomi.. Và nếu ta công nhận rằng có thể đổi điểm quan sát thì tất phải dẫn đến kết luận: Dùng múi giờ thứ 7 cho lịch Việt là hợp lý và không có gì là sái với thiên nhiên cũng như lịch pháp.



Trở lại mối liên hệ giữa năm và năm thời tiết thì như trên đã viết: Tháng chỉ có thính "chừng chừng đại khái" so với thời tiết. Trong một năm chỉ có tháng 11 (tháng tý, đầu chi) là có thể nói là "khớp" nhất đối với thời tiết. Lịch pháp quy định: Ngày đông chí phải luôn luôn nằm trong tháng Tý. Muốn thế lại phải có ngoại lệ cho quy luật nhuận: Nếu tháng đáng nhuận lọt vào tháng 11 hay 12 (tý,sửu) thì là giả-nhuận, tức là đẩy tháng nhuận ấy vào năm sau, ở tháng thứ ba. Làm như thế để "cột" tháng vào thời tiết, sao cho không chệch nhau quá đáng. Như thế ta thấy, ở khoảng đầu năm, nếu so với "trung bình" thì tháng sẽ du di, sớm trễ khoảng 15 ngày. Ngày tết bởi thế cũng xê dịch trong khoảng 21/1 đến 20/2 dương lịch. Để ý là trong năm Giáp Tý (1984) ngày đông chí rớt vào đầu tháng 11 ở Việt Nam và và ở Trung Hoa là vào cuối tháng. Do đấy mà tết ở Việt Nam sớm nhất và ở Trung Hoa trễ nhất trong khoảng "giới hạn cho phép". Nói cách khác không phải là theo lịch mới tết tới quá sớm so với cũ mà phải nói cả hai đều đi đến điểm giới hạn "sớm quá" và "trễ quá" so với trung bình. Cả hai đều "sai" khoảng +- 15 ngày. Kiểm sang các năm khác thì thấy theo lịch cũ tết năm 1966 cũng vào ngày 21/1 DL, và năm nay vào ngày 24/1 (cả cũ lẫn mới), đều đến rất sớm so với thời tiết. Cây cao su năm 1966 hay 2001 có chịu rụng lá chưa? Câu trả lời có lẽ nên dành cho các nhà thảo mộc học.



"Mới" và "cũ" chênh nhau như thế, cả hai đều chênh với thời tiết, vậy ta phải "đọc" lịch như thế nào cho đúng? Thiết tưởng rằng nếu có vấn đề nào đó liên hệ chỉ với mùa (tức là với mặt trời) như cấy, gặt.. thì người ta phải căn cứ vào khí, nếu chỉ liên hệ với trăng như thủy triều, con nước.. thì phải căn cứ vào tháng, và nếu liên hệ đến cả hai thì phải biết cách kết hợp. Ăn thua là biết cách đọc lịch, chứ cả hai đều ghi lại theo thiên nhiên cả. Xin lấy một ví dụ trên thực tế ở quê tôi, miền trung, thì trước khi có lúa thần nông, người nông dân căn cứ vào ngày đông chí để bắt đầu ngâm thóc giống mà gieo mạ. Sau một tháng năm ngày thì bắt đầu cấy mạ mất khoảng năm, mười ngày. Vị chi khoảng gần một tháng rưỡi khổ công dưới tiết mùa đông lạnh buốt. Xong việc thì cũng thường thường là vào mùa tết và "tháng giêng là tháng ăn chơi". Cứ theo quy trình đó thì ở năm 1985 theo lịch mới nông dân quê tôi phải cấy trong cả các ngày tết! Và theo lịch cũ họ lại ở không đến khoảng hai tuần chờ tết! Ấy là nói ví dụ thôi, chứ ở thời điểm 1985 thì đã có lúa thần nông và người ta đã có thể "xạ" thẳng mà không qua quá trình gieo mạ nữa.



Chúng ta đang ở vào mùa xuân, để làm cho bài bớt "khô" và nặng nề tôi xin kể cùng bạn đọc một ví dụ về lịch và.. thơ. Ai trong chúng ta chẳng biết câu thơ của thi hào Nguyễn Du: "Thanh Minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh". Lẩn thẩn tôi tự hỏi rằng.. Nguyễn Du nói có "đúng" không và lục tìm trong lịch [6] vào những năm mà nàng Kiều có thể sống, nghĩa là "rằng năm Gia Tĩnh triều Minh" ( 1522-1567 ) , thì thấy thi hào ta đã "sai" đến khoảng 25 % ! Nghĩa là trong khoảng 45 năm ấy có đến 12 năm tiết thanh minh nằm trong tháng hai! Hoặc giả nếu Nguyễn Du chỉ tả cụ thể ngày nàng Kiều du xuân thì ta có thể làm.. nhà trinh thám mà loại suy rằng nàng chẳng thể gặp chàng Kim vào các năm Gia Tĩnh thứ 5,7,10,12,14... Viết đến đây tôi nghe văng vẳng như có tiếng thi hào mắng mỏ: Kẻ hậu sinh láo toét! Chẳng lẽ mi muốn "hiệu đính" thơ ta thành "Thanh Minh trong tiết tháng hai.. cho đến đầu tháng ba"? Và tôi, mồ hôi toát đầy trán mà tạ rằng: Ấy là con nói nhăng về lịch thôi mà!



Nói về sự khác nhau giữa "mới" và "cũ" chúng ta có thể tự hỏi: "Cũ" là cũ thế nào? Phải chăng đây là lần đầu tiên lịch "ta" chệch với lịch "tàu"? Xem kỹ lại thì thấy "cũ" thật ra không cũ gì lắm! Nghĩa là chỉ từ năm 1813 khi triều Nguyễn quyết định dùng phương pháp Lịch Thời Hiến mà ban hành lịch Hiệp Kỷ. Sau 1945 không còn cơ quan "khâm thiên" nữa thì lịch "cũ" thực chất ra là lịch Tàu. "Cũ" hơn nữa thì Lịch Ta không hoàn toàn ăn khớp với lịch Tàu. Lịch thời Lý khác lịch Tống đương thời. Trong khoảng từ đầu thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII lịch hai nước giống nhau. Sau đó lại khác nhau cho đến 1813. Đó là kết quả một công trình nghiên cứu công phu của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn [2], mà người viết bài này hy vọng có dịp trình bày trong một bài khác.



Đoan Hùng



Thư Mục:

Tác phẩm [2] của GS HXH viết rất chi tiết về lịch pháp. Vấn đề năm 1985 được giáo sư đề cập trong [3]. Ngoài ra ta có thể tìm các quy tắc của âm lịch trên rất nhiều web site.



[1] La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I, NXB Giáo Dục, 1998

[2] Lịch và lịch Việt Nam, trong [1] trang 851.

[3] Năm Ất Sửu cầm tinh con trâu hai đầu?, trong [1] trang 357.

[4] http://riemann.usno.navy.mil/AA/data/docs/MoonPhase.html

[5] http://einstein.stcloudstate.edu/Dome/equiSol.html

[6] http://www.sinica.edu.tw/~tdbproj/sinocal/luso.html



==============================

Trong bài này tôi dùng italic khi:

1/ trích dẫn

2/ nhấn mạnh

3/ các "quy tắc lịch pháp"

Đoan Hùng

* * *
 
Có người vứt bài vào thảo luận nghiêm túc thì mình cũng nên làm tí thảo luận không em nó lại ức ách vì không có đứa nào nhìn ngó.

