Phạm Xuân Nguyên
Núi xanh núi vàng
(Nguyễn Thanh Sơn, Phê bình văn học của tôi, nxb Trẻ, 2002
Nguyễn Hoàng Sơn, Lớp trưởng giả mới và những tín điều văn chương, Văn Nghệ Quân Ðội số 563, 12/2002)
"Những con sinh ra thì đã chết
Những con chưa chết thì chưa sinh ra"
(Nguyễn Lương Ngọc)
1.
Cuốn sách của NTS mở đầu bằng bài viết được lấy làm nhan đề của cả tập. "Phê bình văn học của tôi" là lập ngôn của tác giả khi trình bày mình trước giới văn học và người đọc. Cái nhan đề hàm ý có nhiều quan niệm phê bình văn học và nhiều lối đi vào phê bình văn học. NTS chọn một lối đi "của tôi" như thế này: "Phê bình văn học, với tôi, bắt đầu trước tiên từ những ấn tượng cá nhân về một tác phẩm, nó không nhằm tìm hiểu nhà văn, không bó buộc mình trong hành trình đọc văn để hiểu người - trừ phi "người" ở đây chính là cá nhân nhà phê bình. Nó tìm hiểu tác phẩm, nhưng tìm hiểu theo cái nghĩa luôn luôn làm một cuộc so sánh tác phẩm ấy với kinh nghiệm, tình cảm, tri thức của người viết phê bình. Phê bình văn học là một cuộc tổng duyệt lại các thang giá trị của nhà phê bình đối với cuộc sống thông qua phản ứng của các thang giá trị đó đối với tác phẩm. Nói cách khác, viết phê bình là một cuộc trò chuyện của nhà phê bình với chính bản thân mình, với một "cái tôi thứ hai", mà chủ đề của cuộc trò chuyện đó bắt đầu bằng tác phẩm được phê bình" (tr. 8-9). Quan niệm này không riêng của NTS. Nhà văn Mexico Octavio Paz (Nobel 1990) nói: làm phê bình văn học là đi từ văn bản của người đến văn bản của mình. Tư thế phê bình này NTS cũng đã có người đi trước: năm 1939 nhà phê bình Trương Chính 23 tuổi xuất bản một tập "phê bình tất cả 25 quyển sách - hầu hết là tiểu thuyết - của 13 nhà văn" (Vũ Ngọc Phan) với cái tên gọi rất "ngang- "Dưới mắt tôi. NTS ở phê bình, đồng điệu với các bạn bè cùng thế hệ ở sáng tác, chỉ "khát vọng được thành thực" (Hoài Thanh) như thế hệ các nhà thơ mới thời 1932 - 45. Họ muốn phát biểu nhân danh cái tôi, từ vị thế cái tôi cá nhân của chính mình, của chính thế hệ mình. Trong cả tập sách đầu tay này NTS đã cố gắng nhất quán phát biểu các ý kiến, đánh giá nhận xét về văn hóa, văn chương Việt hiện thời và trong tương quan với quá khứ, từ chỗ đứng "của tôi" như anh đã nêu ra ngay từ đầu. Anh không nói 'chúng tôi", 'chúng ta", anh nói "tôi". Anh đi vào phê bình văn học từ "tôi" nói với "chúng tôi", 'chúng ta". Và chừng như tiên liệu những phản ứng có thể xảy đến với mình trên lối đi đó, anh kết thúc bài mở đầu sách: "Còn nếu không tìm được "bạn", thì tôi đành trò chuyện với cái "tôi" của mình, sáng tạo ra một bạn đồng hành có thể chung bước với tôi tới vạn dặm" (tr. 10). NTS đã tìm được bạn ở Nguyễn Quang Lập, và anh "đành trò chuyện với cái "tôi" của mình" khi gặp NHS. Cái bìa sách in bức tranh Con quỷ ngồi của Vrubel đã không hề phát xạ thông điệp phê bình của tác giả tập sách trước cặp mắt xoi mói xấc xáo nhìn mà không thấy, đọc mà không hiểu của kẻ lăm lăm kết án nó.
Sự phê phán nặng lời của NHS trước hết chứng tỏ NTS đã có cái "của tôi". Và cái "của tôi" NTS có không phải là cái của NHS có. Cái "của tôi" của NTS báo hiệu một hướng phê bình văn học mới, một cách làm phê bình văn học mới, mà không một lực "cản mũi kỳ đà" nào ngăn được nó đi tới trước. Hướng đi, cách làm đó phải bắt đầu từ thái độ đối với di sản văn hóa nói chung, văn học nói riêng, của dân tộc. Di sản văn hóa, văn học của dân tộc Việt là của chung, của tôi và của anh, nhưng cái cách nhìn di sản đó từ hôm nay phân định tôi khác anh trong cách nhìn văn hóa. NTS khi nghĩ về "Di sản và đổi mới văn chương Việt Nam" tha thiết mong muốn và kêu gọi: "Ðể trở thành một phần của thế giới hiện đại, chứ không phải một đứa con của một nền văn hóa tiểu nông, thuộc địa, con người Việt Nam còn cần một thứ khác" (tr. 34). Còn cần một thứ khác, NHS đã không đọc được cái "của tôi" này của NTS nên đã vội lôi hết di tích văn hiến ông cha ra để buộc tội NTS là"kẻ khinh mạn dân tộc mình một cách không dấu giếm". Có hai cách làm mới. Làm mới cũ - nhìn sự vật cũ bằng con mắt mới, đây là một xu hướng nổi lên rõ trong văn học thời đổi mới, mà một thí dụ tiêu biểu là truyện ngắn Sự tích ngày đẹp trời của Hòa Vang giãi bày tâm sự cho Thủy Tinh trong thần thoại xưa. NHS hình như không biết truyện này, và chuyện này, nên đã độc mồm quy kết chính trị cho người mình đang phê bình khi suy diễn câu NTS viết "Thủy Tinh "người" hơn". Làm mới mới - tạo ra cái mới chưa từng có, cái của hôm nay để thành di sản của ngày sau, đó chính là điều NTS nói "còn cần một thứ khác". Theo NTS, làm mới cách thứ nhất là cần, nhưng chưa đủ: "Ðối với những con mắt mới, chuyện nàng Tô Thị có thể chỉ là một câu chuyện loạn luân, cái bọc của mẹ Âu Cơ chỉ chứng tỏ một cuộc sinh nở quái thai, hay Trí khôn của ta đây chỉ là một bằng chứng cho tính khôn ngoan vặt và ưa lừa gạt của người Việt..." (tr. 33). Khi đọc đến những dòng này NHS đã rất ư phẫn nộ như kẻ đứng đắn bị xúc phạm, nhưng bài viết của anh đã xúc phạm sự đứng đắn của người khác, anh biết không? NTS và Tạ Duy Anh đã gặp nhau ở cách nhìn truyện Trí khôn của ta đây (xin xem tiểu thuyết Ði tìm nhân vật, một tác phẩm khá xuất sắc gần đây, tiếc thay nó lại bị cấm, phê bình không được lên tiếng về nó, điều này giả như NHS có phẫn nộ đến đâu cũng không dám nói). Còn về cái bọc của mẹ Âu Cơ, NHS mắng oan cho NTS, tôi xin mách NHS và hải nội chư quân tử: "thủ phạm" đầu tiên đại bất kính đối với tổ tiên có lẽ là... Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu. Xin mở Tản Ðà toàn tập, tập 1, nxb Văn Học, Hà Nội 2002, trang 309, đọc bài thơ sau đây:
MỘT TRỨNG TRĂM TRAI
Sử sách thuở hồng hoang chửa có,
Miệng đồn không có há tin nào?
