Hoàng Tùng
(Eminem2309)
New Member
TRANCE MUSIC
Trong các dòng thuộc hệ Electronic music thì Trance có lẽ là nhánh được ưa chuộng nhất, từ các party nhỏ hay những discotheque nổi tiếng Trance luôn luôn có chỗ đứng riêng và thật sự tạo được sự khác biệt.
Nhạc Trance thường được coi như một loại nhạc để nhảy ở discotheque, thực sự thì không phải vậy , nếu chỉ nghe để nhảy thì bạn mới chỉ biết được 30% những điều kì diệu mà nhạc Trance mang lại. Hãy thử tắt đèn ,ở trong bóng tối , yên lặng , nhét đĩa In Search of Sunrise 3 của DJ Tiesto và nghe hết tất cả 15 bài với thời gian 79’ 38” – nếu có thể - bạn sẽ phải thay đổi phần nào quan niệm của chính mình về nhạc Trance và với những ai chưa biết gì , thật sự đó là một điều mới lạ mà bạn chưa từng cảm thấy bao giờ. Để nhịp trống , giọng hát, những âm thanh được tạo ra bẳng tất cả nhạc cụ điện tử trừ giọng hát làm cho bạn cảm thấy như đang đi vào một thế giới khác , một thế giới không có trong từ điển ,không thể tả nổi và chỉ biết nói rằng : đó là thế giới mà tôi ưa thích . Đó là những cảm giác mà tôi thật sự có khi nghe đĩa nhạc này , đây mới chỉ là một trong số rất nhiều compilation mix CDs của DJ Tiesto – DJ số một thế giới hiện nay.
Một DJ thường được gọi là remixer , mixer hoặc là producer , một DJ giỏi thường là người có thể có được 3 kĩ năng trên.
Remixer : là những DJ chuyên đi remix những bản single sao cho phù hợp với một compilation mix của anh ta hoặc cho một rave party hay cho discotheque , do vậy 1 single khi tung ra có thể được các remixer mix lại theo rất nhiều kiểu khác nhau.
Mixer: là DJ gần như remixer nhưng khác một chút là anh ta không chỉnh sửa nhiều bản gồc của một single nào đó mà chỉ chọn và mix các single hoặc remix song với nhau : đây được gọi là một compilation mix CD . Anh ta sẽ mix khỏang từ 15 – 20 track của các DJ khác nhau cho một CD và compilation disk thường là double CDs , nên biết rằng 1 compilation thường có thể tua được theo từng track như những CD bình thường nhưng những track đó sẽ liền tù tì với nhau (non-stop) từ track đầu tiên cho tới track cuối cùng. Một compilation mix được coi là hay khi người nghe không muốn skip bất cứ track nào trong CD đó và compilation mix bao giờ cũng được mix theo chủ để và chủ đề đó chính là tên CD và mang phong cách của DJ đó.
Ví dụ có tên một bài hát trong compilation disk được ghi như thế này : Southern Sun – Paul Oakenfold (DJ Tiesto Remix) thì ta sẽ hiểu như sau: đây là bài Southern Sun được produced by DJ Paul Oakenfold và được DJ Tiesto remix lại .
Producer : là DJ trực tiếp sáng tác , mix một bài hát của riêng mình từ khâu chọn kiểu nhạc , chọn âm thanh , chọn giọng hát. Có thể nói công việc tạo ra 1 album riêng của một DJ thật sự rất khó khăn, chỉ mãi mãi là nhịp 4/4, âm thanh thì đều do máy tính tạo ra, chọn chủ đề của bài hát , của album sao cho phù hợp và có sự gắn kết liên tục giữa các bài hát là công việc đòi hỏi trình độ cực cao và nhạy cảm với thời đại. Thông thường thì 1 album riêng của 1 DJ như thế chỉ có từ 8 -12 bài chứ không được nhiều như compilation CDs nhưng về độ dài của CD thì ngang nhau vì những bản gốc thường rất dài : từ 6’ – 12’/bài. Nếu nhạc của anh ta sáng tác hay thì trong các sàn nhảy nó sẽ được remix cho hợp với sàn nhảy , các DJ khác sẽ lấy single đó của anh ta cho compilation của chính mình. Do vậy 1 single có thể có rất nhiều bản remix khác nhau , do các DJ khác nhau remix hoặc do chính tác giả của nó remix để play tại party hay discotheque. Có thể nói việc sáng tác single là một việc không chỉ tạo phong cách cho tác giả mà còn là mang lại những nét độc đáo của các DJ khác khi các DJ đó lấy single cho compilation disk.
Một đĩa nhạc Trance cho dù là album hay compilation mix thì đều dài cả , hiềm có CD nào lại dài dưới 60’ .
Độ tuổi nổi tiếng của một DJ thường thấy là từ 25-35 tuổi , sau khi đã bôn ba đi khắp các sàn nhảy , làm DJ cho các party , dance event thì lúc đó các DJ mới tính chuyện làm compilation hay album riêng cho mình .Trong thời gian từ 5-10 năm đầu tiên khi mới bước vào nghề DJ thì họ chỉ sáng tác những single và sau đó mới ghép lại thành một album riêng.