Bài viết dày đặc kiến thức, tựa như một bài viết khoa học mà rất vô học.
Muốn biết Hà Nội làm thế nào để.. ăn gian mất một ngày và "dối trời" ra sao

Việc đổi lịch liên quan x gì đến ăn gian với dối trời. Theo cụ Hãn (mà tác giả đã nhắc đến tên mà không thèm nhắc đến bài nghiên cứu của cụ) thì lịch ta khác với lịch Tàu từ thời Lý (năm 1080)- thời kì đầu tiên nhà nước ta không phụ thuộc Bắc Tống. Ta với Tàu không trùng múi giờ, ta tính theo giờ ta mà Tàu chơi giờ Tàu (cái bọn dở hơi mà cả nước cùng 1 múi giờ, vô cùng phản khoa học khi đáng nhẽ nó phải có 5 múi giờ). Bọn VNCH thời đó chơi lịch Tàu, còn miền Bắc ta chơi lịch ta để giữ vững độc lập chủ quyền là quá chuẩn xác rồi. Ta với Tàu vì lệch pha nên khi tính nhuận có khác. Chính vì thế, lịch ta có lúc nhanh hơn nó 1 ngày, có lúc hơn nó 1 tháng, có khi lệch hẳn 1 năm.

Không có gì dối trá dược lâu dài dưới ánh sáng của.. internet! Chỉ cần vào yahoo search engine kiếm khái niệm "new moon"

Bỏ xừ, dạo này có nhiều nhà khoa học Gú nhở. Tính lịch ta mà chơi giờ Tây thì không hiểu bác có hiểu rõ công việc tính lịch hay không nữa.

Tạm thế đã, khi nào rỗi rãi hơn mình vào chửi tiếp (bài viết thể loại vô học là mình phải chửi đã mới hả)
 
Đúng vào đêm 30 tết Mậu Thân quân đội cộng sản bất ngờ tổng tấn công trên khắp miền Nam, lúc đó ở miền Bắc đã là đêm mồng một tháng giêng. Hai sự kiện đó được sử gia Trần Gia Phụng liên kết lại trong bài "Lịch và Thơ giết người". Sự kiện cải cách lịch được ông chứng minh như là một âm mưu quân sự nằm trong toàn bộ kế hoạch tổng tấn công này.

Cha cái thằng đã ngu khoa học rồi còn không biết rõ lịch sử. Đợt tổng tấn công Mậu Thân đúng là bắt đầu vào đêm giao thừa nhưng do giao thừa Miền Bắc sớm 1 ngày nên đợt tấn công hơi bị lệch pha (đây là một thiệt thòi cho quân miền Bắc chứ chả phải lợi thế cái con khỉ m. gì).

Đêm 29 rạng 30 tháng một năm 1968 (giao thừa miền Bắc) quân đội ta tấn công 4 tỉnh miền trung khi các lực lượng ở phía Nam vẫn tưởng đến ngày hôm sau mới đánh (đêm 30 rạng 31- giao thừa miền Nam). Chính vì sự không đồng bộ nên yếu tố bất ngờ của chiến dịch đã giảm đi nặng nề. Quân Cộng hòa và quân Mỹ đã có chuẩn bị khi các lực lượng ta tấn công các vị trí tại Nam Trung Bộ và Nam Bộ như Ban Mê, Kon Tum, Quảng Nam, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ, Bến Tre...

http://en.wikipedia.org/wiki/Saigon
 
anh Hưng có đọc hết cả bài không thế ạ?
 
Em hỏi câu hỏi IQ cao quá, anh không trả lời có được không ạ?
 
Đề nghị bạn Hưng 2 việc:
1-Đừng viết chọc ngoáy, chỉ trích cá nhân thành viên khác
2-Đừng dùng những từ ngữ nặng nề, thiếu tôn trọng để viết về người khác.
 
em chỉ hỏi thế vì hình như anh Hưng không đọc hết bài viết đã giận quá mà comment. việc mở đầu bài viết như vậy là nhằm mục đích đặt vấn đề, gây tranh luận. đến cuối bài tác giả có nêu rõ quan điểm và lập trường của mình đó, anh Hưng đọc lại xem.
 
Đọc toét mắt xong cũng hết... Ko hiểu có gì để comment nữa :| Dù sao cũng thanks anh Hưng để mọi người biết thêm vụ đánh trận 68 lệch ngày. Ko biết 2 bài bị xóa thế nào chứ... có vẻ em Nga đúng :))
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tại sao có người không hiểu cách nói năng bình thường thể nhỉ :) Lần sau Young explore cố chỉnh cú pháp: "sao nói năng bình thường lại khó khăn thế nhỉ". Em kính :D
 
Lúc đầu chưa đọc kĩ bài của ông Đoan Hùng thì công nhận cũng thấy anh Hưng dùng từ hơi nặng lời.

Nhưng đọc kĩ thì thấy ông kia viết nhiều đoạn cũng hơi bị buồn cười, bị chửi cũng đúng :).
 
em Lộc đọc hết bài đi đã. bài của Nga post trên TLNT mà mọi người lại nghĩ là phản động hải ngoại được à :)
 
Tác giả bênh quân ta thế còn gì nữa :D
 
mục đích của bài viết này (bài của sử gia Trần Gia Phụng) , về phần khoa học thì hay và có giá trị , tuy đã có một số nhà nghiên cứu trong nước phân tích rồi .
còn về mặt chính trị thì nếu ta bỏ qua phần "tố cáo tội ác sát nhân của Việt Cộng" (theo cách dùng từ của tác giả) vào dịp Mậu Thân , với những lời lẽ , ngôn từ khá cực đoan ,hằn học, không có lợi , không phù hợp với tiêu chí của một bài nghiên cứu khoa học lịch sử , thì vấn đề đặt ra chỉ còn là : có phải việc đổi lịch năm 1967 là nằm trong một toan tính chung , để chuẩn bị cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân (đợt 1) ngay năm sau đó hay ko ?

Về chuyện này , có lẽ ý kiến của tác giả chỉ là suy đoán mà thôi , vì các hồ sơ , tài liệu (mật) của Cộng Sản Bắc Việt vào thời điểm đó , cho tới nay , vẫn chưa được giải mật , vả lại , cũng chưa hề có một nhân vật chính trị nào của Cộng Sản Việt Nam lên tiếng xác nhận (nói gì đến việc tác giả của bài viết lại là một nhà sử học xuất thân từ miền Nam Việt Nam ) cho nên chúng ta hoàn toàn không có căn cứ gì để xác minh .


Kết luận lại là mặc dù với văn phong không thích hợp ,nhưng vấn đề tác giả bài viết đưa ra là khá nghiêm túc , đấy là bàn về NGUỒN GỐC của một sự kiện lịch sử : đổi lịch trong năm 1967 .Nếu ai có thông tin gì về việc đó thì có thể đưa ra phản bác lại sử gia này , chứ cứ post mấy bài chửi bới tục tĩu như của anh Hưng, chỉ trích , rồi gán mác "phản động hải ngoại" như Lộc , thì e chẳng có ích gì cho việc rèn luyện VĂN HÓA TRANH LUẬN , một tôn chỉ của box TLNT .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
chú Lộc, thế quân đội Bắc Việt thời đó không gọi là quân đội Cộng sản thì gọi là quân đội gì? quân đội "Giải phóng" à? Việt cộng không gọi là Việt cộng thì gọi là cái gì? "biệt động miền nam anh hùng" à?

