Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu

Chu Anh Duy
(boytotbung)

Điều hành viên
Lục Vân Tiên Vào Truyện

Trước đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau



Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trao mình
Có người ở quận Đông Thành
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền



Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành
Theo thầy nấu sử xôi kinh
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao



Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì


- truyện Tây Minh : Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm.

- Hai tám: 16 tuổi

- Sân Trình: Chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Tống nho nổi tiếng.

- Văn đà khởi phung đằng giao :Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài.
 
Vân Tiên Tạ Thầy Về Đi Thi

Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội phong vân.
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi, đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ sau là hiển vang."



Tôn sư bàn luận tai nàn,
Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời, chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
Phải toan một phép để phòng hộ thân:
"Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần, đem theo.
Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an."



- Chí lăm bắn nhạn ven mây:ý nói quyết thi đỗ.

- Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)

-báo bổ: Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy

- Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)

-Phù thần: bùa hộ mệnh

-Lúc nghèo : Hiểm nghèo
 
Vân Tiên Lo Sợ Cho Tương Lai

Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi ?
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa ?
Hay là bối rối việc nhà ?
Hay là đức bạc hay là tài sơ ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao ?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an".



Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì ?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"



Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
Song đường,tuổi hạc,đã cao",
Xin thầy nói lại âm hao, con tường."



Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự, dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
Số con hai chữ khoa kỳ,
Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm lòa.
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
Trong cơn bỹ cực thái lai,
Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."



Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.

Tiên rằng: "Thiên cát nhứt phương,
Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.


-Song đường: xuân đường, huyên đường ( cha mẹ ). Tuổi hạc: tuổi thọ.

- âm hao: tin tức

- Nhân cơ tàng sự: Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)

-Khôi tinh đã rạng tử vi thêm loà: Sao Thiên Khôi ( sao văn học, thi cử ) và sao Tử vi (thân mệnh) đều sáng rỡ

-Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan.: Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)

- Tiền trình: con đường phía trước

- Thiên cát nhứt phương: Mỗi người một phương trời

-Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.
 
Vân Tiên Lên Đường Gặp Lũ Sơn Đài

Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.



Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non.



Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"

Dân rằng: "Tiểu tử là ai?
Hay là một đảng sơn đài theo tao?"

Tiên rằng: "Cớ sự làm sao ?
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời."



Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua:
"Nhân rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự, hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương,
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn!
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình"



Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao ?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này."

Dân rằng: " Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.
E khi họa hổ bất thành,
Khi không mình lại xô mình vào hang."



Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, tìm đàng chạy vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân."

Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng."



Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp trở tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong



- Đảng sơn đài: Đảng cướp núi.

- Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời.

- Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ.

- âu (ưu): lo

- Qua: ta;
bậu: ngươi (bạn, anh bạn).

- Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại.

- khi không: không dưng.

- Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị.
 
Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe này?

Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng."



Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Tiểu thư con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ nầy,
Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra ?"



Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công",
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi."



Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Này đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Đó mà biết chữ thủy chung,"
Lựa là đây phải theo cùng làm chi."



Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"



Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
"Đông thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị, tên là Vân Tiên".



-Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn.

- báo đức thù công :Báo trả ơn đức, đền đáp công lao.

-Làm người thế ấy cũng phi anh hùng :Luận ngữ: "kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là : Thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng.
 
Vân Tiên, Nguyệt Nga Trao Đổi Tín Vật

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".



Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!"



Vân Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì,"



Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."



Riêng than:" Trâm hỡi là trâm!
Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ."



Vân Tiên ngó lại rằng: "Ừ,
Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu."

Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?"



Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.



Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên họa lại một bài trao ra.



Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
Đường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi.



Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.


-Thìn: răn, giữ.

-Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị.

- Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào.

-Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm.

- Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp.
Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn.
Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ.

- Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ

- Mai ,điểu: tranh mai và chim đẹp hài hoà. Đây nói thơ xướng hoạ, tinh ý rất xứng hợp nhau.

-Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ.
 
Nguyệt Nga Về Hà Khê

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ơn chưa trả, nỗi tình lại vương.
Hữu tình hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng nguyệt lão hỡi ông!
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi mấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức nữ, vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê."



Trải qua dấu thỏ đàng dê,
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.



Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi.
Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy nhi,
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"



Nguyệt Nga thưa việc tiền trình,
Kiều công tương nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn:
"Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng."



Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chầy,
Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui,
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già"



Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chân ra chốn hoa đình
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhân.


Than rằng: "Lưu thủy cao sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm,
Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền."



Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.

Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên
Chữ ơn để dạ, chữ duyên nhuốm sầu."



- Vẹn chữ tòng: trọn đạo làm vợ (theo chồng).

- Ngưu lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ.

- Dấu thỏ đường dê: nơi xa xôi hẻo lánh, không vết chân người, chỉ có dấu chân thỏ, chân dê rừng.

- Tuỳ nhi: trẻ theo hầu.

- Tiền trình: việc đi đường vừa rồi.

- Đòi cơn: nhiều cơn.

- No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào.

- Sao sao: dù thế nào.

- Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa.

- Thâm: sâu

- Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở.
 
Vân Tiên Gặp Gỡ Hớn Minh

Chuyện nàng sau hãy còn lâu,
Chuyện chàng xin nối thứ đầu nói ra.
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
Giữa đường lại gặp người ra kinh kỳ.



Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ sộ dị kỳ rất hung.
Nhớ câu bình thủy tương phùng,
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.
- Chẳng hay danh tánh là chi?
Một mình mang gói ra đi việc gì?

Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà".



Vân Tiên biết kẻ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng bằng hữu chi giao,
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?



Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn dần.
Kià nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chân một hồi.



Cùng nhau bày tỏ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.



- Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu.

- Bình thuỷ tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp.

- Bằng hữu chi giao : tình bạn bè.
 
Hớn Minh Đi Trước, Vân Tiên Về Thăm Nhà

Hớn Minh đi trước tựu trường,
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.

Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"



Vân Tiên quì lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ, cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi."



Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:

Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang.
Con người là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia,
Con đi tới đó trao qua thư này.
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng.



Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè,



Lại xem dăm liễu đường hoè,
Tiếng ong ngơ ngáo, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn, non dầy đá cao.


-Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên.

- Hai bảy: mười bốn

- Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) kẻ Việt (phía Nam) chung một nhà.
 
Vân Tiên Ghé Nhà Võ Công Gặp Bạn

Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm kiểng xem người,
Cảnh xinh như vẽ, người tươi như dồi.



Hàn Giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thư.
Võ Công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.



Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.



Những e kẻ Tấn, người Tần,
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Nầy dâu Nam Giản, nọ trai đông sàng.



Công rằng: "Ngãi tế mới sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà."

Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì."

Công rằng: "Con dốc xuống thi,
Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Tử Trực văn chương tót đời.
Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
Thấp cao, cao thấp, biết tài,
Vầy sau bạn trước cùng mai mới mầu"



Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!,
Thơ hay làm đặng, rượu ngon thưởng liền."



Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu "bình thủy hữu duyên" làm đề.
Song song hai gã giao kề,
Lục, Vương, hai họ đua nghề một khi.
Cho hay kỳ lại gặp kì,
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.



Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nên.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống đã đành,
Khá khen hai họ tài lành hòa hai."



Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy.
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau."


- Dồi: trau dồi son phấn.

- Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hoà thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hoà nhau).

-Những e kẻ Tấn người Tần Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả.

-Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.( Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi.

- Dâu nam giản: Người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đồng sàng: chỉ chàng rể tốt.

- Ngãi tế: con rể.

- Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ.

- Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người.

- Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai.

- Bình thuỷ hữu duyên: bèo nước có duyên.

- Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau.

- Kì: chỉ người tài giỏi khác thường.

- Bạch Hàm Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ vǎn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến.

- Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước.

- én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)

- Thượng trình: lên đường.
 
Võ Thể Loan Tiễn Vân Tiên

Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.

Võ Công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chân trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.
Gọi là chút nghĩa tống tình,
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau."



Bóng trăng vừa lộ cành dâu,
Văn Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.



Thưa rằng: "Quân tử phó công,
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa,
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.
Quản bao chút phận má hồng,
Phòng khuya vò võ, đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương,
Thiếp xin hai chữ tao khương cho bằng.
Xin đừng tham đó bỏ đăng,
Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn."



Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà nhen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phò,
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần."

Thể Loan vội vã lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường An.
 
Vân Tiên Gặp Vương Tử Trực,Trịnh Hâm, Bùi Kiệm

Xa xa vừa mấy dặm đường
Gặp Vương tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.



Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.



Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võõ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mệnh xưa hòa ghét nhau.



Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây."

Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau."



Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.



Phút đâu gặp bạn đi thi,
Đều bày tên họ môt khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương Xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.



Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao."

Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng."

Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề

Quán rằng: "Thịt cá ê hề",
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
Để khi đãi khách giầu sang,
Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng."



Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,
Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.
 
Tâm Sự Người Chủ Quán

Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"

Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ.
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.

Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"



Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương."

Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"



Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc Quí phân băng,
Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.

Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn .
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề Giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
 
Chủ Quán Tranh Luận Cùng Tử Trực


Trực rằng: "Chùa rách phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"



Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
Một mình một núi, ai hầu chi ai.
Ông Y, ông Phó ôm tài,
Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu?
Thái công xưa một cần câu,
Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.
Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.
Người nay có khác xưa nào?
Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn."
 
Chủ Quán Chê Cười Kiệm, Hâm


Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao."



Quán rằng:"Sấm chớp mưa rào,
Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cười."



Tiên rằng:"Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm.
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,"
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nho biển thánh mênh mông,
Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay."



Quán rằng: "Đó biết lòng đây,
Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho."


Kiệm, Hâm, là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
 
Đến Lúc Thi, Mẹ Mất Vân Tiên Phải Trở Về


Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.



Vân Tiên vừa bưóc chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ,
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.



Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời Nam, đất Bắc xót xa đoạn tràng.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh.



Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở, liệu thời quy lai.



Tiểu đồng thở vắn than dài,
"Trời ơi! trời nỡ phụ tài người ngay.".

Trực rằng: "Đã đến nỗi nầy,
Tiểu đồng, bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm mai thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay.
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục, nội ngày cho xong.
Dây rơm, mũ bạc, áo thùng,
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm."



Tiên rằng: "Mẹ Bắc con Nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi bớt dặm, lấy chi bớt đàng."



Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi.
 
Mọi Người An Ủi Vân Tiên


Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông.
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.



Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.



Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương ."

Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân.
Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.



Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại, mấy lần xông pha.



Xảy đâu bạn tác vừa ra,
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên.

Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau."



Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
 
Chủ Quán Tặng Thuốc Thần


Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba huờn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân,
Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no."



Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần."

Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.
Non xanh nước biếc vui vầy,
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi, lánh đàng thị phi."



Nói rồi quày quã ra đi,
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn.



Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.



Trọn dồi một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.



Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dậy khoa trường còn xa.
 
Vì Khóc Quá Nhiều Vân Tiên Bị Mù


Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi, giòng châu thêm nhuần.
E khi mang bệnh nửa chừng.
Trông nom khó liệu, giữa rừng khôn toan."


Tiên rằng: "Khô héo lá gan!
Ôi thôi! Con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu,
Chân đi đã mỏi, mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ôi! Thân biết mấy lần chẳng may!


Đồng rằng: "Trời đất có hay?,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.

Một mình nhắm trước xem sau,
Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn.
 
Thầy Trò Vân Tiên Bị Lang Băm Lừa


Dắt nhau khi ấy hỏi phăng,
Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu Ngang.

Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
Gặp ta bệnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"



Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng được điều thuốc thang.
May mà bệnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy."



Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy!
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem y học làm đầu,
Sau coi Thọ Thế, thứ cầu đông Y.
Gẫm trong Ngân Hải tinh vi,
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.
Gẫm trong Tập nghiêm lương phang,
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi Xuân.
Vị chi sẵn đặt quân thần,
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan.
Mạch thời đọc mạch Lư san,
Đặt vào tay bệnh biết đàng tử sinh.
Lục quân, Tứ vật thang danh,
Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương.
Lại thông bát trận tân phương,
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài..



Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài!
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi."

Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,
Bộ quan bên tả, mạch đi phù hồng.
Cứ trong kinh lạc mà thông,
Mạng môn tước quả đã xông lên đầu.
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hỏa, phải đầu Tư âm.
Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm,
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
Ngoài thời cho điểm vạn linh,
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phúc cho chàng,
Nào ai đòi chuộc đòi đàn chi ai."



Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ, như bào như xoi.
 
Back
Bên trên