Hai mươi nhăm triệu đồng bào,
Nguồn xa, cội cũ biết bao nhiêu là...
Khen ai khéo bày ra quái gở,
Trứng trăm trai sinh nở lạ thường!
Cho hay là sự hoang đường,
Dòng khôn, khôn nhẽ giống nhường chim muông?
Bài thơ này Tản Ðà viết khoảng sau năm 1936, khi sắp vào tuổi "tri thiên mệnh". Tôi để bạn đọc tự xét lấy xem Tản Ðà viết thế có phải là khinh mạn tổ tiên nòi giống dân tộc mình không. Hay nên tự hào dân tộc kiểu NHS khen Truyện Kiều thì dẫn Phạm Quỳnh so nó với tác phẩm Tây Tàu, còn khen Vũ Trọng Phụng thì dẫn câu của một nhà nghiên cứu nước ngoài (tôi phải mở ngoặc là ở đây tôi đang nói sự mâu thuẫn, bất nhất trong lập luận của NHS, chứ tôi không phản đối nhận định của nhà nghiên cứu đó, mà cụ thể đây là tiến sĩ Peter Zinoman, một chàng rể Việt Nam, người đã cùng vợ dịch Số đỏ ra tiếng Anh, chính anh đã lục tìm trong Thư viện quốc gia Hà Nội được thêm khá nhiều tư liệu và tác phẩm của VTP từ trước chưa biết tới, nhưng lâu nay giới "VTP học" của chúng ta đều dễ dàng nại lý do là "thất lạc tư liệu không tìm được", và anh đã có lần tỏ ý "chê" giới nghiên cứu ta về chuyện này trong một bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Ðại Ðoàn Kết, đó là một kinh nghiệm của người đáng để ta học tập, đóng ngoặc), như thế trước sau đều lấy nước ngoài người ngoài làm chuẩn, thế mà khi NTS đứng từ những yêu cầu đòi hỏi của thế giới hiện đại để mong tìm một lối đi cho văn chương nước nhà thì lại bị la lên là "tâm lý nô lệ, sùng ngoại". Kiểu đề cao mình thì hạ người, đến khi khen mình thì lại mượn người như thế, nên cẩn thận. (Tôi xin kể chuyện này cho NHS và bạn đọc biết. Tháng 6/2002 khi ở Paris, tôi có đọc một tập truyện ngắn Nam Cao dịch ra tiếng Pháp nhan đề: "Chi Pheo paria casse-cou et autres nouvells", bản dịch của Lê Văn Lập và Goerge Boudarel. Hai điều làm tôi sửng sốt, ngạc nhiên ở sách này. Ở bìa bốn giới thiệu tác giả có câu: "Longtemps interdit de publication, Nam Cao a aujourd'hui rejoint les autres auteurs classiques de son pays" ("Một thời gian dài bị cấm xuất bản, Nam Cao hiện nay đã được về lại với các tác giả cổ điển khác của nước ông"). Ðiều nói Nam Cao bị cấm xuất bản một thời gian dài là hoàn toàn xuyên tạc, trái sự thật. Ở truyện "Ðôi mắt", cái câu nhân vật Hoàng ca tụng tài chính trị xoay chuyển tình thế vận nước của "ông Cụ" (Hồ Chí Minh) trong sự so sánh với Charles de Gaule đã bị cắt bỏ. Chẳng biết người dịch hay nhà xuất bản sợ đụng chạm, xúc phạm đến anh hùng giải phóng của Pháp quốc mà cắt bỏ câu đó, một trong mấy câu then chốt trong truyện của Nam Cao. Vậy đấy). Tôi trở lại cái ý NHS quy kết NTS "sùng ngoại", đấy là một sự cố ý nói trùm lợp, vô trách nhiệm với người viết và người đọc. NTS hăng hái, ào ạt, nhưng anh cũng biết tỉnh táo, chừng mực khi cần. NHS hãy giở lại bài "Nhà thơ vô danh" (tr. 132 - 135) đọc xem. Trước sự hô hào cổ vũ đôi lúc quá bốc quá hăng cũng như sự phê phán chê bai quá nặng quá nghiệt của một số nhà thơ đàn anh đối với lớp đàn em mới nổi, NTS bằng con mắt phê bình đã chỉ ra những lầm tưởng của họ. Một, lầm tưởng về sự cô đơn, hoang mang của thế hệ trẻ. Hai, lầm tưởng "người ta có thể cải cách thơ ca chỉ bằng cách học đòi theo những cách tân của thơ ca phương Tây". Ba, lầm tưởng "trò khéo chơi chữ có thể thay thế cho phê bình đích thực của thơ ca". Và NTS đề nghị các bậc đàn anh không nên làm ồn ào quá quanh tên tuổi các nhà thơ trẻ, hãy trả về cho họ cái khoảng "hồn nhiên e ấp của sự vô danh" để họ tự nhiên phát triển. Một bài phê bình điềm tĩnh như thế là rất kịp thời, cần thiết và đúng đắn. Tính cách và bản lĩnh của NTS bộc lộ ở đấy. NHS dù có ác ý cũng không thể phủ nhận được, trừ phi anh phê bình sách mà không đọc sách (tức là, chỉ chộp lấy vài ba chữ, vài ba câu, cắt ra khỏi văn cảnh rồi đem suy diễn, gán cho chúng ý nghĩ của mình và quay lại coi ý nghĩ ấy là của người để mặc sức phê phán - một thao tác phổ biến lâu nay của những kẻ tự gọi là viết phê bình văn học).
