Người Việt được hình thành từ mấy chủng tộc?

Lưu Công Thành
(congthanh)

Điều hành viên
Sau khi ngồi đếm ở Việt Nam có bao nhiêu họ gần đi đến phần kết (chắc còn sót là 20-30 họ gì đấy thôi), bây giờ chúng ta ngồi đếm xem ở VN có bao nhiêu loại gen (ngoại hình con người) khác nhau? Cái này cũng khá rõ ràng, mình ngồi đếm sơ sơ thì cũng ra được một vài nhóm người, nhưng chưa biết tả thế nào. Tiêu chí để xác định đó là gen của một nhóm người Việt cổ là:

1. Khá đặc sắc;
2. Thể hiện trên một nhóm người khá đông;

Từ tổng kết này có thể đưa ra kết quả về lịch sử đích thực của Việt Nam :)
 
hehe, riêng người Kinh cũng có đến gần 20 chục mẫu người khác nhau, đặc thù cho từng vùng. Để khi nào ảnh tổng kết cho mà xem.
 
Bác Thành có vẻ thích lập topic mới nhỉ .Bác có nhớ là còn nợ mọi người mấy cái " khi nào " không ạ :)
 
Mk, chú thay cái chữ ký đi CAHN với HKVN còn đâu nữa :p
 
Hê hê ,chữ ký của em đang trong thời kỳ quá độ bác ạ . Hẹn bác V-league năm sau trên sân Hà Nội nhá
 
Hè hè vào đây phát biểu 1 tí(vì ngứa miệng)
các bố không không biết định nghĩa của chủng tộc thì cũng không nên phát biểu kiểu:
"riêng người Kinh cũng có đến gần 20 chục mẫu người khác nhau".
Chính phủ ta có chính sách:Nếu TQ có 56 dân tộc anh em thì ta cũng có 54 dân tộc anh em, không thể hơn TQ được.
(dân tộc-ethnic group khác chủng tộc)
Nếu ai muốn làm PhD thì cũng có thể làm chỉ riêng về khoản phân loại dân tộc kiểu này- tôi biết 1 chú ở Nhật và 1 chú ở Mĩ đang sắp hoàn thành PhD về cái của khỉ này.
Cái này có liên quan nặng nề tới vấn đề chính trị nên không được quyền thảo luận ở HAO.
 
Chết cha hơi nhầm- anh thành hỏi về chủng tộc chứ có hỏi về dân tộc quái đâu tại anh Châu chuyển hướng thành dân tộc làm mình nhầm nhọt.
Dân VN thời tiền sử thuộc chủng úc-á(austro-Asian còn gọi là proto Malayan) (ở thời văn hoá Bắc Sơn) sau bị dân TQ tràn vào chiếm đóng, đồng hóa, hàng loạt dân TQ di cư xuống VN nên gene pool của VN bị hòa với TQ.
 
post thử bài này ở VNN:

Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
PGS.TS Lê Doãn Tá

I. Dân tộc - sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử

1. Khái quát về dân tộc: Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử. Thuật ngữ "Dân tộc" (Nation) và thời điểm xuất hiện của dân tộc là vấn đề tranh luận khoa học kéo dài nhiều thập kỷ, cho mãi tới ngày nay. Các trước tác của Mác, Ăngghen, Lênin chưa từng đưa ra định nghĩa về dân tộc. Còn định nghĩa mà các sách báo trước đây thường hay viện dẫn, lại không phù hợp với Việt Nam và các nước phương Đông.

Chúng ta đều biết rằng, lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất vật chất là cơ sở quyết định mọi quá trình có liên quan đến sự xuất hiện và hình thành các tổ chức xã hội của con người, đến sự thay đổi các hình thái cộng đồng người. Do lực lượng sản xuất phát triển khoảng 5 vạn năm trước (có tài liệu nói sớm hơn) các thị tộc thay cho bầy người. Nhiều thị tộc hợp lại tạo thành bộ lạc. Cơ sở của chế độ thị tộc và bộ lạc là phương thức sản xuất công xã nguyên thủy, là chế độ sở hữu tập thể của công xã (đất đai, công cụ sản xuất...), sản phẩm lao động chia đều cho mọi người. Chỉ có quần áo, đồ trang sức thuộc sở hữu cá nhân của từng người.

Bên cạnh quan hệ sản xuất công xã nguyên thủy, còn phải kể đến quan hệ huyết thống. Đó là một đặc trưng chủ yếu của chế độ thị tộc - bộ lạc. Do lực lượng sản xuất thấp kém, con người không thể tách khỏi quan hệ tự nhiên ấy, như cái thai không thể tách khỏi người mẹ thông qua cuống nhau vậy. Mọi dân tộc trên thế giới đều phải trải qua giai đoạn phát triển ấy.

Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động và cùng với nó là trao đổi sản phẩm phát triển. Một cộng đồng người mới ra đời cùng với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Đó là dân tộc (Nation).

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen thừa nhận sự tồn tại của một loại dân tộc khác, có trước dân tộc tư sản:

"Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản"(1).

Trong đoạn trên, Mác và Ăngghen nói tới loại dân tộc chưa phải là dân tộc tư sản, thừa nhận sự tồn tại của dân tộc tiền tư sản.

Về vấn đề dân tộc hình thành từ lúc nào, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác - Ăngghen đã cho ta lời giải đáp:

"Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện cùng với bước quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ tổ chức bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa phương lên dân tộc, và cứ tồn tại mãi suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho đến ngày nay"(2).

C.Mác và Ph.Ăngghen đặt dân tộc (Nation) đối lập với tính địa phương, là một cộng đồng hình thành sau bộ lạc, với sự xuất hiện của nhà nước, quốc gia dân tộc. Quan điểm đó được trình bày rõ ràng trong Phép biện chứng của tự nhiên của Ph.Ăngghen.

"Từ thế hệ này sang thế hệ khác, chính ngay lao động cũng ngày càng đổi khác, hoàn thiện hơn, có nhiều mặt hơn. Ngoài nghề săn bắn và chăn nuôi thì còn có nông nghiệp và tiếp theo đó, lại có thêm nghề kéo chỉ, dệt vải, nghề làm kim khí, nghề làm đồ gốm và hàng hải. Cuối cùng nghệ thuật và khoa học ra đời bên cạnh thương nghiệp và thủ công nghiệp, các bộ lạc biến thành những dân tộc và quốc gia"(1).

Từ dân tộc ở đây chỉ một cộng đồng người cùng sinh sống trong một quốc gia, một nước như dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Mỹ... (theo thuật ngữ quốc tế thông dụng là Nation). Dân tộc (Nation) theo nghĩa khoa học này chính là một cộng đồng người xuất hiện trong lịch sử, một cộng đồng ổn định về đời sống kinh tế, có tiếng nói chung, có lãnh thổ chung và có nền văn hóa chung. Trong những đặc trưng này thì cộng đồng về kinh tế và cộng đồng về văn hóa là những đặc trưng quan trọng nhất. Chỉ khi hội đủ bốn yếu tố này, dân tộc (Nation) mới hình thành hẳn. Bởi vậy, khái niệm dân tộc (Nation) thường gắn với vấn đề hình thành và phát triển các quốc gia dân tộc. Trong lịch sử, Nhà nước, quốc gia xuất hiện và các yếu tố nói trên cũng hình thành, phát triển sớm muộn khác nhau, do vậy, các quốc gia dân tộc ở các nước cũng hình thành vào các thời điểm khác nhau. Trên sách báo, người ta nói đến các bộ tộc, chính là nói đến cộng đồng người trước khi hội đủ các yếu tố nói trên để hình thành dân tộc, trong các quốc gia, nhà nước khác nhau trên thế giới.

Còn dân tộc theo nghĩa thông thường để chỉ một cộng đồng người có chung tiếng nói, chung lịch sử, cùng nguồn gốc, cùng một đời sống văn hóa dân tộc, có ý thức tự giác dân tộc và cùng cư trú trên một địa bàn đầu tiên.

ở nước ta thường gọi dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường, dân tộc Thái, dân tộc H'mông, dân tộc Chăm, dân tộc Êđê, dân tộc Khơme... Trong một dân tộc lại có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương có đôi chút khác biệt về tiếng nói, chữ viết, tập quán, dòng họ..., như dân tộc Dao có chín ngành Dao, như Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Thanh Y....; dân tộc H'mông có H'mông Hoa, H'mông Trắng, H'mông đen theo mầu sắc trang phục; dân tộc Thái có Thái đen, Thái trắng... Các dân tộc có thể cư trú ở một quốc gia và cũng có thể cư trú ở nhiều quốc gia do quá trình di cư tự do ở một số vùng lãnh thổ. Ví dụ dân tộc Thái và dân tộc H'mông, đều hiện diện ở các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái Lan... Do vậy, khái niệm dân tộc thông thường này được dùng để chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc).

Khái niệm sắc tộc cũng được báo chí nói đến. Đây là khái niệm được dùng phổ biến ở Mỹ (và sau đó du nhập vào miền Nam nước ta trước ngày giải phóng) với hàm ý phân biệt màu sắc chủng tộc và màu sắc văn hóa.

2. Dân tộc và chủng tộc

Dân tộc (Nation) là một phạm trù lịch sử. Chủng tộc là một phạm trù nhân chủng học. Các chủng tộc người xuất hiện từ thời xa xưa. Sự khác nhau về đặc điểm cơ thể con người có liên quan đến điều kiện địa lý và khí hậu trong đời sống con người nguyên thủy sống biệt lập và điều kiện sống rất thấp. Các đặc điểm chủng tộc hình thành có một nguyên nhân gắn với tính chất phòng vệ, tính thích nghi với hoàn cảnh (màu da, hình dạng xương sọ, mũi, màu tóc). Về sau do có sự thiên di và pha trộn giữa các chủng tộc, nên ngày nay vấn đề "thuần chủng" không còn nữa.

Hiện nay, người ta chia thành ba đại chủng:

- Da đen

- Da trắng

- Da vàng

Các công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng giữa các chủng tộc đó không có sự khác nhau về tư duy, về năng lực hoạt động tinh thần và thể chất của những người khác nhau về chủng tộc. Sự khác biệt về chủng tộc không để lại dấu vết nào trong sự phát triển xã hội. Điều đó bác bỏ những quan điểm phản động, kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc thành dân tộc thượng đẳng và dân tộc hạ đẳng để miệt thị, áp bức bóc lột các dân tộc khác.

Các dân tộc đều có thể tiến tới văn minh chung của loài người và đủ sức vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. Trong sự phát triển văn minh của nhân loại, sự giúp đỡ lẫn nhau của các dân tộc thúc đẩy tiến bộ xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết, để rốt cuộc, thống nhất toàn nhân loại trong cộng đồng loài văn minh tương lai. Và đó cũng là vai trò lịch sử của dân tộc.

3. Về vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam. ở nước ta đã có nhiều cuộc tranh luận về sự hình thành dân tộc Việt Nam. Trong các cuộc hội thảo đó có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy, đa số ý kiến cho rằng: nước ta có quá trình hình thành dân tộc sớm, gắn liền với hoàn cảnh đặc thù của ta. Quá trình dựng nước và giữ nước cũng là quá trình hình thành dân tộc Việt Nam.

Có ý kiến cho rằng dân tộc Việt Nam hình thành vào thời đại Hùng Vương; có ý kiến cho rằng, dân tộc Việt Nam hình thành vào thế kỷ XVIII cùng với Tây Sơn thống nhất quốc gia. Cũng có ý kiến gắn việc hình thành dân tộc với quá trình dựng nước từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, và dân tộc Việt Nam hình thành gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đánh thắng quân Minh xây dựng nhà Hậu Lê. Chúng ta có lý do để có thể kết luận rằng quá trình hình thành dân tộc Việt Nam là quá trình lịch sử lâu dài gắn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Đến thời Lý, vào thế kỷ XI, dân tộc Việt Nam đã hình thành hẳn. Dân tộc ta đã có lãnh thổ riêng; có tiếng nói chung thống nhất là tiếng Việt. Với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, phải trị thủy, chống thiên tai, sự liên kết, tương trợ giữa các vùng đã cố kết nhân dân lại. Chế độ công xã nông thôn, công điền công thổ và điền trang thái ấp dưới chế độ phong kiến tập quyền ở nước ta khác hẳn với chế độ phong kiến cát cứ kiểu Tây Âu. Dưới triều Lý, trong nền kinh tế, ngoài kinh tế địa chủ, có kinh tế điền trang thái ấp, kinh tế nông dân tự canh, kinh tế của thợ thủ công chuyên nghiệp. Lịch sử chép rằng, kể từ thế kỷ XI, công việc xây dựng đất nước đã bước vào quy mô lớn. Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long. Nghề nông, thủ công nghiệp phát triển. Giao thông và buôn bán phát triển. Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế quan trọng. Về văn hóa, thời Lý mở mang học tập, thi cử. Năm 1070 dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên chọn nhân tài. Chúng ta cần nói thêm rằng, trong cuộc đấu tranh chống xâm lược từ phương Bắc xuống, sự liên kết kinh tế giữa các vùng đã tạo nên một kết cấu kinh tế chung để tương trợ, giao lưu với nhau và để chỉ đạo quốc gia thống nhất, phục vụ chiến tranh chống xâm lược. Do đó, yếu tố kinh tế chung này xuất hiện gắn với công cuộc giữ nước và dựng nước. Như vậy, đến thời Lý, các yếu tố hình thành dân tộc đã hội tụ đủ. Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ra đời:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tạm dịch:

Sông núi nước Nam, Nam đế ở.

Rành rành định phận tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Kết cục rành rành: chuốc bại nhơ!

Và từ đó đến nay, dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển. Quá trình dựng nước và giữ nước chống xâm lược càng củng cố và phát triển dân tộc ta, một dân tộc thống nhất. "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.

Dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em (xem phụ lục), trong đó, dân tộc Kinh chiếm số đông nên gọi là dân tộc đa số; các dân tộc khác ít người hơn nên gọi là các dân tộc thiểu số. Các dân tộc anh em cùng chung lưng đấu cật dựng nước và giữ nước, ngày nay cùng làm chủ vận mệnh của mình, đoàn kết, bình đẳng, tương trợ lẫn nhau cùng phát triển.

Ii. Vấn đề dân tộc và giai cấp, chính sách dân tộc của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Vấn đề lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp

Các giai cấp và các dân tộc tồn tại khách quan trong lịch sử. Lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp là những vấn đề hiện thực.

Lợi ích giai cấp của mỗi giai cấp do điều kiện tồn tại khách quan của giai cấp, do địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất quyết định. Lợi ích giai cấp thể hiện nhu cầu sống còn của sự phát triển của nó. Lợi ích giai cấp là động lực của cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp.

Lợi ích dân tộc là khách quan, nó biến đổi tùy thuộc vào chế độ xã hội và địa vị của dân tộc trong quan hệ với các dân tộc khác. Cần xem xét vấn đề lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong lịch sử, khi giai cấp đang lên, đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, cho sự tiến hóa của xã hội thì nó cũng là giai cấp đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc. Giai cấp đó có khả năng nắm ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, chống giai cấp thống trị phản động và chống bọn áp bức thuộc các dân tộc khác. Khi giai cấp thống trị đã trở thành lỗi thời thì lợi ích giai cấp của nó mâu thuẫn gay gắt với lợi ích dân tộc. Nó sẵn sàng vứt bỏ lợi ích dân tộc để bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỷ của nó. Do vậy, nó kìm hãm sự phát triển của dân tộc. Bởi vậy, lúc này, vì lợi ích dân tộc, phải đánh đổ giai cấp thống trị phản động, phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, xác lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn thúc đẩy sự phát triển của dân tộc.

Thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến gắn liền với phong trào dân tộc. Song thắng lợi của giai cấp tư sản với việc hình thành dân tộc tư sản lại làm xuất hiện những mâu thuẫn mới trong dân tộc.

Giai cấp vô sản chỉ có thể được giải phóng triệt để khi tất cả các giai cấp bị áp bức được giải phóng. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, diễn ra cùng với sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại và sự giác ngộ của các giai cấp, tầng lớp tiến bộ trong xã hội.

Sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản luôn gắn với công cuộc giải phóng dân tộc và ngay từ đầu, giai cấp vô sản phải gắn với dân tộc. Trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải giành lấy chính quyền, "vươn lên địa vị một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc". Giai cấp vô sản và Đảng của nó phải có nhiệm vụ phục vụ lợi ích dân tộc, phục vụ nhân dân. Lợi ích dân tộc chân chính của họ chính là sự phát triển tiến bộ xã hội, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, đạt tới đỉnh cao của sự phát triển chung của nhân loại, làm cho xã hội văn minh, con người hạnh phúc, dân tộc mình có địa vị xứng đáng trên trường quốc tế. Không có cái gọi là lợi ích giai cấp chung chung, mà lợi ích của giai cấp vô sản gắn với sự tồn vong và hưng thịnh của dân tộc. Tuy vậy, giai cấp vô sản không được đối lập lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của dân tộc khác. Đảng của giai cấp công nhân mỗi nước không chỉ bảo vệ lợi ích của dân tộc mình mà còn phải bảo vệ lợi ích chung của giai cấp vô sản tất cả các dân tộc, chống chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, bất chấp quyền lợi của các dân tộc khác.

Đảng ta giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay chính là kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

2. Chính sách dân tộc của giai cấp vô sản và Đảng cộng sản

a) Khi giai cấp vô sản bước lên vũ đài lịch sử, Các Mác đã nêu: "Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại!". Giai cấp vô sản của tất cả các dân tộc có lợi ích chung, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản trước độc quyền, việc giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức giai cấp chỉ có thể thực hiện được nhờ nỗ lực chung của giai cấp vô sản tất cả các nước; chủ nghĩa quốc tế vô sản là nét quan trọng nhất trong thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy, Mác vẫn luôn nhắc nhở giai cấp vô sản mỗi dân tộc "phải trở thành dân tộc", phải giải quyết những vấn đề trước hết của chính dân tộc mình.

b) Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc thuộc địa nổi lên, vì "có áp bức thì có đấu tranh", hơn nữa sự thức tỉnh ý thức dân tộc, đấu tranh để giải phóng dân tộc, thoát khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân phát triển mạnh mẽ. Có một xu hướng diễn ra đồng thời với xu hướng trên, đó là xu hướng tăng cường các mối quan hệ giữa các dân tộc, xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc cùng với việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản trong đời sống kinh tế chung. Hình thành tiền đề kinh tế và tư tưởng cho sự thống nhất quốc tế trong cuộc đấu tranh chung để giải phóng khỏi ách áp bức giai cấp và dân tộc. Lênin nêu khẩu hiệu: "Giai cấp vô sản và tất cả các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!".

Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc muốn thực hiện triệt để phải gắn với trào lưu chung của lịch sử: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là hai cái cánh của cách mạng xã hội.

Việt Nam ta thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc triệt để, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa là đi theo đúng quy luật phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.

c) Trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin có ba điểm chủ chốt sau đây:

- Một là, thực hiện quyền dân tộc tự quyết.

- Hai là, thực hiện sự đoàn kết giữa các dân tộc.

- Ba là, thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh dân tộc của Lênin, Liên Xô (cũ) đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, mặc dù còn nhiều sai lầm, khuyết điểm trong vấn đề này. Bởi vậy, khi chủ nghĩa xã hội tan rã ở Liên Xô, vấn đề dân tộc và xung đột sắc tộc lại nổi lên hết sức gay gắt.

d) Thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách dân tộc đúng đắn, trong đó trước hết là đoàn kết các dân tộc anh em sống trên Tổ quốc Việt Nam, đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Khi đã giành được chính quyền, làm chủ đất nước, Đảng ta lãnh đạo nhân dân các dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc.

III. chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, đề ra đường lối, chính sách dân tộc nhất quán và đúng đắn, đưa lại thắng lợi vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và giành nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc luôn luôn được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn công cuộc đổi mới nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay đang đặt ra những vấn đề lý luận phải giải đáp để xây dựng xã hội Việt Nam giàu mạnh, công bằng và văn minh, sánh vai với các nước trên thế giới. Hơn nữa, sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều vấn đề mới đặt ra trong quan hệ giữa các dân tộc của các quốc gia và trong bản thân mỗi quốc gia cũng đòi hỏi phải giải đáp. Bên cạnh đó, kẻ thù lại ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc để khoét sâu mâu thuẫn, thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
 
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu sâu sắc và giải quyết tốt hơn vấn đề dân tộc.

A. Một số đặc điểm cơ bản về tình hình các dân tộc ở Việt Nam

Cộng đồng các dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm đa số, còn các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 13% dân số trong cả nước.

Trong đời sống chính trị, chúng ta quen gọi dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em. Trước thực tiễn xã hội và điều kiện thế giới hiện nay, việc giữ nguyên cách gọi như vậy là đúng đắn và cần thiết.

Có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của các dân tộc ở nước ta như sau:

1. Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Trong lịch sử mấy nghìn năm, các dân tộc anh em đều chung lưng đấu cật để chống giặc ngoại xâm và chống thiên tai, xây dựng cuộc sống cho cả cộng đồng. Đoàn kết trong chiến đấu và trong lao động là truyền thống, là đặc điểm nổi bật của dân tộc Việt Nam. Do đặc điểm kẻ thù xâm lược luôn nhòm ngó đất nước ta, vì sự tồn vong của mình, các dân tộc đều phải đoàn kết, tương trợ, hướng về triều đình, cố kết với nhau. Các dân tộc sống ở biên cương là phên giậu của đất nước. Triều đình khoan sức dân, đặc biệt là ở vùng biên cương của Tổ quốc. Dân tộc Kinh cũng như các dân tộc thiểu số đều đoàn kết một lòng. Trong lịch sử, nhiều anh hùng trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước là người thuộc các dân tộc thiểu số.

Từ ngày sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy cao hơn, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

2. Về tính chất cư trú của các dân tộc

ở một số vùng nhất định, có dân tộc cư trú tương đối tập trung, song nhìn chung, các dân tộc sống xen kẽ là phổ biến. Các dân tộc ở nước ta không có lãnh thổ riêng biệt như ở một số nước khác. Cư trú xen kẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hòa hợp dân tộc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

3. Các dân tộc ở nước ta là những bộ phận cấu thành quốc gia thống nhất, song lịch sử để lại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, kể cả sự chênh lệch giữa các dân tộc thiểu số. Thực trạng đó là hậu quả của chế độ thực dân phong kiến trước đây và đất nước ta lại phải liên tục chống chiến tranh xâm lược của các đế quốc to là Pháp và Mỹ trong mấy chục năm kể từ ngày giành được độc lập năm 1945. Sự lạc hậu của nền kinh tế và những tàn tích của chế độ cũ cùng với điều kiện thiên nhiên, môi trường khắc nghiệt là những cản trở lớn trong sự nghiệp phát triển ở các vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu lâu dài, gian khổ, trước hết là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa của các dân tộc thiểu số để tất cả các dân tộc anh em đều vươn lên, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả cộng đồng dân tộc.

4. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam.

Bản sắc văn hóa dân tộc là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo trong quá trình lịch sử, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học- nghệ thuật, kiến trúc, y phục, phong tục tập quán, tâm lý và tình cảm, quan hệ gia đình và dòng họ, tín ngưỡng tôn giáo... Sự phát triển đa dạng về văn hóa của các dân tộc càng làm phong phú nền văn hóa thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

5. Các dân tộc thiểu số ở nước ta tuy chỉ chiếm khoảng 13% dân số, nhưng lại cư trú trên một địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh và môi trường sinh thái của cả nước. Một phần quan trọng trong tiềm năng to lớn và đa dạng về kinh tế của đất nước là ở các vùng miền núi. Trong lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số cố kết với dân tộc Kinh kháng chiến chống giặc ngoại xâm và xây dựng Tổ quốc. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhiều vùng dân tộc thiểu số anh em cư trú trở thành căn cứ địa cách mạng và căn cứ của các cuộc kháng chiến cứu nước. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, các dân tộc thiểu số anh em đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy có thể nói, các dân tộc thiểu số anh em có vị trí cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

B. Những quan điểm và đường lối, chính sách dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập đã đề ra đường lối đoàn kết các dân tộc vì sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng Tổ quốc phồn vinh. Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam" như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) quy định: "Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam".

Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong quốc gia thống nhất là cốt lõi của chính sách dân tộc của Đảng. Điều đó thể hiện ở những nét chủ yếu sau đây: một là, tất cả các dân tộc sống trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta đoàn kết, thống nhất, cùng làm chủ vận mệnh của mình để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, làm cho tất cả các dân tộc vĩnh viễn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến tới văn minh và hạnh phúc. Hai là, tất cả các dân tộc đều bình đẳng, tương trợ lẫn nhau. ở đây cần chú ý rằng bình đẳng trong khuôn khổ thống nhất quốc gia, dân tộc. Đoàn kết chính là nhiệm vụ để thực hiện sự thống nhất quốc gia dân tộc. Ba là, phát triển kinh tế, văn hóa, dần dần xóa bỏ sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Bốn là, tôn trọng lợi ích, văn hóa tín ngưỡng, ngôn ngữ và tập quán của các dân tộc; phát huy văn hóa, phong tục tập quán hay của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và chia rẽ dân tộc.

Báo cáo chính trị tại Đại hội IX tiếp tục khẳng định quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời chỉ ra phương hướng, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta. "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc, thiểu số. Động viên và phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc"(1).

Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước ta, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

Vấn đề mới lần này là ở chỗ Đại hội IX khẳng định vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc có một vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Đây là sự xác nhận trình độ các dân tộc thiểu số đã được nâng cao hơn so với những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, đồng thời nâng mức bình đẳng lên cao hơn, đặt ra vấn đề các dân tộc cùng phát triển.

2. Một số chủ trương chính sách lớn của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số anh em đã có những bước tiến bộ vượt bậc so với trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành, đặc biệt là Nghị quyết số 22/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989 và Quyết định số 72/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi đang được thực hiện để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội miền núi.

1) Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, mở cửa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gắn với việc xây dựng nông thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng nơi là phương hướng đúng đắn, là nhân tố quyết định, thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Tất nhiên, phải đặt sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số trong mối quan hệ hữu cơ với cơ cấu kinh tế từng vùng và các tổ hợp kinh tế lãnh thổ. Đây là yêu cầu khách quan để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh, mở rộng các mối liên kết, hợp tác trong và ngoài nước. Theo phương hướng đó, cần thực hiện mấy giải pháp cơ bản và cấp bách sau đây:

a) Xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục về căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay.

Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Đồng thời Nhà nước tôn trọng quyền lợi của hộ nông dân đã sử dụng lâu dài hoặc khai phá đất hoang hóa một cách hợp pháp thành đất màu mỡ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII đã chỉ rõ việc xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào. Nhà nước giao đất, giao rừng cho nhân dân sử dụng ổn định, lâu dài, "thực hiện giao, khoán đất, rừng đến tận hộ nông dân, kết hợp giải quyết có lý, có tình những tranh chấp về đất đai"(1). Điều chỉnh hợp lý, giao lại cho nông dân sử dụng những đất đai mà các quốc doanh nông, lâm nghiệp bao chiếm nhiều và không có điều kiện kinh doanh hoặc kinh doanh không có hiệu quả. Chủ động chuyển dần đến những nơi có điều kiện sản xuất ổn định; kiên quyết khắc phục tình trạng để nhân dân tự động chuyển cư như hiện nay.

Việc định canh định cư đối với đồng bào dân tộc phải gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, các dự án giao đất, giao ruộng, phủ xanh đồi trọc. Đầu tư đồng bộ, tập trung, nhằm huy động các nguồn vốn, tạo điều kiện cho đồng bào còn du canh du cư chuyển sang làm nghề rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực, chăn nuôi, làm kinh tế vườn - đồi... theo hướng nông - lâm kết hợp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Các tổ chức kinh tế của Nhà nước và của tập thể trên cơ sở đổi mới phải làm tốt các dịch vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt về vốn, miễn giảm thuế, về cung ứng vật tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến và tiêu thụ sản phẩm. Đảm bảo lương thực cho các vùng vận tải khó khăn, thiếu thốn lương thực, tạo điều kiện để đồng bào không quay lại cuộc sống du canh du cư, phát nương làm rẫy.

b) Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung sức để phát triển những cây, con có ưu thế thành hàng hóa với bước đi, quy mô phù hợp, gắn với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế của từng nơi, tập trung phát triển những cây, con có lợi thế của từng vùng thành hàng hóa với quy mô phù hợp, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những hướng cơ bản thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất không những ở vùng miền núi mà cả trong phạm vi toàn quốc. Vấn đề ở đây cần xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế của từng vùng và tiểu vùng để xác định cho thích hợp.

Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã và đang giải quyết về cơ bản vấn đề lương thực, vấn đề sử dụng quỹ đất lớn tập trung ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh tế hàng hóa làm cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số cư trú giàu mạnh là một vấn đề cấp bách, nhưng cũng là vấn đề hiện thực. Chúng ta tập trung chuyển đổi cơ chế quản lý, ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển sản xuất, và đặc biệt ưu tiên tập trung đầu tư vốn vào các vùng này, nhất định chúng ta có thể chuyển đổi được nền kinh tế tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa. Vấn đề đặt ra là cần tích cực tìm kiếm, lựa chọn những công nghệ và thiết bị phù hợp và dành vốn đầu tư thích đáng cho lĩnh vực này, coi đây là nhân tố quan trọng, đảm bảo mở rộng thị trường tiêu thụ nông-lâm sản hàng hóa cho nhân dân các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, các doanh nghiệp khác đóng trên địa bàn miền núi phải thực sự trở thành những trung tâm kinh tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong vùng, thúc đẩy tiến bộ xã hội (giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế địa phương).

Thương nghiệp phải gắn với các ngành kinh tế khác hình thành nên những tụ điểm công nghiệp - thương mại - dịch vụ với các loại quy mô to nhỏ khác nhau, tạo thành động lực kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các dân tộc.

c) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế thích hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nói riêng và đối với miền núi nói chung, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, làm chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số cư trú.

Xuất phát từ đặc điểm tình hình phát triển của miền núi mà có chính sách đầu tư đồng bộ và có trọng điểm theo chương trình và các dự án vào các lĩnh vực và vùng quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân tộc và miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công trình thủy lợi (bao gồm cả nước ăn) phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và giao lưu kinh tế-văn hóa, gắn với mục tiêu ổn định và cải thiện đời sống, giữ vững an ninh, quốc phòng ở các vùng dân tộc, tạo điều kiện cho miền núi mở cửa làm ăn với các địa phương trong cả nước và nước ngoài.

Đồng thời với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, cần thúc đẩy việc áp dụng cơ chế thích hợp nhằm phát huy ý thức tự lực tự cường và năng lực sáng tạo của đồng bào các dân tộc, huy động mọi tiềm năng và thế mạnh của miền núi. Phải thấy tiềm năng to lớn của miền núi và vùng đồng bào các dân tộc anh em cư trú để khơi dậy tiềm năng trí tuệ của nhân dân các dân tộc vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.

2. Thực hiện chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và trí thức cho dân tộc thiểu số.

Trước hết cần tập trung vào việc nâng cao dân trí. Thực hiện có hiệu quả việc xóa mù chữ cho thanh niên và cán bộ cơ sở và phổ cập giáo dục tiểu học cho đối tượng này. Có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại các loại cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển mọi mặt của từng vùng, từng dân tộc.

Tăng cường vốn đầu tư cho các trường học. Xây dựng các loại trường lớp nội trú, đảm bảo đủ giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc thiểu số.

Mở rộng hệ đào tạo cán bộ dân tộc trong các hệ thống trường Đảng, trường đoàn thể, trường hành chính và các lực lượng vũ trang theo chương trình đổi mới.

Thực hiện tốt chính sách chế độ khuyến khích đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền núi, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng cao và thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển miền núi.

Có chế độ chính sách ưu đãi động viên về tinh thần và vật chất với các già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong các dân tộc (kể cả một số chức sắc tôn giáo) trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

3. Kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa khoa học của nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Chính sách dân tộc của Đảng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật là nhằm không ngừng đưa các thành tựu văn hóa mới đến với nhân dân, bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa khoa học của nhân loại để làm cho đời sống tinh thần văn hóa của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam phát triển ngang tầm với sự phát triển của thời đại.

Trong đời sống văn hóa, nhân dân các dân tộc thiểu số cần được thông tin về thời sự, chính sách, có đủ sách báo thông tin về những thành tựu văn hóa tiên tiến. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế thừa phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, cản trở sự tiến bộ của các dân tộc.

Điều quan trọng trước hết vẫn là nâng cao đời sống kinh tế để nhân dân các dân tộc có điều kiện hưởng thụ các thành tựu văn hóa, nâng cao dân trí và có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin miền núi, có chính sách tài trợ cho các nhà văn, nghệ sĩ sáng tác các đề tài về miền núi và dân tộc thiểu số.

4. Có chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến, từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.

Nhà nước ưu tiên thực hiện các chương trình chăm sóc đến đời sống và sức khỏe của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Thực hiện tốt nhất các chương trình quốc gia về chống sốt rét, chống bướu cổ, xóa bỏ các ổ bệnh dịch gây tử vong cao, làm suy giảm giống nòi ở một số vùng dân tộc.

Thực hiện mạnh mẽ chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình bằng các giải pháp hữu hiệu để đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa hạn chế sinh đẻ, nhờ đó bảo vệ được nòi giống, chăm sóc được con cái, nâng cao trình độ dân trí và phát triển tiến bộ.

Thực hiện chính sách ưu đãi những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hóa văn nghệ đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Giải quyết nhanh chóng nhu cầu nước sạch cho đồng bào vùng cao.

Giải quyết những vấn đề này phải trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, khai thác cao nhất mọi tiềm năng trong nhân dân, kết hợp với đầu tư thích đáng của Nhà nước và sử dụng có hiệu quả các hoạt động từ thiện và dự án đầu tư của nước ngoài vào vùng dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực hiện, cần chú ý chống việc kẻ địch lợi dụng những khó khăn, rủi ro trong đời sống của đồng bào để kích động, chia rẽ, gây mất ổn định ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hoặc thực hiện các chiến lược lâu dài nhằm tiến hành "diễn biến hòa bình" ở các vùng này.

*

* *

Kế thừa truyền thống và những chính sách đoàn kết dân tộc của cha ông ta trong các thời đại trước đây vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước, thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.



Phụ lục

Các chỉ thị, quyết định của Đảng và Chính phủ
về công tác dân tộc và miền núi


Sau khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng, Đảng và Chính phủ đã ban hành:

+ Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer.

+ Chỉ thị số 525/TTg ngày 2/11/1993 của Thủ tướng Chính phủ đề ra một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội
miền núi.

+ Chỉ thị số 393/TTg ngày 10/6/1996 của thủ tướng Chính phủ về quy hoạch dân cư, tăng cường cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi.

+ Quyết định số 656/TTg ngày 13/9/1996 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên thời kỳ 1996 - 2000 và 2010.

+ Quyết định 960/TTg ngày 24/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc.

+ Quyết định số 35/TTg ngày 13/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã.

+ Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc.

+ Quyết định 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.

+ Quyết định 1235/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.

+ Quyết định 138/2000/QĐ-TTg, ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hợp nhất dự án ĐCĐC, dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình xây dựng TTCX miền núi, vùng cao và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa.

+ Chỉ thị số 15/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở các xã biên giới, hải đảo.


--------------------------------------------------------------------------------

(1) (2) Mác - Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.546; 1323 (Những đoạn gạch dưới do người trích nhấn mạnh).

(1) Ph.Ăngghen: Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.279.

(1) Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2001, tr.127-128.

(1) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VII.
 
Back
Bên trên