Gọi như thế nghe chối tai với chú là vì chú quen nghe những từ ngữ mỹ miều được bộ máy tuyên truyền ở nhà gắn liền với các tổ chức này rồi. gọi như thế kia là rõ tính chất của 2 tổ chức này nhất chứ còn gì nữa? Chú có cần thì để anh tìm cho chú một đống quote của bọn sử gia nước ngoài viết về lực lượng Bắc Việt cũng bằng chính những từ như thế, chỉ là trong tiếng Anh thôi. Nghe chẳng chối tí nào đâu.
 
Em xin phép hỏi bác Long 1 câu, bác định nghĩa thế nào là "quân đội Bắc Việt" và "Việt cộng" ?

Còn về vấn đề mà đ/c Bách nêu ra, quan điểm của tôi là Không. Vì đơn giản là chẳng ai sử dụng lịch âm khi tính toán lập kế hoạch hết.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
chú Lộc, thế quân đội Bắc Việt thời đó không gọi là quân đội Cộng sản thì gọi là quân đội gì? quân đội "Giải phóng" à? Việt cộng không gọi là Việt cộng thì gọi là cái gì? "biệt động miền nam anh hùng" à?

Gọi như thế nghe chối tai với chú là vì chú quen nghe những từ ngữ mỹ miều được bộ máy tuyên truyền ở nhà gắn liền với các tổ chức này rồi. gọi như thế kia là rõ tính chất của 2 tổ chức này nhất chứ còn gì nữa? Chú có cần thì để anh tìm cho chú một đống quote của bọn sử gia nước ngoài viết về lực lượng Bắc Việt cũng bằng chính những từ như thế, chỉ là trong tiếng Anh thôi. Nghe chẳng chối tí nào đâu.

góp ý với anh Long một chút :

về từ ngữ , ta nên gọi chính danh là hay nhất , để tránh việc "nghe chối tai" cho bất cứ ai
ví dụ : VNCH (Nam Việt Nam) , quân lực VNCH ,VNDCCH (Bắc Việt) quân đội NDVN , MTDTGPMNVN (chính phủ CMLTCHMNVN)...
Đấy là tên gọi CHÍNH THỨC được quốc tế công nhận . Gọi như thế sẽ không ai bắt bẻ được gì , để không sa vào những tranh cãi vụn vặt , không cần thiết .

Những tên gọi kiểu như : Việt Cộng , Cộng quân, Ngụy quân , Ngụy quyền Sài Gòn ... đều chỉ là do một phía gán ghép cho phía bên kia mà thôi , chẳng hạn như bên Cộng Sản thì chẳng bao giờ gọi MTGPMNVN (một tổ chức nhận sự chỉ đạo từ Hà Nội) là Việt Cộng , cũng như bên Quốc gia thì chẳng bao giờ gọi chế độ của họ là Ngụy...
Một ví dụ rất điển hình là Khmer Rouge . Chắc chắn sẽ có người dùng từ quân Cộng Sản Kampuchea , nhưng có những người khác (quan điểm chính tri thân Cộng Sản ) thì sẽ không đồng tình , vì cho rằng , với chính sách tàn bạo , diệt chủng , bọn đấy không thể được coi là mang bản chất "giải phóng nhân loại" của người Cộng Sản , etc.

Cứ bám mãi vào cái đấy , chẳng giải quyết được việc gì , lại còn tạo ra cái gai cho người tranh luận với mình .

Còn việc các sử gia nước ngoài gọi Bắc Việt hay là lực lượng Cộng Sản ở miền Nam là gì thì đó cũng chỉ là do thói quen của họ , y như là việc chế độ Hà Nội , luôn miệng gọi người quốc gia là "ngụy" , rồi thậm chí trong những ngày đầu mới "giải phóng" Miền Nam , còn đẻ ra khái niệm "dân ngụy" ...
Nếu sử gia nước ngoài đó mà có lập trường thân chế độ Hà Nội , thì họ cũng lại sẽ gọi những người kia là : ngụy ! Thế là hết lời rồi chứ gì ?


Tóm lại , trong tranh luận , trong các bài viết nghiêm túc , ta nên gọi các tổ chức chính trị , quân đội , nhà nước...bằng chính danh !
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nhất trí với chú Bách vể cách gọi chính danh. Đó là cách tốt nhất trong xu hướng xóa bỏ hằn thù, hàn gắn dân tộc. Tuy thế nhân đó xin chú cân nhắc kỹ một tí khi nói "Cộng Sản Việt Nam". "Cộng Sản Việt Nam" bản thân nó là một từ rất tối nghĩa, mà khi nói đến nó, người ta không thể hiểu nổi là người nói muốn ám chỉ cái gì? Ám chỉ những con người theo chủ nghĩa Cộng Sản, hay bản thân Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam (vì lẽ chủ nghĩa Cộng Sản tại mỗi nước đều có chút khác biệt), hay là chính quyền Cộng Sản, hoặc là "nước Cộng Sản" - là những từ rất rất rất "không chính danh". Với những lý luận theo kiểu "rõ ràng đó là bản chất" thì những kẻ hằn học ở "bên này" cũng sẵn sàng gọi những người phía bên kia là "Ngụy", chính quyền bù nhìn, ....


Riêng chuyện 1968, có nhiều ý kiến cho rằng chuyện đổi lịch này dường như khiến cho cuộc tổng tấn công năm 1968 gặp nhiều bất lợi: Tại các tỉnh gần phía bắc thì quân giải phóng tấn công theo lịch Bắc, còn tại các tỉnh phía Nam thì quân giải phóng lại tấn công theo lịch miền Nam, khiến cho yếu tố bất ngờ bị giảm sút rất nhiều. Do đó kết luận theo ý kiến này là không có chuyện đổi lịch để tấn công sớm.

Riêng tôi thì nghĩ là cho dù không đổi lịch mà tấn công muộn hơn một ngày thì phía VNCH cũng không phải vì thế mà ít bị bất ngờ hơn. Mặt khác chuyện đổi lịch là chuyện cả miền Bắc đều biết, do đó gián điệp của phái VNCH, cho dù ít trèo cao leo sâu được thì cũng đều biết hết, vậy mà muốn dùng nó làm yếu tố bất ngờ thì e rằng không thật hợp lý lắm.
 
Em lại thấy cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân có phần sai lầm của Đảng lúc đó. Người ta cứ bảo là làm Mỹ Ngụy run sợ thế này thế kia, thực ra quân mình chết nhiều quá. Chưa kể các mặt trận Khe Sanh và sau này là thành cổ Quảng Trị, quân đội miền Bắc tổn thất nhiều hơn là những gì thu đc.
Cứ giả sử là năm 1968 địch bị bất ngờ đi chăng nữa, thì với thực lực địch lúc đó, ko thể giải phóng ngay lập tức hoàn toàn miền Nam.
 
em Lộc đọc hết bài đi đã. bài của Nga post trên TLNT mà mọi người lại nghĩ là phản động hải ngoại được à :)

Vụ lịch ta - lịch Tàu này nhiều forum bàn rồi, và bàn rất sôi nổi. Bài em Nga post của anh Đoan Hùng rất đứng đắn, có gì "phản động" đâu nhỉ?

Còn bài của "sử gia" Trần Gia Phụng cũng ko có gì là "phản động", vì ông ta nêu ra một giả thuyết (thực ra được nói đến từ lâu rồi), và lý giải nó dưới cái nhìn của ông ta. Ai ko thích thì cứ bác bỏ, nhưng ko nên chụp mũ "phản động" ở đây.