TRANCE & DJ Part 2
Thật khó có định nghĩa về nhạc Trance,dòng nhạc thay đổi liên tục và càng ngày càng phát triển.Theo sách vở, nhạc Trance xuất hiện vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Chịu ảnh hưởng lớn từ 3 trào lưu nhạc lúc bấy giờ: thứ nhất là newwave và industrial music, thứ 2 là nhạc techno_disco từ Detroit-US và cuối cùng là dòng nhạc tạo ảo giác của những năm 70 (thú thật là tớ cũng chưa nghe cái giống tạo ảo giác đấy bao giờ). Thôi thì cứ viết để cho mọi người biết là nguồn cội của nhạc Trance là từ đâu ra thôi vì thật ra nó cũng chả quan trọng lắm, biết để đấy thôi mà.
Người ta thường nói nhạc Trance là “music made for ectasy” , nghe thì sẽ hiểu ngay vì một khi đã vào guồng nhạc thì những âm thanh sẽ đưa bạn lên rồi lại xuống theo nhịp nhạc, điều đó có lẽ đúng nếu ở trong discotheque còn đối với những music addicted như tôi thì có lẽ chả cần đến ectasy hay MDMA (methylene-dioxy-methamphetamine) mà chỉ cần nghe nhạc thôi là đã thấy phê lắm rồi, chân tay cứ rậm rựt, người thì muốn đung đưa uốn éo,…. Nhạc Trance thường có giọng hát ở những đọan breakdown hoặc tiếng organ hay âm thanh rất nhẹ và phiêu nhanh dần đều và lại bắt đầu đưa người nghe lên cao và so với các dòng khác như hardhouse,techno hay hardcore, drum’n’bass thì Trance là dòng có giai điệu dễ nghe nhất.
Từ khi xuất hiện đến giờ nhạc Trance có được thêm những nhánh con của mình:
EURO/UPLIFTING/HARD TRANCE: thường là từ 140 – 145 bpm (bmp = beats per minute) và tiếng bass khá nặng kèm theo đó là một female vocal. Những DJ hay chơi dòng này là Kai Tracid, Cosmic Gate, ATB, Ferry Corsten ….
PROGRESSIVE TRANCE: Không phổ biến như EURO/UPLIFTING/HARD TRANCE, tiếng bass sâu và huyền ảo (nghe thường như trống của các bộ lạc thời xưa) , sử dụng rất nhiều âm thanh khác lạ không có trong thực tế. 130 – 140bpm. DJ : Sasha , John Digweed, Danny Howles …
GOA & PSYCHEDELIC TRANCE: Goa và Psy rất giống nhau và rất khó phân biệt, dòng này được coi là nghe phiêu nhất trong tất cả các nhánh con của Trance, nhịp nhanh chậm thất thường, rất dễ phê và nếu như có thêm X vào thì đúng là lúc nào cũng như đang đi ở trên mây.Đây cũng là dòng được nhiều người nghe nhất DJ: Astral Project, Juno Reactor ….
ACID TRANCE : bmp = 145+ , cực mạnh và nhanh, hay sử dụng trống của dòng progressive. Nhạc thường đều và không phiêu cho lắm.
TRANCECORE: là sự kết hợp của Trance và Hardcore,bpm = 160+.Nói thật là khi nghe dòng này tôi có cảm giác hơi sợ sợ vì nó nhanh và âm thanh thì cứ như từ dưới địa ngục lên ấy ,nghe thảm thiết lắm,không dành cho ai yếu tim.
Ngòai ra còn có TechTrance là sự kết hợp của Techno và Trance nhưng dòng này theo tớ thì thường hay bị lẫn với HardTrance
Trance hiện nay ảnh hưởng nhiều của dòng underground, từ underground ở đây thật khó giải thích, nhưng theo tôi thì nó hơi Progressive một tẹo, âm thanh thì mix càng lúc càng phức tạp,những âm thanh từ máy tính và không thực tế ngày càng nhiều và nghe cũng phê hơn.
Những Club nổi tiếng trên thế giới:
Space – Ibiza , Spain
Cream – Liverpool , UK
Gatecrasher., UK
Godskitchen, UK
Matrixx – Amsterdam, The Netherlands
Palazzo , Germany
ClubSpace – Miami, USA
…..
Đây là những club mà việc được chơi nhạc ở đây là một niềm vinh dự với bất cứ một DJ nào trên thế giới , nhờ những club thế này mà sự nổi tiếng càng được nâng cao. Các club này còn thường xuyên mở các dance event và worldtour để lăng xê tên tuồi của các DJ và CLUB.
Dance Event(nơi hội tụ các DJ hàng đầu, thay nhau mix nhạc từ đêm hôm trước đến sáng hôm sau) nổi tiếng:. Nói đến dance event thì không một đất nước nào nhiều dance event hơn The Netherlands – Hà Lan
Trance Energy: 2 lần trong 1 năm tại Hà Lan
Sensation: đây là dance event lớn nhất của Hà Lan và trên thế giới , quy tụ rất nhiều DJ nổi tiếng, thường có 2 ngày cách nhau khỏang 1 tuần , 1 ngày gọi là Sensation White – tất cả từ DJ đến người xem đều mặc tòan đồ trắng,các thể loại được chơi hầu hết là Trance và các dòng con của Trance. Được tổ chứ 1 tuần sau đó là Sensation Black và màu đen là màu chủ đạo,thường chơi hardtrance , hardstyle, techno.. . .