Tôi viết bài này ở Tokyo, nhân bài thơ của Tản Ðà và liên quan đến cách nhìn di sản văn hóa dân tộc đặt ra ở cuốn sách của NTS và bài viết của NHS, tôi muốn nhìn rộng ra Nhật Bản. Nước Nhật là một nước phát triển, nước Nhật có nền văn hóa bản địa độc đáo đặc sắc, nước Nhật tính đến năm 2002 đã có 15 người được giải Nobel trên các lĩnh vực, trong đó văn học có hai người. Vậy mà nhà văn Kenzaburo Oe (Nobel 1994) tại một hội thảo ở đại học Duke (Mỹ, 1986) đã đọc một bản tham luận nhan đề "Tính lưỡng sắc của Nhật Bản, thế lưỡng nan của nhà văn" với đoạn vào đầu thẳng thắn: "Tôi đến đây gặp quý vị hôm nay với tư cách một nhà văn Nhật Bản cảm thấy nền văn học Nhật Bản có lẽ đang suy tàn. Ðiều thú nhận này của một nhà văn đến từ thế giới thứ ba chắc chắn sẽ làm thất vọng cử tọa đang chờ đợi một "thách thức" thực sự như đề tài thảo luận của chúng ta: "Sự thách thức của văn hóa thế giới thứ ba". Tuy nhiên có những lý do khiến tôi vui lòng nhận vai anh hề gây thất vọng; chúng gắn với một yếu tố của dân tộc Nhật Bản và cư dân của nó khiến họ khó lòng chấp nhận thực tếø họ là những thành viên của thế giới thứ ba và do đó miễn cưỡng đóng vai trò. Nhật Bản xuất hiện trên sân khấu quốc tế như một dân tộc thuộc thế giới thứ ba vào khoảng năm 1868. Ngay từ khi đó, trong quá trình hiện đại hóa, nó đã có thái độ thù địch rõ rệt đối với các dân tộc khác cũng thuộc thế giới thứ ba ở châu Á, như đã thấy qua việc nó thôn tính Triều Tiên và xâm lược Trung Quốc. Thái độ thù địch của Nhật Bản đối với các nước láng giềng vẫn còn đến tận hôm nay". Ðến cuối bài ông khẳng định lại một lần nữa cái nhìn của mình về dân tộc mình trong thế giới hiện đại: "Nhật Bản là một nước thuộc thế giới thứ ba có vị trí mù mờ trên thế giới và đóng một vai trò mù mờ". Diễn từ Nobel của Kenzaburo Oe trái ngược với diễn từ Nobel của người đồng hương trước ông là Yasunari Kawabata (1968). Ông viết: "Là người sống ở nước Nhật ngày nay và chia sẻ những ký ức cay đắng của quá khứ, tôi không thể nói như Kawabata là "Nhật Bản, cái Ðẹp, và chính Tôi". Chỉ khi nói "Nhật Bản, sự Mập Mờ, và chính Tôi" thì tôi mới có thể trò chuyện về bản thân mình được". Ông tự nhận mình là người "sinh ra và lớn lên ở một vùng ngoại vi, bên lề, xa trung tâm, của một nước ngoại vi, bên lề, xa trung tâm" và trong văn học ông sử dụng hệ thống hình tượng grosteque để đạt tới cái phổ quát toàn nhân loại. Tôi nghĩ, cái nhìn phê phán, cảnh tỉnh dân tộc đó của Kenzaburo đã làm nên giá trị văn chương của ông, đưa ông tới bục vinh quang ở hàn lâm viện Thụy Ðiển. Một thái độ, cách nhìn như vậy đáng để chúng ta suy ngẫm cho mình về dân tộc mình. (Những bài viết, bài nói của Kenzaburo Oe được tập hợp trong cuốn Japan, the Ambiugous, and Myself, published by Kodansha International 1995, tôi đã dịch và sẽ cho xuất bản).
2.