Còn về vấn đề mà đ/c Bách nêu ra, quan điểm của tôi là Không. Vì đơn giản là chẳng ai sử dụng lịch âm khi tính toán lập kế hoạch hết.

Thời xưa, ví dụ Khổng Minh, dùng Âm lịch để đánh Tào Tháo, chẳng hạn ở Xích Bích, mà cần giờ giấc chính xác để thông báo cho quân lính, chắc là khó nhỉ?

Có lẽ phải dùng ám hiệu hoặc trò gì đó thôi...

Bọn VNCH thời đó chơi lịch Tàu, còn miền Bắc ta chơi lịch ta để giữ vững độc lập chủ quyền là quá chuẩn xác rồi.

"Chơi" lịch nào nên là trên cơ sở khoa học và thực tiễn (dùng cái nào tiện hơn), chứ đếch nên do "tự hào dân tộc", hay "độc lập chủ quyền" tí nào cả. Cái này có vẻ "sô-vanh nước lớn", lý do mà Tàu đánh ta hồi 1979 :))

Đùa tí, Việt Nam hay tự hào "đỉnh cao trí tuệ", có lẽ phải dùng lịch riêng, ko cần giống lịch ai, mới thỏa ;)

L.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Âm lịch và ngày Tết

Có một bài trên blog của Khoa Tran, đưa lên cho mọi người tham khảo:
http://blog.360.yahoo.com/blog-hRunYyclf5nTd1KMjsQw?p=261


Âm lịch và ngày Tết

Lời giới thiệu: ngày nay có lẽ chẳng có mấy người quan tâm đến cách tính âm lịch vì hầu như ai cũng làm việc với dương lịch và ai cũng có đồng hồ. Nhiều bạn trẻ thậm chí còn thường xuyên đeo 4 đồng hồ cùng một lúc (đồng hồ đeo tay, điện thoại di động, PDA, laptop). Nếu bạn quan tâm đến các ngày lễ âm lịch thì cũng có thể biết dễ dàng nhờ các loại đồng hồ điện tử hoặc Google (hoặc khi có đứa nào đó rủ đi nhậu tất niên).

Tuy nhiên, chủ đề tính âm lịch trở nên nóng bỏng trong thời gian qua vì Việt Nam ăn tết trước Trung Quốc 1 ngày, còn dân hải ngoại thì cãi nhau về thời điểm đón giao thừa; thậm chí cãi đến tận chiến tranh Việt Nam vì trước 1975, Sài Gòn nằm ở múi giờ GMT+8, trùng với múi giờ của Beijing. Năm 1985, mặc dù chỉ chênh nhau 1 múi giờ nhưng Việt Nam lại ăn Tết trước Trung Quốc đến 1 tháng. Tại sao lại như vậy? Anh Phạm Quang Tuấn ở Úc đã viết một bài khá thú vị và rõ ràng trên vnsa về sự ra đời, cách tính âm lịch cũng như ngày Tết.


Những thắc mắc thông thường về cách tính Âm lịch và ngày Tết.

Phạm Quang Tuấn, Sydney

Tết Nguyên Đán năm nay (2007) ở Việt Nam ăn trước Trung Quốc một ngày. Có nhiều Việt Kiều điện thoại về nhà chúc Giao Thừa thì chưng hửng vì ở nhà đã qua tối mồng 1! Dư luận xôn xao về việc đó và có ý kiến phổ biến trên truyền thông hải ngoại rằng Việt Nam bây giờ không còn biết tính lịch, sinh ra tranh luận! Bài này lược sơ qua những nguyên tắc căn bản để tính Âm lịch và nhất là ngày Tết. Vì người đọc thời nay bận rộn, ít thì giờ đọc kỹ đầu đuôi, nên tôi xin viết dưới dạng "Frequently Asked Questions" (FAQ), với những câu hỏi đánh số Q1, Q2 v.v. và những câu trả lời ngắn gọn như thường thấy trong internet. Tác giả không có ý định viết ra đầy đủ phương pháp làm âm lịch vì đã có rất nhiều tài liệu trên internet làm chuyện đó, đặc biệt là trang tiếng Việt của Hồ Ngọc Đức [1].

Q1. Âm lịch và Dương lịch khác nhau chỗ nào?


Lịch làm ra để đếm ngày, để ghi chép công việc, để tính toán sự biến chuyển của các mùa. Sự biến chuyển này tùy thuộc vào sự tuần hoàn của trái đất quanh mặt trời. Do đó, bất cứ lịch nào cũng là lịch mặt trời (solar calendar) hay dương lịch.

Tuy nhiên, vì một năm tới 365 ngày, nên cần chia ra thành những đơn vị nhỏ hơn cho dễ tính toán. Do đó người ta lấy chu kỳ của mặt trăng, khoảng 29-30 ngày, làm đơn vị tháng. Lịch mà làm vậy thì có thể gọi là âm dương lịch (lunisolar calendar).

Q2. Lịch truyền thống của Trung hoa có phải là âm lịch không?


"Âm lịch" của Trung hoa, Hàn quốc và Việt Nam thực ra không phải là âm lịch mà là một loại âm dương lịch. Tuy nhiên vì tập quán, trong bài này sẽ gọi là Âm lịch (viết hoa, vì còn nhiều loại âm lịch khác).

Q3. Vấn đề căn bản của lịch pháp là gì?


Lịch có ba đơn vị căn bản: năm, tháng, ngày. Năm dựa theo sự tuần hoàn của trái đất quanh mặt trời, tháng dựa theo sự tuần hoàn của mặt trăng quanh trái đất, và ngày dựa vào sự tuần hoàn của trái đất quanh trục của chính nó. Ba sự chuyển động này độc lập và không ăn khớp với nhau. Muốn chúng đừng quá trật khớp thì nhà làm lịch phải lâu lâu điều chỉnh lại. Đó là vấn đề căn bản của lịch pháp.

Q4. Làm sao để điều chỉnh ngày, tháng, năm cho ăn khớp?


Mỗi nền văn hóa có một cách giải quyết khác. Âu châu giải quyết một cách "thô bạo" là tách hẳn "tháng" ra khỏi chu kỳ trăng. Mồng 1 Âu châu không phải là đêm không trăng nữa và 15 không còn là trăng tròn. Những người sống theo thủy triều (dân chài, người đi biển) không còn dựa vào ngày trong tháng được nữa để tính ngày nước lên cao nhất. Tuy nhiên, đối với đa số dân chúng thì chuyện này không quan trọng lắm. Còn vấn đề làm sao cho ngày ăn khớp với năm thì giải quyết bằng cách cứ khoảng bốn năm có thêm một ngày (29/2).

Trung Hoa thì giải quyết bằng cách vài năm nhét một tháng nhuận để hai bên âm dương ăn khớp trở lại, vì một năm có hơn 365 ngày mà 12 tháng (âm) chỉ có hơn 354 ngày. Nhược điểm của cách giải quyết này là ngày tháng không còn đo chính xác được các mùa, vì mỗi năm bắt đầu ở một thời
điểm khác nhau và có năm dài năm ngắn.

Q5. Ba cái mốc thời gian căn bản để tính lịch: ngọ, sóc và Đông chí


Người xưa lập ra lịch thì không có những dụng cụ thiên văn tối tân và đồng hồ chính xác, mà chỉ có cái thước và đôi mắt. Tuy nhiên, với những phương tiện căn bản đó, họ cũng đánh dấu được những mốc căn bản (reference point) để tính ngày, tháng, năm.

