ngày học cuối!

Thuy Van
(Giri)

Thành viên (sai email)
Hôm nay là ngày cuối cùng của lớp học thêm toán. Ba ngày nữa chúng tôi sẽ thi đại học, một buổi học cuối cùng như thế này là để tổng kết lại những kỹ năng giải toán đã học trong cả năm, để thầy dặn dò lũ học trò: phải cẩn thận, phải bình tĩnh; và nhất là không được chủ quan... Dưới mắt ông thầy nội dung buổi học chỉ là như vậy, thế nên thầy có vẻ không để ý đến cái vẻ nháo nhác của tôi mỗi khi cánh cửa động đậy, và tôi lúc bồn chồn, lúc lơ đãng nhìn qua cửa sổ, ngoài đấy, mấy đứa nhỏ đang đánh khăng, thỉnh thoảng, một người đạp xe ngang, loạng choạng trước cái đám trẻ con không còn để ý gì ngoài hai khúc cây, cứ lao thẳng ra giữa lối. Người lớn hét lên vài tiếng, trẻ con mãi chơi vội vàng trả đũa vài tiếng... rồi thôi.
Thầy nhìn đồng hồ: "Giờ này sao Thụy, Kha chưa tớỉ". Mấy đứa con gái dự đoán một cách vô nghĩa: "Chắc đi trễ đó thầy!". Cả lớp chỉ mình tôi ngồi im, cái thái độ lộ liễu này có lẽ đã làm thầy nghi ngờ, thầy nhìn tôi, cười cười: "Không lẽ tụi nó dám nghĩ bữa nay sao?", tôi cũng cười cười: "Dám lắm chứ thầy!". Nói xong câu đó, tôi thấy mình thật ác miệng với mình.

Thầy bảo: "Đợi chút vậy!" rồi ra trước cửa đứng hút thuốc. Mấy đứa con gái, đẩy qua đẩy lại vật gì đó, có vài tiếng mặc cả: "Tui viết dở lắm!" hay "Viết chút thôi à nhe!", tôi đoán là lưu bút và biết rằng mình thế là không thoát ra được cái trò nàỵ Được khoảng ba phút, Phương bảo: "Giang viết truớc đi!", tôi cười: "Tôi viết chắc không vui nổi, được không?" rồi mở cuốn lưu bút xem thử người ta đã viết những gì. Trang đầu là một cái ảnh màu, có lẽ là chụp ở chùa Vĩnh Nghiêm, Phương mơ màng nhìn về một cõi xa xăm nào đấy; cạnh ảnh là 1 bản lý lịch trích ngang: Tên, tuổi, nhà ở đâu, thích ăn gì, yêu màu gì, ghét điều gì, mơ ước sau này ra sao... Đương nhiên là Phương cũng như ai, thích ăn quà vặt, yêu hoa hồng, yêu màu tím, ghét thói giả dối... Tôi cười, Phương hỏi dò: "Cười cái gì?" Tôi bảo: "Không có gì đâu! Giang cười vì sao Phương yêu màu tím mà không có cái áo nào màu tím?".

Vài trang sau, người ta xưng ta, mi... như những cô gái Huế chính hiệu, tôi hỏi: "Phương, Giang viết vào đây có phải xưng là ta, mi không...?", nó bảo: "Nhiều chuyện! Viết đi!". Tôi viết: "Phương! Ngày hôm nay là xong, Giang nghĩ tụi mình khó gặp lại. Chúc Phương thi đậu!". Phương đọc, không vui, bảo tôi: "Ngắn quá! Viết "lý lịch" vào đây đi!". Tôi ngượng vì cái trò này, bảo: "Phương viết, Giang đọc cho!". Phương viết tên tuổi, hỏi tôi: "Số nhà?", tôi đọc số nhà; hỏi: "Sở thích", tôi đọc: "gì cũng thích!"; hỏi:"yêu màu gì?", tôi đọc: "Ghét màu hoa phượng". Phương sựng lại: "Yêu cơ mà!", tôi bảo:"Thì yêu tất, ghét mày hoa phượng thôi!". Phương lắc đầu, vẻ chán nản..., ghi được vài câu nữa thì thôi không hỏi nữa, tôi nghĩ, Phương đưa tôi lưu bút làm gì, ngày thường có khi Phương lơ tôi mà!