Love Parade: 1 năm 1 lần ở Đức , tòan nhạc techno và hardstyle
Ngòai ra còn có Mystery land, Dance Valley, Q-Dance (hầu hết là hardstyle) ,Innercity (dòng underground) Shockers (techno) ở Hà Lan..
Sau khi các dance event này diễn ra khỏang 1 – 2 tuần thì CD cũng được release , nghe thích thú.
Những CD nên nghe:
Đầu tiên phải nói đến đó là Series Global Underground , đây là một Series hay và quy tụ một số DJ hàng đầu ở UK , họ đi khắp nơi trên thế giới: Hong Kong, Tokyo , Toronto, NewYork , Capetown , Sydney , Budapest , Oslo v.v…. đến nay series này đã ra được 25 compilation mix của các DJ nổi tiếng như Paul Oakenfold , Dave Seaman , Nick Warren , Deepdish v.v…. Nhạc này không khó nghe lắm nhưng hơi khó nhảy.
Tiếp đó là series Trance của ID&T : ID&T Trance , mới ra được 5 compilation mix nhưng lại không phải do các DJ mix mà do người của bên ID&T Recording chọn các bài mới và hay nhất trong thời điểm đó và có một studio chuyên mix mix cho họ, rất hay , tớ thích lọat này nhất..
Cuối cùng là lọat Trance có lẽ có giá trị nghệ thuật cao và càng nghe càng hay và khi nghe hết các lọat CD này , đảm bảo bạn sẽ hiểu nhạc Trance là thế nào. Đó là các Compilation Mix của DJ Tiesto ,DJ số 1 thế giới hiện nay (theo www.thedjlist.com)
Đầu tiên là series Magik gồm có 7 volume
Tiếp đến là Lost Treasure – 9 volume
Forbidden Paradise – 3 volume
In Search of Sunrise – mới có đến Volume 3 và chắc cuối năm nay hoặn đầu năm sau sẽ có vol 4 , đây là series tớ mê nhất và theo tớ thì là hay nhất trong các series của Tiesto
DJing and Terminology
I.What is a DJ?
DJ là từ viết tắt của Disc jockey, được hiểu nôm na là người chỉnh nhạc. Hiện nay có 3 dạng DJ chính đó là Radio DJs, Mobile DJs và Club DJs. Cả 3 dạng DJ này đều có một mục đích chung là mang lại sự giải trí cho một nhóm người hoặc một đám đông bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên âm nhạc là phương tiện chính.
Công việc chính của một DJ là sự kết hợp tất cả những nhân tố cần thiết cho buổi trình diễn của họ thành một dạng thức biến đổi sao cho khán/thính giả của anh ta có thể dễ dàng chấp nhận và thưởng thức. Đối với một vài DJ công việc này có thể là cách nói chuyện và giao lưu với khán giả, trong khi đối với những DJ khác thì đó là cách chơi hoặc quay (spinning) những đĩa nhạc mới nhất hay nhất do anh ta chọn lọc để trình diễn cho đám đông khán giả. Một DJ giỏi là một người vừa có khả năng sáng tác và chơi nhạc vừa có khả năng giao lưu với khán giả, tạo nên sự đê mê hưng phấn hoặc phê li xi tê cho đám đông.
- Mobile DJs là dạng phổ biến nhất. Họ thường là những người trình diễn trong các buổi Party hoặc những sự kiện đặc biệt(đám cưới, sinh nhật…). Công việc của họ thường là đáp ứng nhu cầu giải trí cho một nhóm người gồm nhiều lứa tuổi và sở thích khác nhau, đặc điểm của họ là rất cơ động đúng với cái tên Mobile (cũng có thể coi một MC là một DJ trong trường hợp này)
- Radio DJs kém phổ biến hơn. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo không bao giờ để xảy ra những khoảng thời gian chết(lặng) bằng cách nói chuyện với khán giả hoặc chơi nhạc.
- Club DJs cũng gần giống như Mobile DJs, tuy nhiên họ hướng vào một nhóm lứa tuổi riêng(thường là những người trẻ tuổi) và được đám đông chờ đợi chơi những track nhạc mới nhất và hay nhất trong suốt buổi trình diễn. Những DJ này thường đòi hỏi phải biết cách chơi và trộn nhạc theo phong cách riêng để tạo nên tên tuổi cho anh ta và cho club mà anh ta chơi nhạc.
II.Dj''s equipment:
Công cụ cần thiết để một DJ có thể chỉnh nhạc bao gồm:
- (Dành cho DJ sử dụng Vinyl) 2×Turntables + 2×SlipMats(miếng lót đĩa giúp cho việc scratching trơn tru hơn) + 2 x Cartridges and Needles(kim đọc đĩa vinyl)
- (Dành cho DJ sử dụng CD) 1 or 2× CD Decks
- 1× Mixer
- 1 tai nghe headphone
cùng với một số đồ nghề khác để chỉnh tín hiệu (Stereo, Amplifier, Speaker...)