Để đếm ngày, học có thể tính từ lúc mặt trời lặn hay mặt trời mọc. Lịch Hồi giáo tính theo cách này. Nhưng vì mặt trời mọc lặn khác nhau tùy theo mùa, nên không tiện dùng làm mốc thời gian. Mốc tốt hơn là điểm giữa trưa, khi mà bóng mặt trời ngắn nhất. Điểm này có thể đo dễ dàng bằng một cây gậy cắm xuống đất. Điểm này gọi là ngọ (midday).

Ngày có thể tính là bắt đầu từ giữa trưa, nhưng như vậy sẽ bất tiện trong việc ghi chép công việc, nên cả Âu châu lẫn Á Đông tính ngày từ giữa đêm, trung điểm giữa hai ngọ.

Tháng thì tính từ đêm không trăng, khi trăng ở chính giữa trái đất và mặt trời nên quay mặt tối về trái đất. Thỉnh thoảng, điểm này có thể đo được rất chính xác: đó là khi có nhật thực. Còn không thì phải dùng tính toán. Điểm này gọi là điểm sóc.

Năm thì có hai điểm mốc có thể đo được chính xác là Hạ chí và Đông chí, trong đó Đông chí đo chính xác hơn. Vì trục trái đất không thẳng góc với quỹ đạo trái đất quanh mặt trời, nên vào mùa đông thì mặt trời xuống thấp về phía nam. Đông chí là điểm mà mặt trời giữa trưa thấp nhất so với những ngày khác. Để đo điểm Đông chí, người xưa chỉ cần cắm một cây gậy xuống đất (hay xây một cái tháp), ghi xuống chiều dài của bóng lúc nó ngắn nhất (tức là lúc giữa trưa), làm như vậy vài ngày trước và sau Đông chí, rồi dùng một phép nội suy (interpolation) nào đó để tính ra thời điểm Đông chí một cách chính xác (xem hình). Càng gần Đông chí, mặt trời giữa trưa càng thấp và bóng giữa trưa càng dài. Để ý là phương pháp này không cần đồng hồ, mặt trời tự nó là cái đồng hồ!


[Xem hinh]
Cách tính Đông chí của Zu Chongzhi (429-500 AD): trục x là thời gian, trục y là chiều dài của bóng gậy lúc giữa trưa của một ngày (bóng ngắn nhất trong ngày đó), mỗi điểm là một ngày. (a) Vẽ đường xéo nối hai điểm, (b) vẽ đường ngang từ một điểm bên kia cho tới đường xéo a, (c) trung điểm đường ngang là Đông chí.


Nên phân biệt ngày ngắn nhất và điểm Đông chí. Điểm Đông chí là một điểm chung cho tất cả địa cầu, nên khi tính bằng giờ của một địa điểm nào đó (như Hà Nội) nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày hay đêm. Ngày chứa điểm Đông chí là ngày ngắn nhất (mặt trời mọc trễ và lặn sớm nhất) trong năm.

Nói tóm lại, có ba cái mốc thời gian căn bản để tính lịch: điểm ngọ (giữa trưa) để tính ngày, điểm sóc để tính tháng, và điểm Đông chí để tính năm.

Q6. Những nguyên tắc căn bản của Âm lịch là gì?


Dùng ba cái mốc trên người Trung Hoa xưa đã đặt ra ba nguyên tắc căn bản để làm lịch, cũng có thể coi là định nghĩa của ngày, tháng và năm trong Âm lịch:

1. Mỗi ngày bắt đầu lúc nửa đêm (trung điểm giữa hai ngọ).
2. Mồng 1 mỗi tháng là ngày chứa điểm sóc (không trăng).
3. Tháng 11 Âm lịch là tháng chứa điểm Đông chí.

Nguyên tắc 1 và 2 đã được áp dụng ít nhất từ lịch Thái sơ (Taichu) đời Hán (140 BC) [2] và có lẽ sớm hơn nữa. Nguyên tắc thứ ba thì có nhiều lần thay đổi, tức là khởi điểm của một năm có thể sớm hay trễ hơn, nhưng vẫn lấy Đông chí làm mốc. Chẳng hạn, đời Chu, Tần thì lấy tháng có Đông
chí làm tháng giêng, nhà Ân lấy tháng có Đông chí làm tháng mười hai. Nguyên tắc thứ ba giúp điều chỉnh để cho âm lịch và dương lịch ăn khớp với nhau.

Ba nguyên tắc căn bản này cần nhớ, vì chúng vô cùng quan trọng để trả lời nhiều câu hỏi thông thường về ngày Tết.

Q7. Khí (tiết khí) là gì?


Vì ngày tháng Âm lịch không phản ảnh đúng các mùa, nhà làm lịch cần dùng một "thước đo" khác để tính mùa. Đó là khí hay còn gọi là tiết khí.

Một năm, tính từ Đông chí này đến Đông chí sau, chia thành 24 khí khá đồng đều (trước cải cách 1645 thì 24 khí cách đều nhau hoàn toàn). Khí là lúc trái đất đi qua một trong 24 điểm mốc cách đều nhau 15 độ trên quỹ đạo quanh mặt trời (cũng như Đông chí, người xưa dùng chiều dài bóng
của cây gậy lúc giữa trưa để tính tiết khí). Vì quỹ đạo trái đất hình ellipse khiến tốc độ trái đất khi nhanh khi chậm, nên tính thời gian thì các khí không hoàn toàn cách nhau đồng đều, mà xê dịch từ 14 tới 16 ngày.

Khí theo rất sát Dương lịch của Tây phương chứ không xê dịch tới lui nhiều như ngày tháng Âm lịch. Chẳng hạn, khí lập xuân luôn luôn là ngày 4 hay 5/2 DL, trong khi Tết Nguyên đán có thể di chuyển giữa 21/1 DL và 21/2 DL.

Các tiết khí có tên và ngày DL (với sai số 1 ngày) như sau: Đông chí (22/12), Tiểu hàn * (6/1), Đại hàn (21/1), Lập xuân * (4/2), Vũ thủy (19/2), Kinh trập * (5/3), Xuân phân (21/3), Thanh minh * (5/4), Cốc vũ (20/4), Lập hạ * (6/5), Tiểu mãn (21/5), Mang chủng * (6/6), Hạ chí (21/6), Tiểu thử * (7/7), Đại thử (23/7), Lập thu * (7/8), Xử thử (23/8), Bạch lộ * (8/9), Thu phân (23/9), Hàn lộ * (8/10), Sương giáng (23/10), Lập đông * (7/11), Tiểu tuyết (22/11), Đại tuyết * (7/12).

24 khí được chia làm 12 trung khí và 12 tiết khí (tuy nhiên cũng có thể gọi chung cả 24 là tiết khí). Trong danh sách trên những trung khí được đánh dấu "*". Trung khí quan trọng trong việc tính tháng nhuận. Những năm nào không nhuận thì trung bình mỗi tháng có một trung khí. Những năm nhuận thì có ít nhất là một tháng không có trung khí.

Đông chí (winter solstice), Hạ chí (summer solstice), Xuân phân (spring equinox), Thu phân (autumn equinox) cũng là những điểm quen thuộc với thiên văn ngày nay. Lập xuân, Lập hạ, Lập thu và Lập đông là ngày đầu mỗi mùa. Tên những khí khác cho thấy kinh nghiệm về thời tiết nóng lạnh, mưa nắng, sương tuyết.

