Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu sâu sắc và giải quyết tốt hơn vấn đề dân tộc.
A. Một số đặc điểm cơ bản về tình hình các dân tộc ở Việt Nam
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm đa số, còn các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 13% dân số trong cả nước.
Trong đời sống chính trị, chúng ta quen gọi dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em. Trước thực tiễn xã hội và điều kiện thế giới hiện nay, việc giữ nguyên cách gọi như vậy là đúng đắn và cần thiết.
Có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của các dân tộc ở nước ta như sau:
1. Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Trong lịch sử mấy nghìn năm, các dân tộc anh em đều chung lưng đấu cật để chống giặc ngoại xâm và chống thiên tai, xây dựng cuộc sống cho cả cộng đồng. Đoàn kết trong chiến đấu và trong lao động là truyền thống, là đặc điểm nổi bật của dân tộc Việt Nam. Do đặc điểm kẻ thù xâm lược luôn nhòm ngó đất nước ta, vì sự tồn vong của mình, các dân tộc đều phải đoàn kết, tương trợ, hướng về triều đình, cố kết với nhau. Các dân tộc sống ở biên cương là phên giậu của đất nước. Triều đình khoan sức dân, đặc biệt là ở vùng biên cương của Tổ quốc. Dân tộc Kinh cũng như các dân tộc thiểu số đều đoàn kết một lòng. Trong lịch sử, nhiều anh hùng trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước là người thuộc các dân tộc thiểu số.
Từ ngày sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy cao hơn, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Về tính chất cư trú của các dân tộc
ở một số vùng nhất định, có dân tộc cư trú tương đối tập trung, song nhìn chung, các dân tộc sống xen kẽ là phổ biến. Các dân tộc ở nước ta không có lãnh thổ riêng biệt như ở một số nước khác. Cư trú xen kẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hòa hợp dân tộc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
3. Các dân tộc ở nước ta là những bộ phận cấu thành quốc gia thống nhất, song lịch sử để lại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, kể cả sự chênh lệch giữa các dân tộc thiểu số. Thực trạng đó là hậu quả của chế độ thực dân phong kiến trước đây và đất nước ta lại phải liên tục chống chiến tranh xâm lược của các đế quốc to là Pháp và Mỹ trong mấy chục năm kể từ ngày giành được độc lập năm 1945. Sự lạc hậu của nền kinh tế và những tàn tích của chế độ cũ cùng với điều kiện thiên nhiên, môi trường khắc nghiệt là những cản trở lớn trong sự nghiệp phát triển ở các vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu lâu dài, gian khổ, trước hết là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa của các dân tộc thiểu số để tất cả các dân tộc anh em đều vươn lên, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả cộng đồng dân tộc.
4. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo trong quá trình lịch sử, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học- nghệ thuật, kiến trúc, y phục, phong tục tập quán, tâm lý và tình cảm, quan hệ gia đình và dòng họ, tín ngưỡng tôn giáo... Sự phát triển đa dạng về văn hóa của các dân tộc càng làm phong phú nền văn hóa thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
5. Các dân tộc thiểu số ở nước ta tuy chỉ chiếm khoảng 13% dân số, nhưng lại cư trú trên một địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh và môi trường sinh thái của cả nước. Một phần quan trọng trong tiềm năng to lớn và đa dạng về kinh tế của đất nước là ở các vùng miền núi. Trong lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số cố kết với dân tộc Kinh kháng chiến chống giặc ngoại xâm và xây dựng Tổ quốc. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhiều vùng dân tộc thiểu số anh em cư trú trở thành căn cứ địa cách mạng và căn cứ của các cuộc kháng chiến cứu nước. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, các dân tộc thiểu số anh em đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy có thể nói, các dân tộc thiểu số anh em có vị trí cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
B. Những quan điểm và đường lối, chính sách dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập đã đề ra đường lối đoàn kết các dân tộc vì sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng Tổ quốc phồn vinh. Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam" như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) quy định: "Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam".
Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong quốc gia thống nhất là cốt lõi của chính sách dân tộc của Đảng. Điều đó thể hiện ở những nét chủ yếu sau đây: một là, tất cả các dân tộc sống trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta đoàn kết, thống nhất, cùng làm chủ vận mệnh của mình để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, làm cho tất cả các dân tộc vĩnh viễn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến tới văn minh và hạnh phúc. Hai là, tất cả các dân tộc đều bình đẳng, tương trợ lẫn nhau. ở đây cần chú ý rằng bình đẳng trong khuôn khổ thống nhất quốc gia, dân tộc. Đoàn kết chính là nhiệm vụ để thực hiện sự thống nhất quốc gia dân tộc. Ba là, phát triển kinh tế, văn hóa, dần dần xóa bỏ sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Bốn là, tôn trọng lợi ích, văn hóa tín ngưỡng, ngôn ngữ và tập quán của các dân tộc; phát huy văn hóa, phong tục tập quán hay của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và chia rẽ dân tộc.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX tiếp tục khẳng định quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời chỉ ra phương hướng, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta. "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc, thiểu số. Động viên và phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc"(1).
Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước ta, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Vấn đề mới lần này là ở chỗ Đại hội IX khẳng định vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc có một vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Đây là sự xác nhận trình độ các dân tộc thiểu số đã được nâng cao hơn so với những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, đồng thời nâng mức bình đẳng lên cao hơn, đặt ra vấn đề các dân tộc cùng phát triển.
2. Một số chủ trương chính sách lớn của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các dân tộc thiểu số và miền núi.
Trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số anh em đã có những bước tiến bộ vượt bậc so với trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành, đặc biệt là Nghị quyết số 22/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989 và Quyết định số 72/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi đang được thực hiện để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
1) Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, mở cửa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gắn với việc xây dựng nông thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng nơi là phương hướng đúng đắn, là nhân tố quyết định, thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Tất nhiên, phải đặt sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số trong mối quan hệ hữu cơ với cơ cấu kinh tế từng vùng và các tổ hợp kinh tế lãnh thổ. Đây là yêu cầu khách quan để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh, mở rộng các mối liên kết, hợp tác trong và ngoài nước. Theo phương hướng đó, cần thực hiện mấy giải pháp cơ bản và cấp bách sau đây:
a) Xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục về căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay.
Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Đồng thời Nhà nước tôn trọng quyền lợi của hộ nông dân đã sử dụng lâu dài hoặc khai phá đất hoang hóa một cách hợp pháp thành đất màu mỡ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII đã chỉ rõ việc xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào. Nhà nước giao đất, giao rừng cho nhân dân sử dụng ổn định, lâu dài, "thực hiện giao, khoán đất, rừng đến tận hộ nông dân, kết hợp giải quyết có lý, có tình những tranh chấp về đất đai"(1). Điều chỉnh hợp lý, giao lại cho nông dân sử dụng những đất đai mà các quốc doanh nông, lâm nghiệp bao chiếm nhiều và không có điều kiện kinh doanh hoặc kinh doanh không có hiệu quả. Chủ động chuyển dần đến những nơi có điều kiện sản xuất ổn định; kiên quyết khắc phục tình trạng để nhân dân tự động chuyển cư như hiện nay.
Việc định canh định cư đối với đồng bào dân tộc phải gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, các dự án giao đất, giao ruộng, phủ xanh đồi trọc. Đầu tư đồng bộ, tập trung, nhằm huy động các nguồn vốn, tạo điều kiện cho đồng bào còn du canh du cư chuyển sang làm nghề rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực, chăn nuôi, làm kinh tế vườn - đồi... theo hướng nông - lâm kết hợp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Các tổ chức kinh tế của Nhà nước và của tập thể trên cơ sở đổi mới phải làm tốt các dịch vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt về vốn, miễn giảm thuế, về cung ứng vật tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến và tiêu thụ sản phẩm. Đảm bảo lương thực cho các vùng vận tải khó khăn, thiếu thốn lương thực, tạo điều kiện để đồng bào không quay lại cuộc sống du canh du cư, phát nương làm rẫy.
b) Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung sức để phát triển những cây, con có ưu thế thành hàng hóa với bước đi, quy mô phù hợp, gắn với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế của từng nơi, tập trung phát triển những cây, con có lợi thế của từng vùng thành hàng hóa với quy mô phù hợp, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những hướng cơ bản thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất không những ở vùng miền núi mà cả trong phạm vi toàn quốc. Vấn đề ở đây cần xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế của từng vùng và tiểu vùng để xác định cho thích hợp.
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã và đang giải quyết về cơ bản vấn đề lương thực, vấn đề sử dụng quỹ đất lớn tập trung ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh tế hàng hóa làm cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số cư trú giàu mạnh là một vấn đề cấp bách, nhưng cũng là vấn đề hiện thực. Chúng ta tập trung chuyển đổi cơ chế quản lý, ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển sản xuất, và đặc biệt ưu tiên tập trung đầu tư vốn vào các vùng này, nhất định chúng ta có thể chuyển đổi được nền kinh tế tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa. Vấn đề đặt ra là cần tích cực tìm kiếm, lựa chọn những công nghệ và thiết bị phù hợp và dành vốn đầu tư thích đáng cho lĩnh vực này, coi đây là nhân tố quan trọng, đảm bảo mở rộng thị trường tiêu thụ nông-lâm sản hàng hóa cho nhân dân các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, các doanh nghiệp khác đóng trên địa bàn miền núi phải thực sự trở thành những trung tâm kinh tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong vùng, thúc đẩy tiến bộ xã hội (giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế địa phương).
Thương nghiệp phải gắn với các ngành kinh tế khác hình thành nên những tụ điểm công nghiệp - thương mại - dịch vụ với các loại quy mô to nhỏ khác nhau, tạo thành động lực kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các dân tộc.
c) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế thích hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nói riêng và đối với miền núi nói chung, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, làm chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số cư trú.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình phát triển của miền núi mà có chính sách đầu tư đồng bộ và có trọng điểm theo chương trình và các dự án vào các lĩnh vực và vùng quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân tộc và miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công trình thủy lợi (bao gồm cả nước ăn) phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và giao lưu kinh tế-văn hóa, gắn với mục tiêu ổn định và cải thiện đời sống, giữ vững an ninh, quốc phòng ở các vùng dân tộc, tạo điều kiện cho miền núi mở cửa làm ăn với các địa phương trong cả nước và nước ngoài.
Đồng thời với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, cần thúc đẩy việc áp dụng cơ chế thích hợp nhằm phát huy ý thức tự lực tự cường và năng lực sáng tạo của đồng bào các dân tộc, huy động mọi tiềm năng và thế mạnh của miền núi. Phải thấy tiềm năng to lớn của miền núi và vùng đồng bào các dân tộc anh em cư trú để khơi dậy tiềm năng trí tuệ của nhân dân các dân tộc vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.
2. Thực hiện chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và trí thức cho dân tộc thiểu số.
Trước hết cần tập trung vào việc nâng cao dân trí. Thực hiện có hiệu quả việc xóa mù chữ cho thanh niên và cán bộ cơ sở và phổ cập giáo dục tiểu học cho đối tượng này. Có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại các loại cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển mọi mặt của từng vùng, từng dân tộc.
Tăng cường vốn đầu tư cho các trường học. Xây dựng các loại trường lớp nội trú, đảm bảo đủ giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc thiểu số.
Mở rộng hệ đào tạo cán bộ dân tộc trong các hệ thống trường Đảng, trường đoàn thể, trường hành chính và các lực lượng vũ trang theo chương trình đổi mới.
Thực hiện tốt chính sách chế độ khuyến khích đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền núi, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng cao và thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển miền núi.