... Thầy bảo: "Thôi, học!", tôi nhìn đồng hồ, đã 25 phút rồi . Ngoài kia, trời tự dưng vần vũ, một trận gió đột ngột luồn qua cửa, thổi tốc những trang vở, mọi người lại kêu lên: "Chắc mưa!". Tôi thấy vô vọng và muốn khóc, hôm nay là ngày cuối, tôi đạp xe từ ngoại thành giữa trưa nắng vào đây học, chẳng lẽ Thụy không biết điều này sao? Tôi lật vở, thật khó mà phân biệt được trang nào tôi viết, trang nào Thụy viết. Thụy đã bảo: "Sao Giang không viết chữ của Giang? Chữ của Thụy xấu hơn mà!", tôi nhớ hôm ấy Kha phá bĩnh: "Đúng đấy, chữ tôi đẹp hơn chữ nó, Giang bắt chước chữ tôi đi!"... Hôm nay, tôi mở vở, ghi ngày tháng ở một góc, viết bằng chữ "nguyên gốc" của mình, khác hẳn, trong lòng giận dữ, bảo: "Không nghĩ tới nữa!"

3h15, trời mưa, mấy đứa rên rỉ: "Chết rồi!". Tôi cũng nghĩ: "Thế là xong rồi!", mưa thế này, có đi trễ cũng không đến được nữa. Thầy đứng ở đầu bàn, cạnh tôi, nhìn ra cửa, bảo: "Tụi này kỳ thật, chắc tối nó mới ghé thầy!". Tôi không nói gì thêm, chỉ cười, cái cười có lẽ thảm lắm, nên thầy nhìn tôi cười, tôi có cảm giác rằng thầy đang nhớ lại hình như xưa kia mình cũng đã từng có một buổi học cuối cùng đầy chờ đợi như thế này, cũng mưa gió, cũng lo lắng cuả những ngày gần thi cử. Thầy bảo, mắt mơ màng qua kính cận: "Ngày xưa, buổi trước hôm thi, thầy không ăn, không ngủ nổi vì sợ!"

... Trời không tạnh nổi, tôi thưa thầy về, thầy nói: "Em cầm áo mưa cuả cô về không, kẻo bệnh!". Tôi cười: "Em không bệnh được đâu thầy!". Phố vắng vẻ, mưa tạt ướt hết cái áo mới tôi mặc cho hôm nay, đường Cống Quỳnh nước đã ngập đầy, tôi lội qua quãng nước ấy xong, tự nhiên thấy nhẹ nhõm hẳn, như tâm trạng của một con hổ sau khi quẹt ngang đám lá. Ba ngày nữa tôi sẽ vào phòng thi, ba ngày nữa, những chuyện như thế này sẽ thu lại còn tí hon rồi biến mất, và tôi tự an ủi mình: "Ngày cuối cùng như thế mà lại tối!", rồi đi..