Khí chính là phần "dương" của lịch Trung hoa. Phần dương này rất quan trọng vì nhà nông dựa vào nó để tính các mùa và các sinh hoạt đồng áng.

Q8. Âm lịch có phải là là "nông lịch" không?


Âm lịch thường được goi là Nông lịch, lịch của nhà nông dùng để tính mùa và đoán thời tiết để trồng trọt. Cách gọi này cho ta cảm tưởng là Âm lịch tốt hơn Dương lịch trong việc tiên đoán thời tiết. Nhiều người cũng tưởng là nhà nông xưa căn cứ vào ngày tháng Âm lịch để làm ruộng, nhưng
thực ra không phải vậy. Họ dựa vào những tiết khí luôn luôn in cạnh ngày tháng, vì tiết khí tính theo vị trí trái đất trên quỹ đạo, tức là theo mặt trời, theo mùa, y như các ngày tháng của Dương lịch. Về khía cạnh tiên đoán thời tiết, thì Âm lịch của Á đông hoàn toàn tương đương với Dương lịch của Tây phương, vì các tiết khí đi rất sát với ngày tháng Dương lịch, mỗi năm chỉ có thể xê xích tới lui trong khoảng một ngày. Chẳng hạn, khí lập xuân luôn luôn là 4 hay 5/2 DL, còn Tết Nguyên Đán thì có thể tới lui giữa 21/1 và 21/2 DL. Vậy Dương lịch hay phần tiết khí của Âm lịch đều có thể gọi là nông lịch.

Q9. Tại sao có tháng nhuận?


Vì 12 tháng chỉ có hơn 354 ngày mà một năm giữa hai Đông chí có hơn 365 ngày, nên cứ vài năm thì Đông chí sẽ tới trễ hơn tháng 11. Để đáp ứng nguyên tắc căn bản 3 (xem câu hỏi Q6), nhà làm Âm lịch cứ khoảng ba hay bốn năm nhét vào một tháng nhuận. Nếu biết trước được rằng tháng 11 tới sẽ không chứa điểm Đông chí thì phải có một tháng nhuận trong thời gian 12 tháng trước đó (không cứ là tháng 10 nhuận).

Q10. Làm sao để tính tháng nhuận


Trước cải cách 1645, mỗi năm dương lịch (từ Đông chí này đến Đông chí tới) có 12 trung khí cách đều nhau, nên cứ tháng nào không có trung khí thì coi là tháng nhuận.

Sau 1645, vì các trung khí không cách đều nhau, việc tính tháng nhuận rắc rối hơn:

• Trong một năm nhuận có 13 tháng và 12 trung khí, do đó ít nhất là một tháng sẽ không có trung khí. Nếu chỉ có một tháng không có trung khí, tháng đó được coi là tháng nhuận và được gọi tên theo tháng có trung khí ngay trước nó.
• Vì khoảng thời gian giữa các trung khí không đều nhau nên năm không nhuận cũng có thể có tháng không có trung khí, và có tháng có hai trung khí. Trường hợp đó thì các tháng được gọi tên theo thứ tự thường lệ từ giêng tới chạp.
• Năm nhuận mà có hơn một tháng không có trung khí thì chỉ tháng không trung khí đầu tiên sau Đông chí được gọi là tháng nhuận.

Q11. Làm cách nào để tính ngày Tết?


Thoạt trông ta có thể tưởng rằng nếu biết ngày Đông chí thì ta có thể tính được tháng 11 (theo nguyên tắc căn bản thứ 3 ở câu hỏi Q6), tháng 12 (theo nguyên tắc căn bản thứ 2 ở câu hỏi Q6), và từ đó suy ra ngày Tết. Tuy nhiên, nếu có tháng 11 nhuận hoặc 12 nhuận thì Tết có thể tới chậm một tháng nữa!

Trong thực tế, rất ít khi có tháng 11 nhuận hoặc 12 nhuận vì những trung khí nằm tương đối sát nhau trong thời gian này (trên quĩ đạo bầu dục, trái đất lại gần mặt trời hơn vào mùa đông nên đi nhanh hơn). Do đó ta có thể tính khá đúng ngày Tết bằng những quy tắc ước tính (rules of thumb) như sau [3]:

1. Tết là ngày mồng 1 (ngày sóc) thứ hai sau Đông chí. Kinh nghiệm cho thấy quy tắc này chưa bao giờ sai từ vụ cải cách lịch 1645 cho tới nay, nhưng tới năm 2033 sẽ sai. Quy tắc này cũng dễ hiểu: ngày sóc thứ nhất có thể xảy ra trong khoảng từ 1 tới 30 ngày sau Đông chí, ngày sóc thứ hai từ 30 tới 59 ngày sau Đông chí. Tính trung bình là 45 ngày sau Đông chí (21/12 DL), tức là 4/2 DL, ngày lập xuân.

2. Tết là ngày mồng 1 (sóc) gần tiết lập xuân (4 hay 5/2 DL) nhất. Quy tắc này, khi áp dụng cho Trung Quốc, đã sai vào năm 1985 và sẽ sai nữa vào năm 2015.

3. Tết là ngày mồng 1 (sóc) đầu tiên sau khí đại hàn (20/1 DL). Quy tắc này, khi áp dụng cho Trung Quốc, đã sai vào năm 1985 và sẽ sai nữa vào năm 2053.

Hiện nay, những thời điểm chính xác của điểm sóc và Đông chí (winter solstice) dễ dàng tìm thấy trên internet [4] [5], không phải tính toán. Do đó bất cứ ai cũng có thể tính được ngày Tết trong vài chục năm vừa qua và sắp tới theo ba quy tắc trên, trừ những ngoại lệ đã kể. Nên nhớ là, vì Trung Quốc là nước lớn, nên nhiều bảng chỉ cho biết ngày Tết của Trung Quốc. Chương trình của Hồ Ngọc Đức [1] thì cho tính ngày Tết một cách chính xác ở bất cứ kinh độ nào trên thế giới.

Q12. Tại sao thỉnh thoảng Tết Việt Nam lại trước Tết Trung Quốc một ngày?


Việt Nam theo múi giờ Hà Nội (UT + 7 giờ, Trung Quốc tính theo múi giờ Bắc Kinh (UT + 8 giờ). (UT còn thường gọi là GMT là giờ quốc tế tính theo kinh tuyến Greenwich.) Do đó Trung Quốc luôn luôn đi trước VN một giờ. Khi giờ VN nằm trong khoảng 23:00-24:00 thì Trung Quốc đã nằm trong khoảng 00:00-01:00 ngày hôm sau. Nếu điểm sóc rơi vào khoảng thời gian 60 phút đó đó thì, theo nguyên tắc căn bản thứ 2 của Âm lịch (câu hỏi Q6), tháng Âm lịch Việt Nam sẽ bắt đầu ngày hôm trước và tháng Âm lịch Trung Quốc sẽ bắt đầu ngày hôm sau. Và nếu tháng đó là tháng giêng thì Tết Việt Nam sẽ tới trước Tết Trung Quốc một ngày!

Q13. Tại sao chuyện đó không xảy ra trong Dương lịch?


Có chứ! Một nước ở sát phía đông kinh tuyến 180 tức là Đường Đổi Ngày Quốc Tế (International Date Line) ăn tất cả các lễ tết Dương lịch sau một nước ở sát phía tây KT180 23 giờ, tức là gần một ngày. Việc đó cũng tương tự như Việt Nam ăn Tết Nguyên Đán trước Trung quốc một ngày (thực
sự là trước 23 giờ).