NTS hô hào làm mới mới, nghĩa là "đổi mới nhằm vào chính bản thân mình, chứ không phải nhằm vào người khác" (tr.34). Do đó anh một mặt thấy văn học Việt Nam cần có những Nexin, Bá Dương của mình, mặt khác anh thấy đã có những chuyển động mới trong sáng tác của bạn bè cùng thế hệ, hay giới trẻ nói chung. Những trang viết của anh về họ thật say mê, nồng nhiệt, và cũng thật thẳng thắn, chua cay. Bài "Các nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt Nam hiện đại", theo tôi, là bài tiêu biểu nhất cho lối nhìn, cách nghĩ, lối đọc, cách viết của NTS. Anh đã không nương nhẹ chị em cầm bút, vì như đề bài đã cho thấy, anh đi tìm sự khủng hoảng của văn học nước nhà qua biểu hiện của những trang viết nữ thường được nâng niu, ca tụng (người viết bài này có góp phần vào đó), để cuối cùng thấy ra "sự thiển cận của tư tưởng, nông cạn về trí thức, hời hợt trong tình cảm đã trở thành căn bệnh kinh niên không chỉ của riêng các nhà văn nữ, nó chỉ là một phần trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của văn học Việt Nam hiện nay" (tr. 41 - 42). Ðây là một nhận định kịch liệt, rát mặt, có thể còn phải tranh luận về mức độ, nhưng trung thực và nghiêm khắc nhìn nhận thì điều này đúng. Cái cách viết của NTS ở bài này, và nhiều bài khác, có vòng vo là vòng vo khi dẫn nhập, còn khi đã vào bài là anh nói thẳng đến điều cần nói, không phải cứ khen trước rồi chê sau, anh không thích kiểu mệnh đề "tuy..., nhưng" đã thành cũ mèm, lạm phát. Bạn đọc cứ mở cuốn sách ra xem, tôi dám chắc chưa có tập phê bình nào viết thẳng thừng, quyết liệt đến vậy. Ðó là cái khác của lớp người hiện nay với lớp người đi trước. Ngôn ngữ phê bình của NTS thường khi rất mạnh, giọng điệu khen chê thường khi rất căng, nhưng không có nhiệt tình hừng hực của tuổi trẻ muốn phá vỡ cái cũ xây cái mới thì không thể có ngôn ngữ ấy, giọng điệu ấy. NHS đã không đọc được kỹ NTS. Khi anh mỉa mai NTS phơi bày rõ ràng vị thế của lớp người trẻ thời đại tin học, anh đã không đọc ra thái độ của NTS phân biệt rạch ròi cái hiện đại trong đời sống và cái hiện đại trong văn chương. Ở bài phê bình tập thơ Linh, NTS viết: "Ðối với tôi, "hàng triệu người điên lên theo mãnh lực phần mềm Microsoft. Những tâm hồn đang được mã hóa với nhịp điệu sống lập trình. Ngày đêm, những nơron thần kinh căng cứng cập nhật dữ liệu. Con người không ngây thơ, không nhiều mơ ước và mất dần lãng mạn. Màu dollar sắp nhuộm cả da trời" không thể gọi là cách tân. Dù rằng ngôn ngữ có vẻ hiện đại, chất đầy những phần mềm, cập nhật, mã hóa, nhưng không vì thế mà rõ ràng hơn, và nhất là, hay hơn. Có thể cực đoan, nhưng tôi từ chối gọi những dòng trên là thơ" (tr. 105). Tôi nghĩ nhiều người, trong đó có NHS, cũng chia sẻ với sự "từ chối" này của NTS. Có dạo ta đè cổ thanh niên ra cắt tóc dài, giữ thanh niên lại xẻ quần loe, mà không cần biết họ nghĩ gì trong đầu. Nay NHS bực bội vì NTS thao tác mobie, personal computer, check mail, download website, ăn quán "cơm trưa văn phòng" hạng sang, nên vội định kiến đọc sai cả những điều NTS viết. Nhân nói một chuyện cá nhân. Tôi và NTS đều có bài về tập thơ Linh, tôi nói cái được, Sơn nói cái chưa được (cố nhiên, theo cách đọc của mỗi người), nhưng hai chúng tôi vẫn là bạn nhau. Vi Thùy Linh có bực tôi chuyện tôi chơi với NTS, tôi coi đó là tính nết riêng của cô nhà thơ trẻ, không coi đó là sự xía vô chuyện cá nhân của tôi. Nếu VTL có bực NTS vì thái độ "xoa đầu" mình như cô thấy trong bài viết thì đấy là cách ứng xử từ cách đọc của nữ nhà thơ ấy. NHS lấy đó như một lập luận phê bình NTS thì thực buồn cười. Thế khi NHS gọi NTS là "con dơi", "kẻ buôn bò", "ông Tây An Nam" thì NTS nên ứng xử thế nào? Vạn nhất mà NTS cáu bực lên đáp lại NHS cũng với những cách gọi như thế hoặc hơn thế thì văn đàn sẽ ứng xử thế nào?
Trở lại chuyện NTS mong muốn văn học Việt Nam có những Lỗ Tấn, Bá Dương, Nexin. NHS cho NTS nhắc đến các nhà văn này là "hàm ý so sánh mình" với họ, những người dám nhìn thẳng vào cái xấu, cái kém của dân tộc mình. Ðược thế đã đáng mừng, đằng này họ đã "vạch áo cho mình xem lưng" mình còn che mặt đi, sợ bị liên hệ, liên tưởng, liên lụy đến mình. Ðó là trường hợp cuốn Người Trung Quốc xấu xí của Bá (Bách?) Dương. Nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ ở Paris nặng lòng với đất nước đã xin phép tác giả chuyển sách đó ra Việt ngữ rồi gửi về nước muốn in ra cho người mình đọc. Bản thảo chạy đến mấy nhà xuất bản đành chịu nằm im. Các giám đốc, tổng biên tập xuất bản đọc nó thích lắm, muốn in lắm, nhưng... chịu thôi. Sau này nhà thơ Dư Thị Hoàn dịch lại cuốn đó, báo Văn Nghệ Trẻ có trích đăng mấy kỳ, còn ra sách thì vẫn chịu. Từ tình trạng này tôi hiểu vì sao có dịp tết báo Tuổi Trẻ mở chuyên đề bàn về thói hư tật xấu của người Việt, hỏi ý kiến của nhiều người nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực họ nói rất hay, rất thẳng thắn, nhưng ban biên tập đã phải e dè rút bớt, giảm nhẹ khi đăng lên. Và tôi hiểu vì sao nhà sử học Trần Quốc Vượng đã phải tung ra dư luận ý định làm một cuốn sách như kiểu Bá Dương của người Việt trước khi bắt tay vào viết. NHS là một nhà báo, anh không biết hay vờ quên những chuyện ấy. Nhân đang nói chuyện giao lưu văn hóa, cụ thể ở đây là với Trung Quốc, tôi muốn nhắc anh thêm một trường hợp Mạc Ngôn. Năm 2001 cuốn tiểu thuyết "Phong nhũ phì đồn" của nhà văn này dịch ra Việt ngữ đã mấy bận lao đao. Thứ nhất, tên cúng cơm bị đổi: "Báu vật của đời" thay vì "Vú to mông nẩy" (lỗi không ở người dịch) cho hợp thuần phong mỹ tục xứ Việt. Thứ hai, bản thảo chạy qua hai ba nhà xuất bản cuối cùng mới được nhà xuất bản Văn Nghệ (TP HCM) mạnh dạn in. Thứ ba, sách in ra bán chạy, người đọc tìm mua, phát hành bình thường, nhưng khi Hội Nhà Văn Hà Nội tổ chức hội thảo về nó thì có lệnh ban ra các báo không được đưa tin và đăng bài. Năm 2002 Mạc Ngôn được in tiếp một bản dịch tiểu thuyết "Ðàn hương hình". Nhưng bây giờ khi tôi đang viết những dòng này thì nghe đâu có tin là tất cả các sách của Mạc Ngôn đều bị cấm in lại và in mới. Cái cách ứng xử văn hóa này không biết có phải để phòng ngừa từ xa "sự kém hiểu biết, sự khiếp nhược và lóa mắt trước những giá trị tinh thần phương Tây" như NHS đã vội báo động. NTS, và thế hệ anh, đã đến quá sớm hay đi quá muộn trên văn đàn Việt Nam?
Trong mạch phản bác NTS về mục này, NHS viết tiếp: "Nhưng Lỗ Tấn (cũng như Nexin của Thổ) là một chuyên gia lớn và luôn luôn tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc Trung Hoa, vì niềm tự hào ấy mà ông càng căm hận bọn thống trị phản động đã đẩy đất nước đến cảnh yếu hèn, nhân dân phải sống tối tăm, khổ sở". Thú thực, kiểu viết những câu như thế này dùng cho "ông lớn" văn học nào cũng được, thành ra sáo mòn, cũ kỹ, nó không làm vinh thêm cho các bậc danh nhân được nói đến, mà ngược lại, có khi còn làm hại họ, vì sự lười biếng đọc của người viết ra những câu đó, chỉ thích lặp lại những điều chung chung ai cũng nói được. Văn hóa có hai mặt, khi Lỗ Tấn nói văn hóa Trung Hoa là "văn hóa ăn thịt người" thì đấy là vì lòng thương xót và trách nhiệm với dân tộc mình mà ông không ngại vạch ra cái mặt trái của văn hóa đó. Tôi sẽ dẫn thêm ra một thí dụ của Lỗ Tấn để NHS thấy ông không phải "luôn luôn tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc Trung Hoa". Nhưng trước hãy nói qua một chút về Azit Nexin. Các tác phẩm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này dịch ra tiếng Việt được đọc rộng rãi. Vì sao? Vì những cảnh ngộ cuộc sống ông đả kích, châm biếm ở xứ sở ông người Việt thấy đồng dạng ở xứ mình. Các nhà văn Việt không phải thiếu tài hài hước, không phải đui mù câm điếc, không phải dửng dưng bàng quan, nhưng họ không viết là... họ không viết, vậy thôi. Thế thì người Việt đành đọc người ngẫm mình, "lấy ngoài nói trong" vậy (đây từng là một trong hai phương châm chính thức của văn nghệ một thời, cái kia là "lấy xưa nói nay"). Bây giờ tôi nói về Lỗ Tấn, ông có một bài viết rất hợp cho cuộc trao đổi này, mà tiếc thay, theo chỗ tôi biết, các tập sách của ông in ra ở Việt Nam từ trước tới nay không thấy đưa vào. Bài đó nhan đề "Sẩy thai và tuyệt chủng". Chẳng là nước Trung Hoa thời Lỗ Tấn có những người nghiệt ngã với các thử nghiệm, tìm tòi của một số nhà văn trẻ, họ đòi các tác phẩm đó phải thành công, hoàn thiện ngay từ đầu, nếu không họ gọi đó là sự "sẩy thai", và răn dạy lớp trẻ chớ nên làm. Lỗ Tấn kinh ngạc trước hiện tượng đó: "Tôi không thể hiểu nổi tại sao người Trung Hoa mình lại quá thỏa mãn với tình trạng hiện tại và quá dị ứng với những thay đổi, quá khoan dung với những gì đã được hoàn tất và quá phê phán những gì mới meû". Ông viết tiếp: "Từ xửa xừa xưa, những bậc gọi là học giả luôn cố phủ đầu những kẻ tiếp bước. Gần đây, họ lịch sự hơn, nhưng bất kỳ ai mà cố thoát ly có lẽ sẽ được các học giả và những kẻ có học nhận ra ngay và mời ngồi lại. Khi đó họ sẽ tranh luận với anh ta, xem xét các điều kiện, nghiên cứu, suy ngẫm và trau dồi - cho tới khi anh bạn của chúng ta chết rục ở đó vì tuổi già. Nếu không, anh ta sẽ được phong tặng ngay là đồ phá thối. Tôi, cũng như những bạn trẻ ngày nay, đã từng hỏi đạo từ những ông thầy đã chết và vẫn còn chưa chết. Tất cả họ đều nói: "Ðừng đi về hướng đông, hướng tây, hướng bắc hoặc hướng nam". Không một ai bảo tôi hướng nào nên theo. Cuối cùng tôi phát hiện ra những gì họ nghĩ trong đầu. Nó thật đơn giản: "Ðừng đi đâu hết". Ðọc những dòng này tưởng như Lỗ Tấn đang viết cho cả mọi người Việt hôm nay để suy ngẫm, và cho riêng NHS để đừng biến ông thành cái bung xung cho mình. Cố nhiên, là nhà văn đã nêu lên quan niệm nổi tiếng "vốn xưa trên mặt đất không có đường, đường là do con người đi lâu mà thành", Lỗ Tấn chấp nhận "sẩy thai" còn hơn là "tuyệt chủng". Văn học, cũng như cuộc đời, luôn phải có khả năng sinh sản. Lỗ Tấn kết thúc bài viết ngắn sâu sắc của mình như sau: "Nếu ai đó không muốn đẻ mà cũng không muốn sẩy thai, mà chỉ muốn chờ cho một đứa con xinh đẹp xuất hiện, coi cũng được đó, nhưng tôi e rằng người đó rốt cục chẳng được gì hết. Nếu chúng ta tin rằng triệt sản cần thiết bởi vì không thể đẻ được những đứa trẻ ngoại hạng, không cần phải nói gì nữa. Nhưng nếu chúng ta luôn muốn nghe bước chân của những người trưởng thành, thì tôi nghĩ rằng sẩy thai vẫn đáng hy vọng hơn là không đẻ, bởi nó chứng tỏ rành rành là chúng ta có thể đẻ". Câu cuối cùng này tôi muốn nhấn mạnh cho tất cả những người có trách nhiệm bà đỡ cho các cái mới trong văn học (kể cả sáng tác, phê bình) ra đời. (Toàn văn bài Lỗ Tấn do Khiêm Ðịnh dịch, đăng trên tạp chí Hợp Lưu số 61, tháng 10 - 11/2001).
3.