Mp 1996
 
Những mảnh đời trôi nổi

Vậy là đã bốn năm rồi nó không được đi học, đã bốn năm nó phải lao lực để kiếm sống - cái tuổi của nó, đúng ra phải được cha mẹ thương yêu, đúng ra phải được tới trường, đúng ra phải được hồn nhiên như lũ bạn nó để vui đùa với tuổi thơ, chứ đâu phải mỗi ngày với từng tập vé số trên tay thang lang hết từng góc phố để nhận được những cái lắc đầu xua đuổi hay những câu chửi rủa tục tằn. Người thương hại nó thì bảo nó thật không may.
Mà có lẽ nó thật không may thật. Lúc trước nó cũng từng được tới trường, cũng từng được cha mẹ ôm ấp, cũng từng có những ngày tháng đầy ấp tiếng cười... Nhưng thật không may, từ ngày mẹ nó chết đi làm cả gia đình nó chết theo. Chết tức tưởi, chết từ trong ra ngoài, chết từ trên xuống dưới, tinh thần cha nó chết và tương lai của nó cũng chết luôn. Cha nó chán nản xoay qua đạp xích lô, rồi không biết từ lúc nào ông bỗng đâm ra mê rượu chè, hút sách. Tiền đạp xích lô còn không đủ cho ông giải cơn ghiền nói chi đến ngày hai bữa. Thế là nó nghỉ học ở nhà trông nhà cho cha nó vì ông làm gì để có tiền đóng học phí cho nó mà đòi đi học. Rồi thì một hôm cha của nó trao cho nó một xấp vé số và từ đó cuộc đời nó đi vào một khúc rẽ khác.
Những ngày đầu làm quen với từng con phố nó đã buồn khi thấy những đứa trẻ cùng tuổi hồn nhiên vui đùa. Nó đã bối rối khi đứa bạn thân hỏi : "Ê Tèo sao mày không đi học?". Hay ngượng ngùng khi có đứa mỉa mai "Ủa Tèo, mày làm nghề bán vé số hả? Oai quá hén!". Có những lúc tủi thân nó khóc một mình. Đôi khi nó nghĩ giá mà mẹ nó chưa chết thì chắc nó đã đỡ cực hơn bây giờ.
Hiểu và thương nó nhất có lẽ chỉ có bà Tám bán thuốc lá ở đầu hẻm. Nó đã rơi nước mắt khi bà xoa đầu nó: "Thiệt tội, không hiểu cái thằng cha mày nó nghĩ sao mà lại bắt mày nghỉ học." Bà giúp cho nó nhiều. Khi thì chén cơm, lúc thì tô mì, có khi còn cho cả thuốc lá đem về cho cha nó nữa. Nghĩ lại nó thấy nó còn hạnh phúc hơn cả nhiều người. Thì có đâu xa, đám bạn của nó đó. Thằng Tí thì lượm ve chai, thằng Hùng Đen không cha không mẹ đi gõ hủ tiếu dạo. Mà tội nghiệp nhất phải nói tới con Hạnh. Cha nó chết, mẹ nó lấy chồng khác bỏ nó cho nội nó nuôi. Mà nội nó già cả có làm lụng gì đâu, lại còn nay đau mai yếu. Nó thì lại mù vào thửơ nhỏ nên chỉ biết ăn xin để kiếm chút gì nuôi hai bà cháu. Đấy, ở cái mảnh đất thành phố Hồ Chí Minh này, nơi được gọi là văn minh nhất nước Việt Nam, nơi có những tòa cao óc cao ngất trời, nơi có những người giàu xài tiền như nước, nơi có những nhà hàng sang trọng sặc sụa mùi rượu Tây, lại cũng là nơi mà mỗi ngày người ta chôn vùi không biết bao nhiều tương lai của những thế hệ như nó. Trên khắp các đường phố Sài Gòn, nơi nào mà không có những hình bóng như nó, với các xấp vé số trên tay, hay cái khay nhỏ đựng dăm ba cây kẹo hoặc vài bao thuốc lá, hay cái lon nhỏ đựng tiền và cái thố bẩn thỉu để đựng những thức ăn thừa thãi. Cuộc đời của họ phụ thuộc vào những thứ đó.
Một chiếc xe phóng qua làm vũng nước bên đường bắn tung tóe vào người đưa nó ra khỏi dòng suy nghĩ. Ngoài trời mưa vẫn rơi, nó ngao ngán nhìn xấp vé số chỉ khoảng một nửa. Tối nay về không đủ tiền cho cha nó thế nào cũng bị ông rầy. Nó thất thiểu đi vào quán Nai Vàng hy vọng bán thêm được vài tấm nữa. Một bóng người nhỏ thó ngã đụng nó khi nó vừa vào quán, một tràng chửi rủa dài lê thê. Nó ngước mắt nhìn người mới đụng nó. Thì ra là con Hạnh. Nó cầm tay con nhỏ kéo đi, nghe sau lưng tiếng bà chủ tru tréo :
- Cái đồ dơ bẩn... Cái thứ ăn mày... Cái thứ có cha sanh mà không có mẹ dạy...
Con Hạnh khóc nấc lên. Nó vỗ về :
- Thôi bỏ đi Hạnh. Mà mày làm gì người ta đuổi mày vậy?
Con nhỏ nghẹn ngào :
- Tao chỉ cố xin thêm tí đồ ăn cho nội tao thôi, sáng giờ có được gì đâu. Mưa gió như vầy mà nội tao đang bệnh, không biết nội có sao không.
Nói xong con nhỏ oà lên khóc. Nó dỗ dành :
- Mày làm gì mà khóc dữ vậy. Mà nội mày bệnh mày mua thuốc cho nội mày chưa?
Con nhỏ phân bua :
- Tao làm gì có tiền mà mua.
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu làm nó rùng mình. Chợt nó mím môi và dúi nhanh vào tay con Hạnh số tiền trong túi nó.
- Mày cầm số tiền này mua thuốc cho nội mày đi.
Con nhỏ ngập ngừng :
- Rồi mày lấy tiền đâu đưa cho cha mày? Ồng đánh mày chết sao?
Nó nghiến răng :
- Mặc kệ tao, mày đi mua thuốc cho nội mày đi. Mưa gió như vầy mày đừng có đi xin nữa
Nói xong nó quay người chạy đi, nó không muốn cho con Hạnh biết nó đang khóc.
Về tới nhà nó chợt cảm thấy sợ hãi. Nó sẽ nói sao với cha nó đây. Tần ngần một chút nó quyết định đi vào. Kệ, tới đâu thì tới. Vừa vào nó đã thấy cha nó ngồi đó. Thấy nó vào ông hỏi :
- Mầy về tới rồi hả?
- Dạ
- Bữa nay bán có hết không?
- Dạ... tại trời mưa nên con bán chỉ được nửa thôi.
- Mày đúng là cái đồ vô dụng.
Chửi nó rồi ông ho hù hụ. Ông lại lên cơn ghiền, người ông co rúm lại.
- Mày chạy đi mua thuốc cho tao lẹ lên.
Nó tái mặt.
- Con... con không có tiền.
Ông trợn mắt nhìn nó.
- Mày nói gì? Không có tiền à? Chứ tiền mày bán sáng giờ đâu?
Nó rùng mình lùi lại sau.
- Con... con cho con Hạnh mượn mua thuốc cho nội nó rồi. Nội nó đang bệnh.
Nghe nó nói ông sấn tới bóp cổ nó
- Mày nói gì hả thằng khốn nạn? Bà nó bệnh chứ còn tao thì sao? Thằng chó chết này tao giết mày.
Ông siết càng ngày càng chặt. Nó thấy ngộp thở nó hoa mắt lên. Nó cố vùng hết sức xô ông ra. Ông té xuống đất, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng, người ông run lên từng hồi. Cơn ghiền dâng lên hành hạ ông, nhìn ông như người đang hấp hối.
Nó thu mình vào một góc nhìn cha nó đau đớn trong cơn ghiền. Lòng nó quặn đau. Tại sao cha nó lại như vầy? Tại sao ông lại là cha nó? Không đành tâm nhìn cha nó khổ, nó chạy đi mượn tiền mua thuốc. Trời mưa như trút nước còn nó thì ướt như chuột lột. Nó gõ cửa từng nhà mà nó nghĩ có thể mượn được tiền nhưng thủy chung nó chỉ nhận được những cái lắc đầu. Nó chán nản quay trở về. Từ xa nó thấy nhà nó như đông người lắm. Linh tính cho nó hay có chuyện chẳng lành xảy ra.
Rẽ đám đông bước vào. Bà Tám vừa thấy nó liền kéo nó vào trong :
- Mày đi đâu nãy giờ vậy thằng nhỏ? Cha mày ổng đi rồi.
Nó lặng người đứng khựng lại. Nó nhìn bà Tám rồi nhìn vào trong. Nó thấy cha nó nằm dưới đất, gương mặt ông co rúm lại đau khổ, miệng ông đầy bọt trắng. Nó lắc đầu từng hồi, rồi nó quay mình lao nhanh ra ngoài.
Trời vẫn mưa như trút nước. Nó chạy nhưng không biết mình về đâu. Ngang qua những vỉa hè nó thấy từng nhóm ăn mày đang cố thu mình vào một góc, đang cố tránh những cơn mưa cuồng nộ. Nó thấy người ăn mày mẹ ôm đứa ăn mày con vào lòng như che chở, như truyền hơi ấm cho đứa con. Nó nghĩ tới mẹ nó, tới cha nó rồi nó gục xuống, nó khóc tức tưởi. Sao cuộc đời lại lắm người khổ đau như vầy. Ông trời hỡi! Ông có thấy chăng những mảnh đời Việt Nam đang trôi nổi, đang khốn khổ giữa dòng đời nghiệt ngã. Phải chăng ông đang khóc thương những mảnh đời khốn khổ như những mảnh bèo hoa dật dờ trôi dạt theo giòng nghịch lũ

1994
 
Back
Bên trên