III. Terminology-Các thuật ngữ
+ Mix: Phối các bản nhạc lại với nhau tạo thành 1 bản Non-stop, 1 DJ giỏi là một người mix các bản nhạc rất trơn tru làm cho người nghe rất khó nhận biết được khi nào thì anh ta chơi hết 1 bài và chuyển sang một bài mới.
+ Remix: Phối lại phong cách/thể loại của một bài hát đã được biết đến từ trước...VD : Motorcycle - As The Rush Comes (Gabriel & Dresden Chill Mix) có thể hiểu là bài As The Rush Comes do nhóm Motorcycle sáng tác và được Gabriel & Dresden mix lại theo phong cách Chill.
+ Orginal Mix: Bản mix gốc, là bản mix đầu tiên của một bài do một DJ nào đó sáng tác, nếu bài đó hay sẽ được các DJ khác lựa chọn để remix hoặc chọn để chơi trong complation mix của mình.
+ Extended Mix: Bản mix có độ dài dài hơn bản Original Mix( đầy đủ Intro/Outro và các đoạn breakdown,climax)
+ Vocal Mix: Bản mix ́có lời hát của ca sĩ (thường là giọng nữ trong các bài Vocal Trance)
+ Instrumental Mix: Bản mix đã được tách lời, chỉ còn âm thanh của các nhạc cụ.
+ Dub: là bản Instrumental remix (ko có phần lời) và được thêm vào một số hiệu ứng âm thanh khác.
+ Edit: chỉnh sửa lại bản nhạc theo mục đích riêng của từng DJ
+ Radio Edit: được chỉnh sửa lại để phù hợp với việc phát sóng trên đài phát thanh, thường ngắn hơn bản thu gốc
+ Bootleg : một bản nhạc ko chính thức hoặc chưa bao giờ được phát hành bởi các hãng đĩa, nói nôm na là nó không mang tính thương mại...VD trong set của Armin Van Buuren tại Sensation White 2005 có sử dụng Sting / Police sample Message in a Bottle (bootleg) mà hoàn toàn không phải trả tiền hoặc xin bản quyền của Sting cũng như hãng đĩa đã phát hành bài hát này. Một bản bootleg thường được chọn là một bài hit cũ đã từng nổi tiếng VD : Bang bang (Marco V bootleg) hoặc trộn lẫn 2 hoặc nhiều bài thành một bài nhưng vẫn phải để tên đầy đủ hoặc rút gọn của các bài đó ở tiêu đề.
+ Compilation Album : là một Album trong đó các bài được 1 DJ lựa chọn và mix với nhau, thường theo một chủ đề nào đó. Độ dài từ 12-15 bài và thời lượng 60-90p. VD : In Search Of Sunrise mixed by DJ Tiesto.
+ Artist Album : là một Album tổng hợp các bài của do chỉ một DJ sáng tác, để phát hành Artist Album ko phải là chuyện dễ dàng bởi vì thường DJ đó phải nổi tiếng và có nhiều bài hit...độ tuổi thường thấy của một DJ khi phát hành Artist Album là 28-30 tuổi trở lên, sau khi đã sáng tác và biểu diễn ở rất nhiều club trên thế giới...thì họ mới nghĩ đến chuyện phát hành Artist Album . VD: Artist Album của Armin Van Buuren - Shivers trong đó gồm toàn những bài do AVB phối hợp với một số nghệ sĩ nữa sáng tác.
+ Vinyl: đĩa than, đọc bằng kim (Needle) tiếp xúc vào các rãnh đĩa, âm thanh Analog, có độ dài trung bình từ 7 đến 15 phút nên ghi được 1 hoặc tối đa 2 bản nhạc, Mix, chất lượng âm thanh tốt hơn so với CD, tuy nhiên dung lượng thấp,và rất dễ hỏng nếu bị xước. Vinyl có 3 loại : 12" 10"(cho LP Longplay) và 7''''(cho Single)
+ Promo Vinyl là đĩa Promotion của DJ, không phát hành rộng rãi ngoài thị trường, thường là bản thu thử nghiệm phát̉ cho các DJ bạn bè, người nghe để lấy phản hồi. Nếu nhiều người yêu thích và có phản hồi tốt thì Single sẽ được phát hành....còn nếu không thì chỉ coi như là bản thu nháp. Những Promo Vinyl là những bản Mix mới nhất của DJ đó..
+White Label : Mặt đĩa chỉ có màu trắng, thường được phát hành để nghiên cứu thăm dò thị trường, được bán rộng rãi nhưng số lượng hạn chế.
+ EP : Viết tắt của Extended Play, là tên thường gọi của một Vinyl hoặc một CD mà bài hát trong đó quá dài cho một Single nhưng lại quá ngắn đối với một Album. Một CD hay Vinyl EP thường có từ 3 tới 4 bài.