NTS là người trẻ có học, có đọc, có sự nhanh nhạy cái mới, có lối viết hoa mỹ, những phẩm chất này có thể giúp anh thành một người phê bình văn học hiện đại có sắc thái, bản lĩnh. Bài viết của anh về tập thơ Nằm nghiêng của Phan Huyền Thư (không nằm trong tập này) đã nắm bắt nhanh được sắc thái "giễu nhại" (parody) của nhà thơ đó, mà ai có đọc văn học thế giới và lý luận văn học một chút hẳn biết, "nhại" là một biện pháp làm mất giá đối tượng, dọn đường cho một giá trị khác thay thế. Xin hãy nhớ lại Donkihote đối với tiểu thuyết hiệp sĩ. NTS còn có thêm một khả năng mà ít nhà phê bình hiện nay chịu trang bị cho mình, đó là ngoại ngữ, nhờ nó anh tiếp xúc trực tiếp được với văn học bên ngoài để chuyển tải những thông tin cập nhật về trang viết của mình. Ðể viết một bài như "Tiếp thị cho một giải Nobel văn chương Việt Nam" nhân trường hợp Cao Hành Kiện được giải năm 2000 thì người viết phải có khả năng thực hiện vai trò "sứ giả văn học" thông qua ngoại ngữ. Phần đầu bài này cung cấp thông tin, tư liệu lấy từ nguồn báo chí nước ngoài. Nhà báo NHS lâu năm trong nghề hẳn cũng đã nhiều lần từng đặt các cộng tác viên kiểu bài này mỗi khi cần đưa tin sớm về một sự kiện, nhân vật nào đó ở nước ngoài và chắc phải biết những nhận định, đánh giá trong đó đâu phải hoàn toàn của người viết. Cho nên NTS có khẳng định Linh Sơn là một tác phẩm lớn cũng là điều dễ hiểu. NHS hí hửng tưởng tố cáo được NTS chưa đọc sách đã vội khen sách, đấy là vì có thể anh tưởng mình là nhà phê bình nên quên được nhà báo, cũng có thể anh nghĩ ai cũng như mình phải chờ có bản dịch tiếng Việt rồi mới đọc, không hay rằng từ khi biết tin người được giải đến khi có tác phẩm của họ bằng một thứ tiếng nào đó, việc ấy trong thời đại ngày nay chẳng mất mấy thời gian. Ðiều đáng nói ở đây là NHS muốn làm phê bình văn học mà đọc sách lớt phớt, cả bài này NTS chú rất nhiều xuất xứ ngoại văn nhưng NHS cứ nhất mực "em chã", chỉ để đọc chữ Việt không thôi, hèn gì anh mới "phát hiện" cái tội tày đình của NTS là "không nói rằng đây là ý kiến của ông Tây, ông Mỹ nào". Nói chi đến chuyện NHS nắm bắt được ý tưởng và khát vọng của NTS nêu ra ngay từ cái đề bài. Từ giải thưởng cho Cao Hành Kiện, NTS thử nêu lên mấy bước cần làm trước tiên để 'tiếp thị" cho văn chương nước nhà đến được đài cao vinh dự này, rộng ra là mở mày mở mặt với văn chương thế giới. Cái nghĩ và cái tâm của một người trẻ tuổi đối với tương lai văn học nước nhà như thế đáng phải quý trọng và lắng nghe, đằng này lại bị xúc xiểm và bóp méo. Ngay cả phản ứng ở quê hương người được giải NTS cũng không nói gì quá hơn là sự thật. Chắc nhà báo NHS chưa quên năm 2000 giải Nobel văn học cho Cao Hành Kiện ở Việt Nam không được phép đưa tin và bình luận rộng rãi theo hướng khen ngợi đề cao, và lý do vì sao thì chắc anh cũng rõ. Bản thân người viết bài này đã vô tình làm mất giải thưởng hội báo xuân 2001 của tạp chí Sông Hương vì gửi bản dịch một bài tiểu luận của họ Cao đến và được đăng. Trong tình hình đó bài viết của NTS còn nên nói là dũng cảm, và nơi đặt bài và đăng bài cũng là dũng cảm, nơi đó là tờ báo chỗ NHS làm việc.
Ở trên tôi nhắc đến tập thơ của PHT và bài phê bình của NTS để nói đọc phê bình văn học như NHS thì dung tục quá, thô thiển quá, đáng buồn, (xin cho tôi khỏi dẫn lại đây vì tôn trọng bạn đọc). Qua đó thấy NHS đã hạ quan niệm "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu" trong việc thẩm bình văn của các cụ ta xưa (chưa nói các quan niệm hiện đại) xuống cấp "cánh hẩu" với nhau. Thế mới biết khi giận quá thì mất khôn, khi nói quá thì hết khôn dồn ra dại. NHS đối lập hai câu của Hoài Thanh với sáu trang của NTS cho là cùng về một quan niệm phê bình văn học, nhưng anh quên rằng hai câu đó nằm trong cả bài Nhỏ to cũng dài năm, sáu trang đặt cuối sách Thi nhân Việt Nam để Hoài Thanh giãi bày cái quan niệm của mình khi tuyển bình thơ. Trong bài đó, tôi xin nhắc đặc biệt cho NHS hai điều cơ bản có tính nguyên tắc của ông, mà anh đề cao Hoài Thanh nhưng lại quên chúng khi học đòi theo ông viết phê bình: một là, khi xem thơ chỉ biết có thơ; hai là, cố giữ lòng ngay thẳng, ít nhất là trong văn chương. NHS cũng cần nhớ rằng Hoài Thanh đã từng là nạn nhân của một cuộc tranh luận nghệ thuật gần bảy mươi năm về trước, khi ông bị đối phương đang từ bàn chuyện văn chương chuyển sang quy kết chính trị, vu cho ông và các bạn hữu là thuộc "giai cấp phú hào" khiến ông phải nổi xung viết bài đáp lại "sự vu cáo đê hèn" đó.
Nhược điểm của NTS cũng từ ưu điểm của anh mà ra. Mượn câu của anh nhại Erich Segal nói về thơ Linh, tôi muốn nói: "Biết viết gì về một tập phê bình khi nó đã được xuất bản... Viết rằng nó khá mạnh bạo, và có vẻ vô cùng thông minh". Còn cần thời gian để anh thoát khỏi những "xác chữ" của những điều đã đọc, để nâng những nhận xét lên thành nhận định, nhận định lên thành luận điểm. Văn phê bình của anh cũng cần có sự tiết chế hơn, bớt hoa mỹ đi một chút, giản dị trong sáng hơn lên. Một số bài còn cần phải triển khai, đi sâu phân tích lý giải hơn nữa, chớ dừng lại chỉ mới như một phát biểu. Tôi gửi anh một câu khuyên của cổ nhân về nghề thơ, nhưng rộng ra là về nghề văn chương nói chung: "Thơ cốt đạm, nhưng phải là cái đạm sau khi đã nồng". Anh đang nồng, cái nồng tuổi trẻ, mong anh hãy giữ nó cho đượm trên từng trang viết, nhưng phải làm sao để cái đạm về sau lắng sâu. Nguyễn Huy Thiệp có lần kể một trong những nguyên nhân viết văn của anh là khi đọc văn học nước nhà đương đại anh thấy các nhà văn ta văn hóa thấp. Phạm Thị Hoài có lần thổ lộ trước khi cầm bút viết văn chị đã tự làm cuộc tổng kiểm kê văn học Việt Nam cho mình và thấy ra nó có ba điểm chết. NTS đã vạch lối đi phê bình văn học "của tôi" khi anh không bằng lòng với cái vốn văn học dân tộc đã biết, đã học, đã đọc. Di sản là ga đi chứ không phải ga đến, nhà thơ Lê Ðạt đã nói một câu chí lý. Kể ra bốn di sản văn hóa thế giới của Việt Nam (điều ai cũng biết, và di sản thế giới gần như nước nào cũng có) để làm gì, khi UNESCO đã có lần dọa rút giấy phép công nhận đối với Hạ Long, và bản tin gần đây của VnEspress cho biết Mỹ Sơn đang xuống cấp nghiêm trọng, lý do đều vì văn hóa tinh thần của người Việt trong việc quản lý di sản đang có vấn đề tắc trách, cẩu thả, vô trách nhiệm. Ðã có người Việt nào dám sống chết (theo đúng nghĩa đen) cho một di sản của nước khác như kiến trúc sư Ba Lan Kazik với thánh địa Mỹ Sơn? Tôi thật có lỗi với người đã khuất khi nêu lên câu hỏi này, nhưng bài viết của NHS đã khiến tôi lo lắng mình là người vô ơn với ông, vì biết đâu NHS chẳng cho là Kazik mất gốc, sùng ngoại, khi cứ ca tụng hết lời mấy ngôi tháp Chàm nằm giữa rừng núi ở một xứ tận Ðông Nam Á xa xôi.
Ðầu đề bài viết của NHS, trái với mong muốn của tác giả, lại khẳng định một sự thật: lớp người mới của một thời đại mới đòi hỏi có một thứ văn học mới của mình. Chính sự xuất hiện của thành thị, và tầng lớp thị dân, đã đưa đến văn học hiện đại. Ðiều này đã trở thành một quy luật. Nếu NHS chịu khó đọc các công trình nghiên cứu lịch sử văn học nước nhà thì thấy từ cuối thế kỷ XVIII cùng với sự hình thành các thị tứ thì yếu tố thị dân đã bắt đầu xâm nhập và phá vỡ khuôn phép văn chương truyền thống, làm nảy sinh thêm một mẫu hình nhà nho tài tử, và thể thơ hát nói thể hiện quan niệm "hành lạc" rất phi nho chính là phát triển mạnh từ đây cho đến tận đầu thế kỷ XX. Và một điều hiển nhiên mà một học sinh trung học nào cũng biết là không có thành thị kiểu phương Tây cùng với kiểu nghệ sĩ tây học thì đã không có văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ hai mươi. NTS đã chỉ nêu lên một thực tế thời đại khi viết "Sự ra đời của một thế hệ độc giả sinh ra cùng với sự tồn tại của máy tính. Ðối với những độc giả trẻ đó, đọc sách và thu thập thông tin trên màn hình máy tính cũng tự nhiên như chúng ta vẫn hàng ngày đọc sách và các tạp chí khác nhau. Họ có những ngôn ngữ khác, những văn hóa khác với những gì mà chúng ta đang có, và nếu không quan tâm đến lớp độc giả này, văn học của chúng ta chắc chắn sẽ tụt hậu" (tr. 157). Ðây đã là một thực tế hết sức hiển nhiên, ví như ngày trước trong nước muốn đọc được diễn từ Nobel của các nhà văn đạt giải phát biểu tại lễ trao giải vào ngày 10/12 hàng năm ở Thụy Ðiển thì phải hàng tháng chờ sách báo ngoại quốc về, nay lễ hôm trước thì hôm sau lên mạng đã có bài, vài hôm nữa đã có thể có bản dịch Việt ngữ đăng báo. Mạng nhện điện tử này (Web) khác mạng nhện xó bếp nhà quê, nên cái làng toàn cầu không phải là cái làng sau lũy tre xanh. NHS làm báo há không hưởng tiện ích ấy của Internet và không thấy tư duy viết báo của mình có đổi thay sao? Vậy mà NHS đem những lời đó của NTS ra nhạo báng và phủ nhận thì thật là ngây ngô, ngược đời, và là cố nói lấy được. Thực ra, nói thực tế vậy, nhưng NTS có sự hoài nghi rất chính đáng. Trong bài giới thiệu "Siêu tiểu thuyết", sau khi cung cấp những thông tin cập nhật về tiểu thuyết thời "hậu Gutenberg", ở phần kết anh tỏ ra không tin vào những cái chết được báo trước, nghĩa là anh vẫn tin tiểu thuyết dạng sách in sẽ còn tồn tại lâu dài, nhưng cái chính anh muốn đặt ra ở bài này là tiểu thuyết đó phải thay đổi phù hợp với thời đại tin học. Từ thế giới nhìn về tiểu thuyết nước nhà những năm gần đây anh lo lắng khi thấy "các nhà văn Việt Nam dường như không quan tâm thích đáng tới việc cải tiến kỹ thuật, hay cố