Có chế độ chính sách ưu đãi động viên về tinh thần và vật chất với các già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong các dân tộc (kể cả một số chức sắc tôn giáo) trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3. Kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa khoa học của nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật là nhằm không ngừng đưa các thành tựu văn hóa mới đến với nhân dân, bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa khoa học của nhân loại để làm cho đời sống tinh thần văn hóa của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam phát triển ngang tầm với sự phát triển của thời đại.
Trong đời sống văn hóa, nhân dân các dân tộc thiểu số cần được thông tin về thời sự, chính sách, có đủ sách báo thông tin về những thành tựu văn hóa tiên tiến. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế thừa phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, cản trở sự tiến bộ của các dân tộc.
Điều quan trọng trước hết vẫn là nâng cao đời sống kinh tế để nhân dân các dân tộc có điều kiện hưởng thụ các thành tựu văn hóa, nâng cao dân trí và có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin miền núi, có chính sách tài trợ cho các nhà văn, nghệ sĩ sáng tác các đề tài về miền núi và dân tộc thiểu số.
4. Có chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến, từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.
Nhà nước ưu tiên thực hiện các chương trình chăm sóc đến đời sống và sức khỏe của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Thực hiện tốt nhất các chương trình quốc gia về chống sốt rét, chống bướu cổ, xóa bỏ các ổ bệnh dịch gây tử vong cao, làm suy giảm giống nòi ở một số vùng dân tộc.
Thực hiện mạnh mẽ chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình bằng các giải pháp hữu hiệu để đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa hạn chế sinh đẻ, nhờ đó bảo vệ được nòi giống, chăm sóc được con cái, nâng cao trình độ dân trí và phát triển tiến bộ.
Thực hiện chính sách ưu đãi những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hóa văn nghệ đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Giải quyết nhanh chóng nhu cầu nước sạch cho đồng bào vùng cao.
Giải quyết những vấn đề này phải trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, khai thác cao nhất mọi tiềm năng trong nhân dân, kết hợp với đầu tư thích đáng của Nhà nước và sử dụng có hiệu quả các hoạt động từ thiện và dự án đầu tư của nước ngoài vào vùng dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực hiện, cần chú ý chống việc kẻ địch lợi dụng những khó khăn, rủi ro trong đời sống của đồng bào để kích động, chia rẽ, gây mất ổn định ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hoặc thực hiện các chiến lược lâu dài nhằm tiến hành "diễn biến hòa bình" ở các vùng này.
*
* *
Kế thừa truyền thống và những chính sách đoàn kết dân tộc của cha ông ta trong các thời đại trước đây vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước, thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
Phụ lục
Các chỉ thị, quyết định của Đảng và Chính phủ
về công tác dân tộc và miền núi
Sau khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng, Đảng và Chính phủ đã ban hành:
+ Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer.
+ Chỉ thị số 525/TTg ngày 2/11/1993 của Thủ tướng Chính phủ đề ra một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội
miền núi.
+ Chỉ thị số 393/TTg ngày 10/6/1996 của thủ tướng Chính phủ về quy hoạch dân cư, tăng cường cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi.
+ Quyết định số 656/TTg ngày 13/9/1996 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên thời kỳ 1996 - 2000 và 2010.
+ Quyết định 960/TTg ngày 24/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc.
+ Quyết định số 35/TTg ngày 13/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã.
+ Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.
+ Quyết định 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.
+ Quyết định 1235/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.
+ Quyết định 138/2000/QĐ-TTg, ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hợp nhất dự án ĐCĐC, dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình xây dựng TTCX miền núi, vùng cao và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa.
+ Chỉ thị số 15/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở các xã biên giới, hải đảo.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) (2) Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.546; 1323 (Những đoạn gạch dưới do người trích nhấn mạnh).
(1) Ph.Ăngghen: Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.279.
(1) Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2001, tr.127-128.
(1) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VII.