IV. DJ Technnique:
- Pitch control: Chức năng dùng để thay đổi nhịp độ của một bài hát. Rất quan trọng trong beatmixing
- Pitch lock: Chức năng dùng để thay đổi nhịp độ của một bài hát mà không làm ảnh hưởng đến tiết tấu. Chức năng này cho phép bạn đẩy nhanh tốc độ của bài hát cùng với lời mà không gây hiệu ứng “chipmunk” (các tiếng chít chít như lúc bạn tua nhanh băng cassette)
- Pitch bend: thay đổi tạm thời tiết tấu bài hát để thu được nhưng nhịp beat theo khoảng thời gian nhất định. Vinyl DJs thường sử dụng các ngón tay để tăng tốc hoặc làm giảm âm thanh phát ra trên đĩa bằng cách dí/kéo trên bề mặt đĩa. CD DJs thì có 1 nút trên decks cho phép thực hiện chức năng này. Khi DJ ngừng kéo thì đĩa sẽ quay trở về trạng thái được đặt lúc đầu, điều này rất cần thiết khi DJ cùng chạy 2 bản nhạc có cùng nhịp độ, nếu ko dùng chức năng này thì nhịp độ của 2 đĩa sẽ bị lệch nhau. Bằng cách kéo mặt đĩa theo từng khoảng thời gian ngắn nhất định, các nhịp beats sẽ phát ra theo từng pha đều đặn và DJ ko phải lăn tăn để điều chỉnh lại pitch control nữa.
- Tempo: nhịp độ của một bài hát, thường được đo bằng BPM(Beats Per Minute)
- BPM: số lượng các nhịp beat đập trong 1 phút của một bài hát.
- Cueing: sử dụng headphone để tìm ra điểm dừng phù hợp của bài bài kế tiếp để beat-match, cueing thường xảy ra ở thời điểm cuối bài hát đang chơi và bắt đầu của bài kế tiếp.
Eurodance
Eurodance là một thể loại của nhạc nhảy, rất phổ biến ở Châu Âu vào những năm 1990.
Nó dễ dàng được nhận dạng bởi giọng ca nữ, hoà âm đơn giản, có vài phần rap nam hoặc hát của nam, nhịp đập mạnh từ 110 tới 150 BPM (nhịp đập trong một phút) với giai điệu của nhạc điện tử.
Eurodance được gọi như vậy là vì nó được phổ biến phần lớn ở Châu Âu và nó được sản xuất chủ yếu ở Ý, Đức, Thuỵ Điển và Hà Lan. Ngoài những nhóm nổi tiếng nhất thì còn có hàng trăm dự án Eurodance khác.
Eurodance là dạng âm nhạc thương mại. Một vài nhà sản xuất như Max Martin người Thuỵ Điển đứng đằng sau cả tá những ban nhạc. Nếu những thành viên của ban nhạc yêu cầu quá nhiều, họ có thể bị sa thải. Rất nhiều ban không thọ nổi sau khi cho ra một hoặc 2 đĩa.
Có một vài người cho rằng những ca sĩ nữ đã được chọn bởi ngoại hình của họ hơn là tài năng thực sự. Biểu diễn trực tiếp phần lớn là hát nhép (Playback), đôi khi là một ca sĩ khác hát trong phòng thu chứ không phải là người biểu diễn trên sân khấu.
Một vài ban như ban Aqua của Đan Mạch hay Daze, Hit’n’Hide không thường được coi là Eurodance, mà thuộc thể loại kẹo-cao-su (bublegum). Trong khi đó Blumchen và Scooter thuộc thể loại happy-hardcore. Sash!, ATB, Antiloop! gần như là những nhóm Trance, còn Robert Miles được xếp vào loại Dream dance.
(Dịch từ http://enlocypedia.thefreedictionary.com)
Hi-NRG
Disco không hề biến mất mà nó phân chia ra thành nhiều loại. Một phần trở thành Hi-NRG còn một phần trở thành House. Hiện giờ, Hi-NRG có thêm cả âm thanh của Techno nữa. Đây là sự tiến triển hiện thời của Disco mà nó gần gũi nhất với gốc rễ Disco những năm 70 và là yếu tố âm nhạc chính của những câu lạc bộ nhảy nhót của dân gay. Tính chất: giai điệu mạnh mẽ, kích thích - phấn chấn tinh thần, hoà âm đầy (full vocal arrangement), vui vẻ, phần nhiều được chơi lại, 118 tới 140 BPM. Một số đại biểu: Abigail, Kylie Mlnogue, Blue System, Fancy, Bad Boys Blue, Gypsy & Queen, Pet Shop Boys, Abbacadabra, Cabballero, Masterboy, Aladino và bất cứ của khỉ gì từ các nhãn hiệu PWL, Klone hay Megatone.
Masterboy''''s one of my favourite group guys.
TRANCE
Trance là một thể loại mới của dance music. Nó thay thế cho thể loại techno nhàm chán. Trance là sự kết hợp của những âm thanh được tạo nên bởi các e-roller mà các DJ hay sử dụng để tạo tiếng ken két hay tiếng rít mà bạn hay nghe giữa các đoạn nhạc hoặc một đoạn rap, cái này thì tôi không dịch chính xác được, cộng với giai điệu rít như tiếng gió của pop, và âm thanh techno...