gắng tìm hiểu những phong cách viết mới" (tr. 157). Và NTS mong mỏi: "Trong một số ngành kinh tế và kỹ thuật hiện nay, người ta bắt đầu dùng khái niệm "đón đầu công nghệ" để chỉ con đường ngắn thoát ra khỏi tình trạng luôn luôn đi sau thế giới. Phải chăng đã đến lúc các nhà văn của chúng ta cũng nên tìm cách vượt lên trước, nắm bắt được những trào lưu hiện đại của văn học thế giới, để có thể "đón đầu" được những xu hướng mới của thời đại?" (tr. 157). Câu chữ rõ ràng, thiện ý rõ ràng đến vậy, sao NHS lại cố tình bẻ cong để chỉ trích? Một thực tế đã chứng minh điều NTS lo lắng là đúng, đó là Hội Nhà Văn Việt Nam liên tiếp mở các cuộc thi tiểu thuyết, hội thảo tiểu thuyết, và dù rất dè dặt cũng phải báo động là tiểu thuyết ta đang yếu kém. NHS là nhà báo văn hóa văn nghệ hay đưa tin bình luận về các giải thưởng cuộc thi này nọ, lẽ nào vì muốn tranh thắng thua trong cãi nhau mà quên mất tôn chỉ trung thực, khách quan của người làm báo? Tôi vừa viết bài giới thiệu cuốn tiểu thuyết Shanghai Baby của nhà văn nữ Wei Hui ở Thượng Hải (Trung Quốc) cốt để cho bạn viết trong nước tham khảo, chỉ xin dẫn ra đây một dẫn chứng. Cuốn tiểu thuyết đó gồm 32 chương, mỗi chương có đầu đề và có một hay nhiều đề từ trích của các nhà văn phương Tây từ cổ điển đến hiện đại. Ðược hỏi vì sao không trích dẫn các tác giả Trung Quốc, Wei Hui trả lời: "Tôi rất quý trọng văn học cổ điển Trung Quốc. Sau hết, tôi đã được học chúng rất nhiều hồi ở đại học. Nhưng khi viết Shanghai Baby tôi cần thể hiện sự nổi loạn, dục vọng, cơn giận dữ và tốc độ mau lẹ nên trích dẫn văn học phương Tây thích hợp hơn". May là câu này nói ra ở Trung Quốc, mặc dù tác phẩm bị cấm, bị đốt ở đó.
Trường hợp Phạm Quỳnh được NHS lôi ra trích dẫn về truyện Kiều có hai điều cần nói rõ. Tôi dùng chữ "lôi ra" là để chỉ sự không minh bạch ở đây của NHS, và không riêng NHS. Thứ nhất, "khi không ưa thì dưa có dòi", một thời các bài của PQ bị phê phán hết lời, nay cần chứng minh Kiều để nói một điều không cần phải nói thì lấy ra bài của ông mặc nhiên coi như chân lý. Khoa học đâu phải là thế, đó là cơ hội, "tháu cáy". Những bài viết về Truyện Kiều của PQ có phần giá trị, nhưng cũng có phần bốc đồng, thậm xưng, dẫn đến sai lầm, lệch lạc trong nhận định, đánh giá. Ngay Ngô Ðức Kế đương thời trong một bài viết đậïp lại bài diễn thuyết truyện Kiều của PQ với những lời mạt sát quy kết nặng nề bất công cho họ Phạm cũng đã không đồng ý với cái sự đề cao Kiều quá mức tột đỉnh như vậy: "Thế thời những đại hào kiệt, đại huân kiệt cứu dân giúp nước ta ngày xưa, không ai làm vẻ vang cho giống nòi, không ai đáng kỷ niệm cả mà chỉ ông văn sĩ trăm năm trong cõi là làm vẻ vang giống nòi là đáng kỷ niệm hay sao?". Một nhà nghiên cứu về sau cũng viết: "Cả đến ý kiến so sánh truyện Kiều với văn tế của Bossuet, hoặc cho là một kỳ công có một trong cõi văn thế giới cũng là rất đáng phê bình" (Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Anh Phương xuất bản, tập 3, tr.157). Thứ hai, trong liên quan với loạt bài về Kiều của PQ, chính bài của Ngô Ðức Kế, sau đó là bài của Huỳnh Thúc Kháng, dù có được biện minh về chính trị, đã là một "tiền lệ" xấu cho việc tranh cãi học thuật xoay sang quy kết chính trị và mạt sát cá nhân. Hậu quả đến bây giờ là bài của NHS.
4.
Tôi viết bài này trong một cảm giác buồn. Buồn vì một lối phê bình cũ kỹ, thô thiển vẫn còn dai dẳng sống. Hơn thế nó còn được khuyến khích, cổ vũ bằng giải thưởng.(Lạ! Bài vừa in chưa ráo mực, đối tượng bị phê bình chưa kịp đọc và suy nghĩ để trao đổi lại, thì đã được trao ngay giải bài hay trong năm, tức là đã đóng dấu triện công nhận nó là đúng, là không còn gì bàn cãi nữa, như thế khác nào tòa chưa xử mà án đã tuyên). Buồn vì biết chắc bài mình viết trao đổi lại sẽ không đăng được, vì một khi người ta đã đứng hẳn về một phía thì còn cần gì phía bên kia. Cho nên cái điều NHS nói việc khen chê là biểu hiện bình thường của một nền văn học lành mạnh đã nhãn tiền không thấy trong cuộc này, ở báo đó. Mà cái báo đã đăng bài đi không đăng bài lại thì thôi, các báo khác chẳng dại gì dây vào, không phải đầu cũng phải tai, lệ xứ ta là thế rồi. Buồn vậy nhưng không buồn lâu. Vì như NTS nói, thời đại này là thời đại thông tin toàn cầu. Ngoài báo viết, báo nói, báo hình, nay có thêm báo mạng (còn gọi là báo trực tuyến - online). Nhờ báo mạng cuộc cách mạng văn học Việt Nam hiện nay đang có một kênh ra tự do và tự chủ. Bài của tôi sẽ ra trên báo mạng, điều này làm tôi thấy yên tâm để lao động cho văn học nước nhà.
Cuối cùng tôi nói về cái đầu đề bài viết của mình: NHS đọc NTS hốt hoảng nhìn núi xanh (thanh sơn) không chịu được, viết bài la lối bắt phải thành núi vàng (hoàng sơn), lá đang xanh đòi nhuộm thành lá vàng. Văng vẳng tôi nghe câu ca xưa vọng về "Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống...".
Tokyo, tuyết đầu mùa, 12/02
(source: talawas)