Q14. Vậy là Âm lịch cũng có "International Date Line"?


Đúng vậy, nhưng nó không nằm một chỗ ở giữa Thái Bình Dương mà mỗi tháng di chuyển tùy theo vị trí của trái đất ở điểm sóc. Khi nó nằm trong múi giờ của Hà Nội thì suốt tháng đó Việt Nam đổi ngày trước tiên, trước Trung Quốc 23 giờ. Không thì Việt Nam đổi ngày sau Trung Quốc 1 giờ.

Q15. Có nước nào khác ăn Tết sai với Trung Quốc không?


Vì Hàn quốc nằm trong múi giờ khác Bắc Kinh, nên lâu lâu họ cũng ăn Tết khác ngày, như Việt Nam. Chẳng hạn, năm 1997, Hàn Quốc ăn Tết ngày 8/2 [6] trong khi Trung Quốc và Việt Nam ăn Tết ngày 7/2 [7].

Q16. Thời xưa Việt Nam có bao giờ ăn Tết khác với Trung Quốc không?


Theo Hoàng Xuân Hãn [8], lịch thời Lý khác lịch Tống đương thời. Trong khoảng từ đầu thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII lịch hai nước giống nhau. Sau đó lại khác nhau cho đến 1813.

Q17. Tại sao năm 1985 Tết Việt Nam ăn Tết trước Trung Quốc tới một tháng?


Năm 1984, Đông chí rơi vào 23:22 ngày 21/12 DL, giờ Hà Nội, tức là 00:22 ngày 22/12 DL, giờ Bắc Kinh. Đồng thời, ngày sóc (mồng 1) tháng Âm lịch rơi vào ngày 22/12 DL ở cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội. Sự trùng hợp này khiến, theo nguyên tắc căn bản thứ 3 của Âm lịch (câu hỏi Q6), tháng 11 Âm lịch Việt Nam kết thúc vào 21/12 DL ở Hà Nội, nhưng tháng 11 ÂL Trung Quốc lại khởi đầu 22/12 DL ở Bắc Kinh. Do đó Việt Nam dẫn trước Trung Quốc một tháng, và ăn Tết trước một tháng.

Q18. Tại sao chỉ cách một giờ mà Tết khác nhau một tháng? Thật vô lý!


Lịch tuân theo những nguyên tắc của con người nên đôi khi dẫn tới chuyện "vô lý". Chẳng hạn, người Việt Nam xưa tính tuổi bằng cách cộng thêm một tuổi mỗi ngày Tết. Do đó, nếu A sinh vào giờ cuối của năm cũ và B sinh vào giờ đầu của năm mới thì A sẽ luôn luôn hơn B một tuổi, dù chỉ đẻ
trước vài phút!

Q19. Tết Việt Nam trước Trung Quốc một tháng thì có hại cho nhà nông không?


Có ý kiến cho rằng, vì năm 1985 Việt Nam ăn Tết "sớm" một tháng nên nhà nông, đồn điền cao su v.v, chới với vì lịch ta hướng dẫn sai về thời tiết [9]. Việc này đã gây tranh luận [10] [11] nhưng dùng những nguyên tắc đã nói trong bài này thì ta thấy ngay là ý kiến trên đó vô căn cứ:

1. Từ thuở xa xưa, nhà nông không bao giờ căn cứ theo ngày tháng âm lịch để trồng trọt. Họ căn cứ theo tiết khí như Lập xuân, Thanh minh, Hạ chí, Đông chí v.v. là những điểm mốc dương lịch, luôn luôn có in trên lịch truyền thống của Trung Quốc và Việt Nam.
2. Ngày Tết luôn luôn di chuyển giữa 21/1 DL và 21/2 DL. Tết Trung Quốc hay Tết Việt Nam đều di dịch như vậy, do đó nông dân không bao giờ dựa vào ngày tháng Âm lịch.

Q20. Vậy năm 1985 Việt Nam hay Trung Quốc ăn Tết đúng hơn?


Cả hai đều đúng vì đều tuân theo ba nguyên tắc căn bản của Âm lịch (Q6). Tuy nhiên, xét theo ba quy tắc ước tính ngày Tết (xem câu hỏi Q11) thì ngày Tết Việt Nam 1985 tuân theo cả ba quy tắc, còn ngày Tết Trung Quốc sai mất quy tắc 2 và 3. Tức là, ngày Tết 1985 của Việt Nam gần khí Lập
xuân hơn Tết của Trung Quốc! Tết Việt Nam là ngày 21/1, trước Lập xuân 14 ngày, còn Tết Trung Quốc là ngày 20/2, sau Lập xuân 16 ngày. Nhà nghiên cứu lịch Aslaksen của đại học Singapore cũng viết: "[Rules 2 and 3] failed in 1985 [for China]) [3]. Tuy nhiên vì chỉ là luật ước tính (rule of thumb) nên điều đó không quan trọng.

Q21. Ngày Âm lịch bắt đầu từ nửa đêm hay 11 giờ đêm?


Có người cho rằng giờ Tý bắt đầu lúc 23:00 và kết thúc lúc 1:00 sáng, mà giờ Tý là giờ đầu tiên trong ngày, do đó ngày Âm lịch phải kể như bắt đầu lúc 23:00 chứ không phải nửa đêm. Do đó, phải sửa lại nguyên tắc căn bản số 2 của Âm lịch thành "ngày bắt đầu lúc 23:00 giờ" [9]. Nếu tính
theo cách đó thì Tết 2007 Việt Nam và Trung Quốc ăn cùng ngày. Dĩ nhiên, vẫn có những năm hai nước ăn khác ngày, vì dù "ngày" được định nghĩa thế nào đi nữa thì vẫn không thể tránh được trường hợp điểm sóc rơi vào giờ cuối ngày của Việt Nam và giờ đầu ngày của Trung Quốc!

Tuy nhiên, tất cả các tài liệu về lịch học Á Đông đều cho biết rằng ngày phải tính từ nửa đêm. Nguyên tắc này đã có ít ra là từ đời Hán, trong lịch Thái sơ (144BC) [2], và chắc còn sớm hơn nữa. Nguyên tắc đó cũng ghi rõ ràng trong sách Uyên Hải Tử Bình đời Tống [12].

Q22. Tại sao "ngày tử vi" và "ngày lịch" khác nhau?


Câu hỏi này khó trả lời khi mà ta không có những tài liệu lịch sử từ thời Âm lịch và tử vi mới bắt đầu có, nhưng cũng có thể suy luận như sau. Khi làm lịch, các công thức tính toán phải căn cứ vào những mốc rõ rệt, không mập mờ (dù là đo lường không chính xác thì công thức cũng phải chính xác). Mốc căn bản để tính ngày, như ta đã thấy, là giờ giữa trưa hay Ngọ, khi mà bóng mọi vật ngắn nhất trong ngày. Vậy giờ Ngọ của nhà thiên văn phải định nghĩa là điểm giữa trưa, 12:00. Tý là trung điểm giữa hai Ngọ, nên phải là đúng nửa đêm. Điều đó cũng phù hợp với thanh ngữ "đúng ngọ" trong tiếng Việt thường ngày. Khi cần thiết chia ngày ra thành những đơn vị nhỏ hơn, nhà thiên văn bèn chia ngày thành 12 giờ: Tý (00:00), Sửu (02:00), Dần (04:00), v.v. cũng như nhà thiên văn Tây phương chia ngày thành 24 giờ.