Những âm thanh đầu tiên của Trance bắt nguồn từ cuối thập niên 70 với những âm hưởng của Eurodisco của Giorgio Moroder, như trong bài "i feel love" của Donna Summer, với giọng nữ cao, ngân dài tạo một cảm giác phấn khích lên đến cực điểm cộng với những hợp âm kéo dài và các nhịp trống điện tử. Và trance thực sự phát triển vào năm 1992, từ Berlin và Frankfurt. Hai bản ghi âm đầu tiên của Jam& Spoon ''''''''s "Stella" được coi là những người tiên phong trong việc khai phá những giai điệu của thể loại trance ngày nay. Nôm na đó là trance truyền thống, dễ nghe, còn mang hơi hướng của pop và tech no, ngoài ra còn có một biến thể trance khác với tiếng những âm thanh khó nghe hơn được chỉnh với tần số cao nhất rít trong óc, hay còn gọi là hardtrance hay psy-trance. Và đến năm 1999, thì làn sóng trance đã lan rộng khắp discotheque của Châu Âu và cả thế giới.
Ở đây tôi không muốn đề cập trance như một loại nhạc chỉ để nghe trong các discotheque, tôi muốn nói đến một nhánh khác của trance đó là psy-trance, đó mới là thứ âm nhạc để nghe và cảm nhận, các giai điệu của psy-trance lôi cuốn người nghe một cách lạ lùng dù chỉ bằng các nhạc cụ điện tử.
Psy-trance (Psychedelic trance) như theo tên gọi của nó luôn tạo cho ta một cảm giác lâng lâng khi nghe, các âm thanh được tạo bởi cái gọi là LSD không nhầm thì đây là một dụng cụ tạo âm thanh điện tử với những âm thanh đầy ma lực. Psy-trance tạo những âm thanh kỳ quặc, nặng về tiếng ồn hơn là giai điệu, những đoạn vocal ngắn được xử lý "rè, đục"(disorting), méo mó, với âm thanh stereo và các âm thanh được xử lý bằng máy tính...
khi nghe một bản psy-trance, bạn có cảm giác như trong một thế giới ma lực của âm thanh, bằng những nhạc cụ điện tử cái thứ âm thanh ấy rất lạ lùng lôi cuốn bạn, biết rằng nó không thật như khi ta nghe một bài chơi bình thường của các nhạc cụ như guitar, trống.... đó mới là diểm mạnh của trance...
PROGRESSIVE TRANCE và GOA TRANCE
Trance có một số loại chính sau: Hard Trance, Acid Trance, Trancecore (pha trộn giữa Trance và Hardcore), Goa Trance / Psychedelic Trance và Progressive Trance. Trong đó Goa Trance và Progressive Trance được biết đến nhiều nhất.
Dòng nhạc Trance chịu 3 ảnh hưởng chính : thứ 1 là từ nghành công nghiệp âm nhạc của nhạc điện tử và new wave được biết đến với thể loại Goa Trance, Goa được lấy tên từ một vùng bờ biển phía Tây Nam của Ấn Độ, là nơi được coi như thiên đường của các club và "thuốc" ...chứng tỏ các bác khởi nguồn Trance đều là những tay "phê" cả, khiếp quá..he..he.., (Goa Trance là một thể loại với nhịp beat 4-4 đều đều, tạo nên rất nhiều âm thanh ảo giác với tiếng vocal được xử lý đôi lúc rên rỉ, rệu rã như đang say, đôi lúc gằn lên, giận dữ từng đoạn..nghe loại này bạn phải như điên lên với thứ giai điệu kỳ lạ không thể tưởng tượng nổi...he..he..), thứ 2 là từ dòng disco techno điện tử của Detroit, và cuối cùng là thể loại âm nhạc ảo giác của thập niên 70.
Có nhiều lý thuyết cho rằng, do chịu nhiều ảnh hưởng từ techno, đến house, disco, hardcore cũng như lối sống âm nhạc, văn hóa, và cocain. Nhiều người cho rằng Trance là thứ âm nhạc của ảo giác do thuốc mang lại. Đấy là một khía cạnh không đúng đắn của Trance, và là một đánh giá sai lầm về Trance, ở đây tôi nói đến cái ảo giác do "âm nhạc" mà Trance mang lại, nó mang lại sự hưng phấn với nhịp beat 4-4, những đoạn riff tuần tự, những tiếng bass gõ mạnh mẽ. Progressive Trance bắt nguồn từ thể loại House cũng là một dạng khác của electronica disco, chắc lại phải có bài giới thiệu về House rồi. Âm thanh của thể loại Progresive House có phần êm dịu hơn, ít "hard" hơn psy-trance, trở lại với chất Trance mộc mạc xưa, bớt chất âm thanh điện tử, với giọng hát thật của vocal, ít bẻ tiếng, và các hiệu ứng âm thanh
Lướt cùng Dance Music
Bước chân qua cánh cửa cách âm của vũ trường là bạn bị choáng ngợp bởi âm thanh dội vào tai, vào lồng ngực, ánh sáng mạnh quét liên tục. Cảm giác bị kích thích bởi người người đang khiêu vũ, không khí trong vũ trường khiến bạn phải động đậy chân tay, gật gù cái đầu theo tiếng nhạc. Vậy điều gì khiến bạn bị lôi cuốn đến như vậy?
Vì mọi người đang nhảy dưới sàn chăng? Vì ánh sáng đa dạng đang chiếu quét liên tục? Hay vì âm nhạc nơi đây khiến đôi chân của bạn động đậy? Tất cả đều hoà quên với nhau và tạo chung cho bạn một cảm giác. Nhưng yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố trên đó chính là âm nhạc ở nơi vũ trường đó. Mọi người thường gọi âm nhạc nơi đây bằng cái tên chung chung Dance Music (nhạc nhảy). Vậy thực chất nó là thể loại gì, dòng nhạc gì?
Bước qua cái ngôn ngữ Dance music, đi sâu tìm hiểu và chúng ta biết rằng âm nhạc ở đây thuộc thể loại Electronic. Các sàn nhảy trên thế giới thường mỗi nơi chỉ chơi một thể loại nhạc vì họ thu hút các bạn trẻ yêu thích loại nhạc đó đến với mình, nhưng nhìn chung thể loại âm nhạc mà họ thường chơi nhiều nhất là Electronic, Techno, House, Trance, Drum''n Bass...
Electronic
Nó là từ để miêu tả cho sự nổi bật của âm thanh điện tử trong dòng nhạc dance, âm thanh điện tử được sử dụng nhiều trong các ca khúc dance music và sự phát triển nhanh chóng của nó đã thay thế được tính quy luật của những ca khúc dance music thông thường. Đầu tiên cái tên Electronica được lấy làm tên vì thực tế mọi người gọi thể loại nhạc mới này là New Electronica. Quê hương của dòng nhạc này chính là vùng Detroit khi các ban nhạc nghệ sĩ chơi thể loại techno phát triển và sáng tạo ra Electronica như Juan Atkin và Underground Resistance hay các nghệ sĩ của châu Âu khi họ sáng tạo từ nhạc techno thêm những âm thanh điện tử để phục vụ cho những anh chàng thích phóng xe motor và nghe nhạc. Nhưng nhìn chung các nghệ sĩ trẻ nước Mỹ là những người có giàu chất sáng tạo nhất và cũng chính vì vậy tại Mỹ số lượng nghệ sĩ chơi thể loại này nhiều nhất trên thế giới. Vì bản chất của nhạc Electronica là nhạc Techno nên vì vậy nó không xa lạ lắm nếu các bạn là người thích nhạc Techno chỉ thêm là những âm thanh kì ảo hoặc lạ lùng bởi những âm thanh đó được tạo ra từ những nhạc cụ hay máy móc điện tử khác. Hiện nay hầu hết các Dj trong các sàn nhảy đều chơi thể loại nhạc này.
Techno
Giữa nhưng năm của thập niên 80, các nghệ sĩ vùng Detroit từ một cỗi rễ của loại nhạc Electronic house music đã phân nhánh được ra dòng nhạc Techno. Ngay cái tên của Techno cũng cho bạn biết nó có phần nào dính dáng đến nhạc cụ điện tử và các công cụ tạo âm thanh khác. Techno là nhạc electronic nhưng có một chuẩn riêng, nó được thiết kế cho những nơi nhỏ và những nhóm người riêng biệt. Các nhà sản xuất và các Dj đầu tiên của Techno là Kevin Saunderson, Juan Atkins và Derrick May. Ngoài ra còn có các nghệ sĩ của dòng nhạc khác phát triển thành techno như Afrika Bambaataa từ dòng nhạc electro-funk hay Kraftwerk của dòng nhạc Synth-rock. Ở Mỹ, techno phát triển mạnh nhưng chỉ ở "dưới mặt đất'' mà thôi nhưng ở Anh, đầu những năm 90 techno phát triển mạnh và nó phân nhánh thành những thể loại như hardcore, ambient, and jungle. Trong thể loại Hardcore-techno, nhịp trong từng phút của thể loại này được đẩy nhanh một cách quá đáng, nực cười khiến cho mọi người không thể nhảy theo nó được. Nếu nhảy theo thì chắc chỉ có cách giật đùng đùng. Ambient thì ngược lại, các beat chậm hẳn xuống và âm nhạc lắng hẳn xuống và trong lúc này tiếng âm thanh điện tử được sự dụng tối ta nhưng không quá nhiều. Các câu lặc bộ thường chơi thể loại nhạc này khi họ muốn làm giảm độ nóng của các sàn nhảy xuống và thoát ra khỏi hardcore techno. Hầu hết các nhánh phụ của nhạc techno chỉi được sử dụng trong các vũ trường và sàn nhảy, nơi mà tại đó các Dj sẽ mĩ lại nó cho phù hợp với họ. Cho đến giữa các năm 90 các nghệ sĩ mới liên tiếp ra đời như The Orb và Aphex Twin nhưng chủ yếu họ chơi theo ambient. Bên cạnh đó là những ban nhạc, nghệ sĩ có thiên hướng đi theo trường phái mạnh mẽ là Prodigy và Goldie. Và cúng không ngạc nhiên khi Prodigy trở thành một nhóm có tiếng tăm đầu tiên của thể loại Techno trên toàn thế giới. Đặc điểm của nhóm nhạc này là họ sáng tác và mix những album của mình mà không một Dj nào có thể mix lại được, họ định vị những tác phẩm của mình.
House
Nhạc house phát triển từ văn hóa sàn nhảy đầu những năm thập niên 80. Sau khi disco trở nên phổ biến, một vài Dj da màu, cộng đồng những người đồng tính họ muốn tạo ra một loại nhạc mới ít pop hơn và độc đáo hơn. Tiếng beat trở nên máy móc hơn, tiếng bass nặng hơn, trong khi các yếu tố điện tử khác của pop, Latin soul, dub reggae, rap và jazz được đem vào trên nền nhịp bốn-bốn. House chủ yếu là nhạc không lời những bản hoà tấu, thỉnh thoảng được thêm vào những câu hát của chính các nghệ sĩ hay các giọng ca giấu mặt của các Diva với những giai điệu quen thuộc. Cuối những năm 80 nó phát triển rất mạnh ở các thành phố Chicago, New York và London và tiếp đến là có mặt trong các bảng xếp hạng. Tại Mỹ các nghệ sĩ có tên tuổ như C+C Music Factory và Madonna. Sang đầu thập niên 90 nó cũng phát triển ra các nhánh phụ của mình như Hip-house, Ambient-house và acid house. House tiếp tục phát triển và cho đến cuối những năm 90 này, một loạt các nhóm như Daft Punk, Basement Jaxx và House of 909 đã làm cho cả thế giới phải có cái nhìn mới đối với nhạc House vì sự sáng tạo của họ. Các kênh MTV, Channel V hay GMC của pháp thay nhau chiếu các video clip của họ.
Trance
Người Đức trẻ tự hào vì chính họ đã sáng tạo nên dòng nhạc trance hiện nay. Đầu những năm 90, nhạc techno và hardcore của Đức đã được chuyển sang thể loại trance, một thể loại nhấn mạnh các âm thanh điện tử và được kéo dài đến cuối ca khúc và chỉ thêm vào đó sự thay đổi của giai điệu và thình thoảng thay đổi không khí của nhạc cụ điện tử để người nghe có thể phân biệt được sự khác nhau mà thôi. Nhưng nhạc trance như một thứ tôn giáo, nó kéo người nghe đến gần và cảm nhận được từng âm thanh và cả ca khúc như một dòng suối cuốn chặt lấy họ. Đến giữa những năm 90, trance đã giữ được vị trí độc tôn khi các sàn nhảy và các Dj trên toàn thế giới chọn nhạc trance bởi sức thu hút của nó cùng với đó là sức sáng tạo vô bờ bến trên nền nhạc trance.
Không như nguồn gốc cha đẻ của nó được bắt nguồn từ Detroit, các trung tâm nhạc trance được tập trung lại với nhau và tạo thanh một khối như hãng thu âm R&S tại Ghent, Bỉ và hãng Harthouse/Eye Q tại Frankfurt Đức. Hãng R&S ra đời sơm hơn đồng nghĩa với việc giới thiệu các album sớm hơn như đĩa đơn "Energy Flash" của Joey Beltram, "The Ravesignal" của CJ Bolland và các nghệ sĩ khác như Robert Leiner, Sun Electric và Aphex Twin. Đầu năm 1992, hãng Harthouse, một nhánh nhỏ của hãng Epic đã giới thiệu những sản phẩm đầu tiên như đĩa đơn "Harttrance Acperience" của Vath và bên cạnh đó giới thiệu các nghệ sĩ Arpeggiators, Spicelab và Barbarella.
Đến cuối những năm 90, một sự thay đổi lớn đã diễn ra, các ban nhạc, nghệ sĩ cùng với âm nhạc của họ đã biến mất. Thay vào đó là những khuôn mặt mới cùng với những âm thanh sáng tạo mới trong lòng của Trance. Nhạc Trance cũ của Đức đã bị thay đổi ít nhiều nhưng nhìn chung, nó vẫn giữ được phong thái của trance ngày nào. Trance mới bị ảnh hưởng bởi nhạc house của châu Âu cùng với sự mềm mại. Năm 1998, các Dj được biết đến nhiều nhất đó là Paul Oakenfold, Pete Tong, Tony De Vit, Danny Rampling, Sasha, Judge Jules. hầu hết họ đều chơi nhạc trance đặc thù của nước Anh.
Kết
Tại sao khi vào vũ trường các bạn thường được nghe những thể loại nói trên. Vì nó có một sức hút lạ thường, những giai điệu, tiếng beat cùng với sức sáng tạo của các Dj khiến cho chúng ta có được những giây phút giải trí sảng khoái nhất. Sàn nhảy không phải một nơi xấu, không phải một nơi đến đó để tiêu tiền, nhậu nhẹt. Nơi đó bạn có thể đến để thưởng thức âm nhạc mà mình yêu thích. Vì sao lại như thế? Bạn biết rằng với sức "nóng" của những thể loại dance music này bạn cần phải có một không khí cuồng nhiệt, một hệ thống âm thanh, ánh sáng tốt để hỗ trợ cùng với nó. Vì vậy những yếu tố trên tạo hiệu quả lẫn nhau và bạn cũng biết răng nguồn gốc cuả nó cũng chính là từ những vũ trường.
Muzik is the answer