Nhà tử vi, khi dựa vào giờ giấc của nhà thiên văn, sẽ có vấn đề là hầu hết nhân loại không sinh vào ngay những thời điểm mốc đó mà đều chệch ít nhiều, vậy phải tính làm sao? Cách giải quyết dĩ nhiên là nếu sinh gần giờ mốc nào nhất thì tính tử vi theo giờ đó. Do đó giờ Tý (00:00) vào tay nhà tử vi trở thành 00:00  60 phút, tức là từ 23:00 tới 01:00. Từ ý nghĩa thời điểm (time point) của nhà thiên văn, những giờ Tý, Sửu v.v. trở thành những khoảng thời gian (time interval) 120 phút. Người sinh ra lúc 23:01 ngày hôm trước được gộp chung với giờ Tý của ngày hôm sau, hay
cũng có thể nói là ngày của nhà tử vi bắt đầu lúc 23:00. Tuy nhiên, đây là chuyện nằm ngoài lịch học, là một khoa học chính xác (exact science).

Để kiểm chứng, ta hãy xem vài ngày Tết gần đây của Trung Quốc để xem họ tính ngày từ 23:00 hay từ 00:00:

1997: điểm sóc ở Bắc Kinh là 23:06 ngày 7/2, Trung Quốc ăn Tết 7/2
1988: điểm sóc ở Bắc Kinh là 23:54 ngày 17/2, Trung Quốc ăn Tết 17/2
1966: điểm sóc ở Bắc Kinh là 23:46 ngày 21/1, Trung Quốc ăn Tết 21/1
1944: điểm sóc ở Bắc Kinh là 23:24 ngày 25/1, Trung Quốc ăn Tết 25/1

Nói tóm lại, ngày Âm lịch của nhà tử vi (và những người tin tử vi, tức là hầu hết dân Trung Hoa) có thể coi là bắt đầu lúc 23:00, nhưng nhà làm lịch luôn luôn tính từ nửa đêm.

Q23. Lễ tết truyền thống Á Đông dựa theo Âm lịch hay Dương lịch?


Thoạt nghe câu hỏi tưởng như đùa, vì đã truyền thống thì làm sao dựa theo Dương lịch được. Tuy nhiên, có hai ngày lễ của Trung Hoa là Thanh minh và Đông chí dựa theo tiết khí, tức là theo vị trí của trái đất quanh mặt trời, tức là theo dương lịch. Thanh Minh luôn luôn vào 4 hay 5/4 DL và Đông chí vào 21 hay 22/12. Câu "Thanh minh trong tiết tháng ba" (tháng 3 ÂL) của Nguyễn Du không luôn luôn là đúng, vì Thanh minh có thể rơi vào tháng tư ÂL!

Q24. Phải chăng Âm lịch ngày nay là do người Tây phương làm giúp Trung Hoa?


Những nguyên tắc căn bản của Âm lịch (câu hỏi Q6) rất giản dị, nếu cứ mỗi tháng (đêm không trăng) nhòm trời rồi tính lịch một lần theo những dữ kiện thiên văn thì cũng dễ. Vấn đề là tìm ra những quy tắc và công thức tính lịch để có thể tính trước cả năm mà không sai lệch. Tính tháng mà sai thì hậu quả thấy ngay trước mắt: đêm cuối tháng mà có trăng, rằm mà trăng méo! Tính tiết khí sai thì mùa sẽ sai lệch, nhà nông sẽ mất mùa. Ngoài ra, chức vụ nữa của nhà thiên văn là phải tiên đoán chính xác nhật thực, nguyệt thực.

Muốn tính cho đúng thì phải có những dữ kiện chính xác về sự tuần hoàn vận chuyển của trái đất, mặt trăng và mặt trời. Vì vậy, Âm lịch đã được cải tổ nhiều lần, lần mới đây nhất là vào năm 1645 (lịch Thời Hiến) khi các giáo sĩ dòng Tên đem tới Trung Hoa những kiến thức thiên văn chính xác hơn của Tây phương. Giáo sĩ Adam Schall (Thang Nhược Vọng) được vua hai nhà Minh và Thanh giao cho nhiệm vụ cải cách lịch. Tuy nhiên, những nguyên tắc căn bản nói trên (câu hỏi Q6) thì vẫn giữ nguyên. Cải cách chính, như ta đã thấy, là lịch 1645 tính tiết khí theo vị trí thật của mặt trời (tức là theo vị trí của trái đất trên quỹ đạo), nên khoảng cách giữa các tiết khí không còn đều đặn mà thay đổi theo mùa. Cách tính tháng nhuận do đó cũng rắc rối hơn: trước kia, mỗi năm Dương lịch có 12 trung khí cách đều nhau, nên cứ tháng nào không chứa trung khí thì coi là tháng nhuận. Từ sau 1645 thì một tháng có thể có tới hai trung khí và tháng không nhuận cũng có thể không có trung khí.


Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Ngọc Đức, Ho Ngoc Duc's Vietnamese lunar calendar.
http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/vncal_en.html

[2] Lim NF, Ong SJ, Teo CL, Yang SY, Zu Chongzhi and the Chinese
Calendar Reform of 462 AD.
http://www.math.nus.edu.sg/aslaksen/gem-projects/hm/Zu_Chongzhi.pdf.

[3] Aslaksen H., The Mathematics of the Chinese Calendar,
http://www.math.nus.edu.sg/aslaksen/calendar/cal.pdf

[4] U.S. Naval Observatory, Phases of the Moon,
http://aa.usno.navy.mil/data/docs/MoonPhase.html

[5] U.S. Naval Observatory, Earth's Seasons, Equinoxes, Solstices,
Perihelion, and Aphelion,
http://aa.usno.navy.mil/data/docs/EarthSeasons.html

[6] Sollal: Korean New Year Celebration.
http://www.pusanweb.com/Exit/Jan97/sollal.htm

[7] Chinese Lunar New Year Day and Zodiac Animals,
http://www.chinesefortunecalendar.com/NewYearDays.htm

[8] Hoàng Xuân Hãn, Lịch và lịch Việt Nam, theo Đoan Hùng, Lịch Ta, Lịch
Tàu và sự khác biệt,
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1487

[9] Trần Gia Phụng, Mồng 1 Tết năm nay, ngày 17 hay 18/02/2007?
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1472

[10] Đoan Hùng, Mồng Một Tết: Ngày 17 hay 18? Trả lời ông Trần Gia
Phụng.
http://thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1550
http://thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1564

[11] Lê Bắc, Mồng 1 Tết Đinh Hợi, ngày 17 hay 18 tháng 2, 2007?
http://thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1494

[12] Yu J, The Four Pillars of Destiny - An Introduction.
http://www.astro-fengshui.com/astrology/fourpillar_intro.html

[13] Aslaksen H., The Mathematics of the Chinese Calendar,
http://www.math.nus.edu.sg/aslaksen/calendar/chinese.shtml

[14] Aslaksen H., When is Chinese New Year?,
http://www.math.nus.edu.sg/aslaksen/calendar/cal2.pdf

[15] Doggett LE, Calendars. http://astro.nmsu.edu/~lhuber/leaphist.html.

[16] Western-Chinese Calendar Converter,
http://www.mandarintools.com/calendar.html
http://www.mandarintools.com/calendar.html
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên