Đối với những người thừa kế trào lưu Punk ROCK ở Anh. Từ Gothic gợi lên hình ảnh của những lâu đài cổ u ám, tăm tối tọa lạc trên những ngọn đồi biệt lập với tiếng thét vang vọng tù những phòng giam tra tấn . Từ những hình ảnh liên tưởng và tâm trạng đó, một vài nhạc sỹ đã từ bỏ khuynh hướng nhạc PUNK để sang tạo ra một phong cách ROCK với cái tên GOTHIC ROCK hay DEATH ROCK. Trào lưu GOTHIC ROCK thu hút được rất nhiều "tín đồ" ở ANH những năm 80 và vào đâu thập kỷ 90, trở thành một trao lưu tiêu biểu ở MỸ.
Những nhóm nhạc khác nhau chơi âm nhạc theo những phong cách khác nhau, việc phối hợp, sử dụng nhạc cụ cũng khach nhau nhưng vẫn có nét chung cơ bản của một dòng nhạc. Nguồn gốc của GOTHIC ROCK được định hình từ những nỗi ám ảnh vè quyền lực siêu nhiên. Khi mà con người không thể khống chế , kiểm soát nó. Âm sắc có chiều hướng thiên về VOCAL trầm , nhạc cụ BASS và nhịp tương đối chậm, nhũng tiếng gào thét đều đều phổ biến trong âm nhạc mang màu sắc trung đại , rất thường gặp trong GOTHIC ROCK. Những nhân tố điện tử được thêm vào tạo nên sự lôi cuốn của những giai điệu ngắn, dồn dập. Nhạc của PHILIPGLASS và STEVE REICH mang phong cách trầm, chậm hơn nữa. Những tiếng trống mạnh mẽ dường như xóa tan được sự u ám, tối tăm trong âm nhạc GOTHIC nên rất nhiều band sử dụng trống. Thế nhung trống không được chơi với âm thanh mạnh như phong cách ROCK vốn có ORGAN, tạo nên những âm thanh chân thực được sử dụng để tạo ra những âm thanh giống như trong nhà thờ lớn xây bằng đá thời ký trung cổ bởi những phương pháp xạ âm.
Tuy nhiên, hình ảnh của những lâu đài cổ trong tiểu thuyết Gothic và âm nhạc cổ đại chỉ là một phần nhỏ trong nguồn gốc ra đời của dòng GOTHIC ROCK. Ở PUNK ROCK, người ta thấy những cái nhìn bi quan, phủ nhận xã hội, những band GOTHIC trở lại với nhạc PROTO-PUNK. VELVET UNDERGROUND là ban nhạc đã kết hợp khéo léo những tiếng trầm và những tiếng "thình" mạnh mẽ trên nền nhịp đập tiêu chuẩn của trống ROCK. Giọng DAVID BOWIE vói âm sắc cực sâu đã được bắt chước bởi bao nhiêu ca sĩ trong trào lưu GOTHIC ROCK.
BELA LUGOSI'S DEAD (1979) của BAUHAUS đã giới thiệu GOTHIC tới thị trường âm nhạc Anh, BELA LUGOSI là một nam tài tử của Hungary, diễn trong phim Dracula (1931). Bài hát 9m30s BELA LUGOSI'S DEAD với sự ám ảnh của những âm thanh điện tử giả tiếng gió rít ghê rợn và ớn lạnh, viết dành cho riêng người diễn viên ấy. Những nhịp đập mạng và những tiếng đập "thình" của tiếng trống trải suốt bản nhạc. đan xen những tiếng BASS trầm là những âm hưởng chư đạo. Ca sỹ của nhóm BAUHAUS, PETER MUSPHY với chất giọng đều đều buốn tẻ kéo dài. Cái cách được dùng để nói hơn là để hát. Lập đi lập lại từ "Bela's undead", bài hát mang đậm máu sắc u ám, huyền bí. Trong GOTHIC thường có những câu chuyện rùng rợn về mà cà rồng, ác quỷ .... BAUHAUS tan rã khi PETER MURPHY bỏ nhóm để đi theo sự nghiệp SOLO, 3 thành viên còn lại của nhóm đã làm việc với những nhà sản xuất khác và đã lập một nhóm có tên " LOVE AND ROCKETS" cố gắng vượt qua cái bóng của BAUHAUS. LOVE AND ROCKETS đã có một HIT lọt vào TOPTEN "SO ALIVE" (1989).
SIOUXSIE và THE BANSHEES là một nhóm chơi PUNK đến từ BROMLEY, ANH. Họ đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại FESTIVAL BRITISH PUNK năm 1976. Sau khi dòng GOTHIC được giới thiệu đến thính giả ANH. SIOUXSIE ( SUSAN JANET BALLEN ) và THE BANSHEES đã thêm thắt một số yếu tố và chơi theo phong cách GOTHIC ROCK ngay sau đó. THE STAIRCASE ( MYSTERY) (1979) là một ví dụ, sử dụng nhịp BASS chậm, trống mạnh và những âm thanh điện tử ảnh hưởng một phần của phong cách BAUHAUS. Giọng của SIOUXSIE tuy nhiên không cố gắng bắt chước PETER MURPHY. Nó mang phong cách PUNK vốn có của SIOUXSIE.
Những truyền thuyết rùng rợn và những cảm giác sợ hãi được mô tả trong lyric " The Stair Case " (MISTERY ). SIOUXSIE kể về việc nghe thấy những bước chân của người lạ đang tiến về phía cô. Những bài hát ấn tượng với những tiếng gió rít ghê rợn , bước chân dồn dập...
Leeds, thành phố với hai nhóm GOTHIC ROCK tiêu biểu là THE SISTERY OF MERCY và MISSION. Tay VOCAL kiêm sáng tác ANDREW ELDRICH là linh hồn của THE SISTER OF MERCY với giọng ồm, nhưng sâu lắng , âm thanh nghe như vọng từ một cõi xa xôi nào đó. Giống của DAVID BOWIE. Họ đề cập nhiều đến chính trị. Tiêu đề của Album VERSION THING (1990) ra đời từ lời phát biểu của Tổng thống BUSH - người đã yêu cầu người viết diễn văn thay đổi hoàn toàn nội dung bài đọc vì " thiếu hình ảnh".
THE SISTERS OF MERCY hạn chế dùng âm trống, thay vào đó họ dùng những âm trầm kéo dài , có những đoạn cao trào ngắn lặp đi lăp lại. MISSION ( UK) hình thành bởi thành viên của SISTERS OF MERCY, tay guitar WAYNE HUSSEY và cây bass CRAI ADAMS ( chữ UK được thêm vào bởi một ban RHYTHM AND BLUES ở PHILADENPHIA có tên THE MISSION),GOD's OWN bởi thơ của T.S ELIO (1888-1965),The WASTELAND (1922) là bài hát mô tả thế giới với những con người , những linh hồn cằn cỗi. Trong những bản ghi âm sau này, ban nhạc đã khẳng định phong cách GOTHIC, cover lại TOMORROW NEVER KNOWS của the THE BEATLES và LIKE A HURRIAMCE của NEIL YOUNG, MR PLEASANT của THE KIND .... theo phong cách của GOTHIC.
Trước hết xin tạm thời chia ra 3 nhóm chính : BEAUTY AND THE BEAST, BEAUTY và THE BEAST.
BEAUTY AND THE BEAST
THEATRE OF TRAGEDY
Có lẽ nhắc đến Gothic Metal thì phải nhắc ngay đến Theatre Of Tragedy . Cho dù trong mắt chúng ta có thể họ không phải là 1 tên tuổi nổi tiếng lắm nhưng nếu không có họ thì đã không có Gothic Metal như bây giờ . Bởi vì Theatre Of Tragedy là ban nhạc đầu tiên sử dụng hình thức 2 vocal đối chọi , trái ngược nhau , giữa 1 giọng nam gầm gừ , khàn đục của Death Metal và 1 giọng nữ cao , trong vắt , hát như 1 thiên thần của Opera . Sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lan rộng của Theatre Of Tragedy không chỉ thể hiện rõ rệt đối với các nhóm ở Na Uy như The Sins Of Thy Beloved , Tristania , Sirenia , Trail Of Tears , Green Carnation ... mà còn lan sang các quốc gia khác như là một hình mẫu để học tập theo .
Album đầu tiên của Theatre Of Tragedy mang tên nhóm phát hành vào năm 1995 và mọi chuyện chỉ thực sự thay đổi khi tay vocal của nhóm là Raymond F.Rohonyl muốn nhóm nhạc của anh có 1 diện mạo mới mẻ hơn , tươi trẻ hơn , anh tỏ ý cần 1 giọng nữ cho vài bài hát mà anh viết lời và với sự có mặt của Liv Kristine với chất giọng soprano tuyệt vời của cô đã mang lại thành công cho album thứ 2 : Velvet Darkness They Fear (1996) , album này đã mang đến 1 phong cách mới cho Gothic Metal .
Theatre Of Tragedy trở thành 1 ban nhạc Gothic mẫu mực , đầu đàn , sáng chế ra hình thức sử dụng cùng lúc 2 vocal đối chọi , trái ngược nhau mà hiện nay đang nở rộ vì đa số các nhóm Gothic đều áp dụng hình thức này . Cũng trong năm 1996 , ca khúc Der Tanz Der Schatter trích trong album Velvet Darkness They Fear còn được phát hành dưới dạng single và đây cũng là 1 trong những ca khúc ghi dấu ấn trong lòng người hâm mộ và đưa Theatre Of Tragedy vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp . 1 ca khúc khác trong album này mà tôi cũng rất thích là Black As The Devil Painteth và "Velvet Darkness They Fear" là 1 trong những chọn lựa đầu tiên của bất cứ người nghe Gothic Metal nào .
Người dẫn đường đã có , nhiệm vụ của nhóm lữ hành trên con đường đó là kế thừa , phát huy và từng bước mở rộng , phát quang ...
TRAIL OF TEARS
Nhóm nhạc ảnh hưởng mạnh mẽ phong cách của Theatre Of Tragedy là Trail Of Tears . Tuy nhiên , dù trung thành với mô hình mà Theatre Of Tragedy đưa ra nhưng Trail Of Tears không tuân thủ theo 1 cách quá cứng nhắc . Họ vẫn cho thấy được nét đặc sắc riêng của mình , họ dữ dội , mạnh mẽ và rực lửa hơn . Trail Of Tears chứng tỏ được rằng họ không chỉ mô phỏng theo những gì sẵn có mà họ vẫn biết sáng tạo , phát triển trên nền tảng mà Theatre Of Tragedy đã gầy dựng nên .
Thành lập vào năm 1994 , nhưng mãi cho đến 3 năm sau đó , 1997 , nhóm mới thực sự ra mắt với khán giả sau 1 loạt những thay đổi quan trọng : đó là cô ca sĩ Helena Iren Michaelsen vào thay anh chàng Ales Vik , Jonathan Perez thế chỗ tay trống Vidar Uleberg . Thêm vào đó là sự gia nhập của tay keyboard Rank Roald Hagen - là anh em sinh đôi cùng với tay bass của nhóm là Kjell Rune Hagen . Không chỉ thay đổi nhân sự , Trail Of Tears còn thay đổi luôn phong cách . Nhưng vừa cho ra album demo 1997 thì chỉ 1 thời gian rất ngắn sau đó , guitar lead Michael Krumins ra đi và Runar Hansen lấp vào chỗ trống đó . Đây chính là đội hình trọn vẹn và chính thức đã trình làng album Disclosure In Red phát hành vào năm 1998 . Tôi rất thích ca khúc When Silent Cries ... mở đầu trong album này .
Sau chuyến lưu diễn ở Châu Âu cùng với Tristania , The Sins Of Thy Beloved , Siebenburgen ... thì cô ca sĩ Helena Iren Michaelsen nảy sinh xung đột với ban nhạc và cả hãng đĩa . Cô ra đi như 1 kết quả tất yếu , nhưng trước khi rời nhóm Helena Iren Michaelsen vẫn còn kịp tham gia thực hiện album Profoundemonium 2000 . Catherine Paulsen thế vào vị trí của Helena và Trail Of Tears vừa cho ra mắt album mới A New Dimension Of Might 2002 , xem ra Cathrine Paulsen tỏ ra không hề kém cạnh so với Helena Iren Michaelsen . Và ở thời Helena hay thời Cathrine , Trail Of Tears vẫn chứng tỏ được phong độ là 1 nhóm Gothic Metal nổi bật và tiêu biểu của Na Uy . Nếu bạn thích Gothic Metal , thì hãy an tâm là cả 3 album Disclosure In Red , Profoundemonium và A New Dimension Of Might đều rất xứng đáng được bạn rinh về .
THE SINS OF THY BELOVED
Glenn Morten Nordbø (guitars, vocals; thanh viên 1996-hiện nay)
Arild Christensen (guitars, vocals; thành viên 1996-hiện nay)
Ola Aarrestad (bass guitar; thành viên 1996-hiện nay)
Stig Johansen (drums; thành viên 1996-hiện nay)
Mona Wallin (vocals; thành viên 2005-hiện nay)
Maiken Olaisen (keyboards; thành viên 2005-hiện nay)
Không bàn cãi gì nhiều về nhóm nhạc này bởi họ là chọn lựa hàng đầu cho những người thích Gothic Metal .Cực chú trọng cây keyboard , violon và giọng nữ , những đặc trưng tối quan trọng của dòng Gothic.
The Sins of Thy Beloved được thành lập vào tháng 11 năm 1996 tại Nauy bởi Glenn Morten Nordbø ,Arild Christensen và Stig Johansen.Ban đầu band định lấy tên là "Purgatory" nhưng sau đó nhanh chóng đổi tên sao cho cái tên lạ hơn và ít phổ biến hơn. Anita Auglend và Ola Aarrestad nhanh chóng gia nhập band, sau đó nhóm cho ra album demo đầu tiên All alone tháng 2 năm 1997. Anders Thue và Ingfrid Stensland tham gia nhóm, trước khi band cho ra album demo thứ hai Silent Pain đúng 1 năm sau .Pete Johansen chơi violon trong hai bản demo nhưng ko tham gia nhóm cho đến khi band cho ra album full- length Lake of Sorrow vào cuối năm 1998.trước khi cho ra album full-length thứ hai mang tên Perpetual Desolation , họ đã có một chuyến lưu diễn quanh châu Âu, sướng!
Một bước ngoặt, ko hiểu sao Anita Auglend, Anders Thue , Ingfrid Stensland rời bỏ band năm 2001. Trước khi hai thành viên rời nhóm, họ có làm một số DVD và CD nhưng ko phát hành rộng rãi, rất khó tìm! Sau đó, band đã khá điêu đứng vì sự ra đi đột ngột này : Pete Johansen đi chơi violon cho Tristania.
Về phong cách nhạc, họ hướng về phong cách Scandinavian Goth Metal như các band Theatre Of Tragedy hay Tristania, bởi họ có 1 giọng soprano nữ cực tuyệt vời cùng giọng death grunts nam cũng chuẩn. Thực ra họ thể hiện nhạc của họ qua thể loại gothic-death rõ nét hơn nhiều, nhất là trong album đầu tay. Hiện giờ nhóm đang chuẩn bị ra album mới.
TRISTANIA
Cùng so kè với the Sins Of Thy Beloved là Tristania - 1 trong những đại diện xuất sắc của Na Uy .
Vibeke Stene : vocal lead Osten Bergoy : vocal ( clean )
Kjetil Ingebrethsen : vocal (extreme )
Einar Moen : syntherizer Kenneth Olsson : drums
Anders Hoyvik Hidle : guitars
Rune Osterhus : bass .
Các ca khúc đáng nghe trong album này là : A Sequel Of Decay , Angina ... Nếu chỉ nghe album này và World Of Glass 2001 thì khi nghe Widow's Weeds 1998 có thể bạn sẽ thất vọng . Tuy nhiên , nếu đứng riêng một mình không so sánh với Beyond The Veil và World Of Glass thì Widow's Weeds cũng không đến nỗi nào .
SIRENIA
Một trong những thành viên đầu tiên của Tristania là Morten Veland sau khi rời khỏi nhóm đã có dự án riêng cho mình . Anh lập ra Sirenia và vừa cho ra mắt album At Sixes And Seven 2001 được đánh giá rất cao . Nhưng dường như trong album này Sirenia vẫn còn ảnh hưởng nhiều từ Tristania . Và giọng nữ của Sirenia là Fabienne Gondamin xem ra cũng chưa thật nổi bật bằng Vibeke Stene . Ca khúc mà tôi thích nhất trong album này là A Shadow Of Your Ownself .
Những band thuộc nhóm
BEAUTY và THE BEAST này còn có nhiều band rất đáng nghe như :
- Lacrimosa : 2 album Satura và Inferno (Ở nước Đức - quê hương của Lacrimosa thì ban nhạc này được mệnh danh là founder band của thể loại Gothic Metal )
- Em Synfonia : album Intimate Portrait
- Beseech : album ... From The Bleeding Heart
- Penumbra : album The Last Bewitchment
- Avernus : album Where The Sleeping Shadow Lie ( trong album này có bài Godlessness được đánh giá cao).
BEAUTY
Cũng như tất cả các thể loại âm nhạc khác , Gothic Metal cũng phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau . Ngoài hình thức 2 giọng nam nữ phối hợp , vẫn có những nhóm lấy giọng nữ làm vocal lead thật sự chứ không còn là hát bè , hát phụ họa đơn thuần nữa , sức nặng của nhóm tập trung chủ đạo vào giọng nữ , đó là trường hợp của các nhóm như : - After Forever và Within Temptation của Hà Lan - As Divine Grace của Phần Lan - Lacuna Coil của Italia - Flowing Tears của Đức ...
AFTER FOREVER
Một trong số những nhóm Gothic Metal chú trọng vào giọng nữ là After Forever của Hà Lan . Tên nhóm nhạc trùng tên với 1 bài hát của Black Sabbath , lúc đầu thì nhóm lấy tên Apocalypse , sau mới đổi lại thành After Forever . Do vừa mới thành lập vào năm 1999 nên After Forever hiện chỉ có 2 album . Album đầu tiên là Prison Of Desire . Nhưng Prison Of Desire không bằng album thứ 2 mang tên Decipher phát hành vào năm 2001 có ca khúc The Key khá hay . Cô ca sĩ của After Forever là Floor Jansen còn tham gia vào album The Dream Sequencer Part 1 của AYREON .
Chắc hẳn sẽ có 1 số người thắc mắc về chuyện vì sao Gothic Metal khi thì có giọng nữ , khi thì không ? Như chúng ta đã biết , đặc trưng chủ chốt làm nên Gothic là giọng nam của Death Metal và giọng nữ của Opera . Nhưng đây chưa phải đã là tất cả . Không có bất cứ 1 giá trị rạch ròi tuyệt đối nào trong việc phân biệt thể loại và Gothic Metal cũng thế . Từ những nền tảng ban đầu mà các ban nhạc phát triển , sáng tạo thêm các yếu tố khác . Theatre Of Tragedy đã khai sáng 1 hình thức kiểu mẫu cho Gothic Metal mà hiện nay có rất nhiều nhóm áp dụng . Tuy nhiên , không phải đợi đến khi Theatre Of Tragedy xuất hiện rồi mới có Gothic Metal mà thể loại này vốn đã có mặt từ đầu thập niên 80 , và Theatre Of Tragedy chỉ làm nhiệm vụ 1 nhóm lãnh ấn tiên phong trong việc sử dụng cùng lúc 2 vocal đối chọi và trái ngược nhau . Còn với những nhóm ra đời trước Theatre Of Tragedy thì dĩ nhiên là chưa có để tâm vào giọng nữ , hoặc là , sinh sau đẻ muộn so với Theatre Of Tragedy nhưng những nhóm sau này trung thành với phong cách thời kỳ đầu chứ không đi theo con đường mà Theatre Of Tragedy đã có công khai phá , vạch ra . Có khá nhiều tên tuổi lừng danh cho trường hợp này với 1 loạt các đại diện không thèm quan tâm gì mấy đến giọng nữ hoặc nếu có giọng nữ đi chăng nữa thì cũng chỉ là tham gia hát bè , hát phụ họa vài bài và tầm quan trọng , sự ảnh hưởng của giọng nữ đối với ban nhạc không đáng kể ...
Ví dụ như :
- To/Die/For chỉ cho một giọng nữ "ké" vài câu phụ họa trong bài In The Heat Of The Night (album All Eternity)
- Entwine thì cho em gái song ca có vỏn vẹn mỗi bài Until The End trong album Time Of Despair
- Moonspell thì cũng chỉ mời Birgit Zacher góp mặt trong album Irreligious 1996 bài Raven Claws cho vui
- The Blood Divine cho cô em phụ họa vài câu "đỡ buồn" trong track số 5 These Deepest Feelings ( bài này có tiếng Acoutics Guitar khá hay ) và "góp vui" trong track cuối cùng War Summer Rain của album Awaken
- Tương tự , Crematory cũng hát hò với phụ nữ được mỗi bài Waiting trong album Act Seven . ...
Vài ban nhạc nổi tiếng thuộc vào nhóm trung lập kể trên như :
- Type O Negative của Mỹ
- The Blood Divine , Anathema , Paradise Lost và My Dying Bride của Anh
- Tiamat , Katatonia , Lake Of Tears , Nightingale , Cemetary và Sundown của Thụy Điển
- To/Die/For và Entwine của Phần Lan
- Daeonia của Hà Lan
- On Thorns I Lay và Septic Flesh của Hy Lạp
- Moonspell của Bồ Đào Nha
- Crematory , Darkseed , Dawn Of Dream và Ever Eve của Đức ...
THE BEAST
CREMATORY
Có thể nói đây là nhóm nhạc Gothic Metal nổi bật nhất ở Đức cùng với những Darkseed , Ever Eve , Flowing Tears , Lacrimosa ... Các ca khúc trong các album của Crematory đều trở thành Hit lớn như Shadows Of Mine và In My Hands trong album "... Just Dreaming" 1994 , Tears Of Time trong album "Illusion" 1995 .
Ra album đều đặn mỗi năm và đều để lại ấn tượng đẹp . Album thứ 7 mang tên "Act Seven" có ca khúc Waiting mà tôi rất thích có sự tham gia của giọng nữ . Nhưng thật đáng tiếc , sau album thứ 9 "Believe" phát hành 2000 , Crematory đã tuyên bố tan rã . Các ca khúc hay trong album này như The Fallen , Time For Tears . Tuy nhiên , họ vẫn có thông điệp gởi gắm trong album này đến với những người từng yêu mến họ và nghe nhạc của họ : Believe in yourself and especially in Crematory .
Và nếu có xem các Video Clip của Crematory như bài Tears Of Time , The Fallen hay In My Hand , hẳn chúng ta cũng thấy Crematory dàn dựng Clip khá công phu và rất hấp dẫn .
TYPE O NEGATIVE
1 tên tuổi sừng sỏ đến từ Mỹ mang lại 1 phong cách cực kỳ ấn tượng và táo bạo cho Doom/Gothic . Sau 2 album đầu tiên là Slow , Deep And Hard 1991 và Origin Of The Feces 1992 , với album thứ 3 Bloody Kisses 1993 , Type O Negative đã thực sự ghi 1 dấu son cho Gothic Metal và tuyệt phẩm trong album này là bài Christian Woman và Black No.1 thể hiện khá rõ nét phong cách và ý tưởng về SEX của Type O Negative rất độc đáo và hấp dẫn . Nếu như có xem các Video Clip của nhóm như : Christian Woman , Black No.1 , Love You To Death , Everything Dies ... thì hẳn là cũng thấy rất ấn tượng với phong cách của Type O Negative cũng như là vẻ điển trai rất manly của anh chàng ca sĩ Peter Steele .
PARADISE LOST
Và nếu như Type O Negative là 1 đại diện cho Doom/Gothic đến từ Mỹ thì ở Anh không ai khác chính là Paradise Lost . Album thứ 3 "Shades Of God" 1992 có ca khúc As I Die mà tôi rất thích như là 1 lời tự vấn của chính bản thân với những trăn trở băn khoăn về cuộc sống . Ngoài "Shades Of God" (1992) thì SG còn 2 album khác nữa cũng rất đáng nghe của Paradise Lost là "Draconian Times" (1995) và "One Second" (1997) .
Có điểm đáng lưu ý đó là do tính chất và đặc trưng của Gothic Metal mà hình bìa album của các nhóm luôn dành sự ưu ái cho phái đẹp , như bìa album của Trail Of Tears , Sirenia , Evenfall , Vampiria , Ancient Ceremony , Flowing Tears ... hay thậm chí ưu ái đến mức "đặc tả" vẻ đẹp của người phụ nữ như bìa album Satura của Lacrimosa , Velvet Darkness They Fear của Theatre Of Tragedy , Perpetual Desolation của the Sins Of Thy Beloved , Beyond The Veil của Tristania , Soria Moria Slott của Dismal Euphony ...
Một điểm nữa là các band nhóm Gothic có vẻ yêu chuộng việc hát COVER :
- The Sins Of Thy Beloved trong album Perputual Desolation cover The Thing That Should Not Be của Metallica .
- Trail Of Tears trong album A New Dimension cover Caffein của Faith No More
- Ever Eve trong album Regret cover The House Of The Rising Sun của The Animals - Therion trong album The Secret Of The Runes cover Summer Night City của ABBA
- To/Die/For trong album All Eternity cover In The Heat Of The Night của Sandra và trong album Epilogue cover Passion Rules The Game của Scorpions
- Entwine trong album Time Of Despair cover Tears Are Falling của Paul Stanley (KISS) ...
Ngoài ra người ta còn biết tới gothic với Fashion. Trang phục của Goth Fan mang một phong cách cổ điển, quí phái với những bộ váy, áo dài chấm đất.
Goths/Gothic – một cái tên cổ xưa tồn tại qua bao thế kỉ và ngày nay vẫn được truyền giữ bởi một bộ phận giới trẻ tự gọi mình là người Goths. Không những vậy, trong âm nhạc còn có một nhánh của rock là gothic metal. Vậy Goths là gì? Đó là một câu hỏi khó vì những khái niệm và nguồn gốc của nó rất trừu tượng. Do đó, trước hết ta hãy giữ một tư tưởng rằng Goths hiện nay là tên gọi của một nền văn hóa (Gothic subculture hoặc Gothic counter-culture). Văn hóa này tuy khởi sinh từ một nền văn hóa khác nhưng vẫn có những đặc trưng của riêng mình. Có thể so sánh nó như một mạch ngầm len lỏi nhưng không bao giờ khô cạn. Sau khi nắm khái niệm như vậy, ta sẽ quay ngược thời gian chứng kiến lại toàn bộ quá trình tồn tại và phát triển, nguồn gốc ra đời của Goths cũng như những sự kiện liên quan đến nó.
Đầu tiên là chữ “goths” ra đời khi nào và từ đâu?Vào thế kỉ thứ 3 (hoặc 4) thời kì Hoàng kim của đế chế La Mã đã nằm xa trong quá khứ, chính quyền hoàn toàn suy yếu và có nguy cơ sụp đổ. Đây là thời điểm các nước láng giềng, các dân tộc xung quanh bước vào đánh cướp những mảnh đất La Mã. Họ đồng loạt tấn công khắp nơi từ ngoài vào trong, giống một bầy thú đang xé từng miếng mồi. Cũng theo trào lưu bấy giờ, một giống người ở Đức gồm hai bộ lạc: Visigoths sống ở nơi hoang mạc khô hạn và Ostrogoths sống ở vùng thảo nguyên phía đông đã tràn vào La Mã, đánh chiếm vùng đất là Thụy Điển ngày nay. Thời bấy giờ, từ “goth” được dùng để gọi người của hai bộ lạc này. Tuy nhiên nó cũng có nghĩa bóng ám chỉ những người có hành vi cư xử thô bạo, thiếu văn hóa. Người ta đặt tiếng lóng cho họ là “goth” là vì hành động của họ chẳng khác gì người bộ lạc Visigoths và Ostrogoths.
Khởi đầu là từ đây..
Thời gian trôi qua, như ta biết cuối cùng đế chế La Mã cũng sụp đổ, nhường lại sự cai trị lại cho những kẻ khôn ngoan và hùng mạnh hơn. Vậy điều gì đã xảy đến với hai bộ lạc Visigoths và Ostrogoths? Họ đã sinh sống và chống chọi ra sao? Và ta cũng đã biết người goths đã không còn nữa, họ đã tuyệt chủng. Những gì ta phỏng đóan thì nhiều mà một sự thật duy nhất lại luôn luôn mờ mịt.
Tuy nhiên… đến thế kỷ thứ 8, có một cách viết mới xuất hiện. Cách viết này khởi nguồn từ các học giả làm ghi chép. Với khối lượng lớn công việc phải làm, họ có những mẹo để rút ngắn bớt khỏang cách giữa hai chữ đồng thời viết được nhanh hơn. Một trong những mẹo đó là cách cầm bút nghiêng. Và vì do viết nhanh, họ vô tình tạo ra một lối viết chữ phóng khóang với những những đường cong, những dấu đá móc nhẹ đầy ngẫu hứng. Người ta đặt nó là Gothic calligraphy có lẽ do những nét đó tương đồng với bảng kí tự của giống người goths xa xưa. Ta lại quay về thế kỉ thứ 4 một chút, bảng chữ cái này (Gothic alphabet) được Bishop Wulfila (311-383) người chỉ huy bộ lạc Visigoths lập ra với mục đích dịch lại kinh thánh và có một ngôn ngữ riêng cho bộ lạc. Nó dựa trên bảng mẫu tự Hy Lạp với một số chữ đặc biệt mượn từ bảng mẫu tự Latin và Runic – một lọai chữ viết của những dân tộc Bắc Âu xưa sống ở thế kỉ thứ 2. Vậy là vào thế kỉ thứ 8, cách viết kiểu gothic đã ra đời.
Thế kỷ 9, 10, 11 trôi qua nhanh chóng. Châu Âu trung cổ (Middle age) bắt đầu. Thời kì này có nhiều sự kiện lịch sử và làm tốn giấy mực không ít của các nhà sử học. Một sự kiện cũng được nhắc đến nhiều, cũng rất là nổi bật đó là sự ra đời của kiến trúc gothic (gothic architecture). Ta không hiểu tại sao lại gọi là “kiến trúc kiểu gothic”?! Về cơ bản kiến trúc gothic và roman có cùng một nền tảng về kiến trúc học. Nhưng nó sáng tạo trái ngược hòan tòan với lối kiến trúc roman có vòm tròn, tường dày.. có vẻ ngày càng trở nên đơn điệu. Các mái vòm nhọn, các bức tường gạch mỏng, họa tiết sắc nhọn… tạo cho những nhà thờ theo phong cách gothic một vẻ ấn tượng thanh thóat tuyệt đẹp ngay lập tức. Ngòai ra, mái vòm nhọn làm các bức tường trở nên cao hơn, cao hơn đủ để người họa sĩ thỏa sức sáng tạo những bức tranh kính khổng lổ đầy màu sắc lấp lánh chưa từng có trước đây. Từ đây, thời đại của kiến trúc roman đã đặt dấu chấm hết. Thay vào đó là thời đại huy hòang của kiến trúc gothic. Các nhà thờ theo kiểu này được xây dựng nhiều như nấm mọc sau mưa: nhanh chóng và vô số, đặc biệt là tây Âu có tốc độ và số lượng cao nhất. Nhà thờ đầu tiên xây dựng theo lối kiến trúc này là Saint-Denis tại Pháp vào năm 1140.
Woah, thế kỉ tiếp theo đó là 100 năm thịnh vượng của kiến trúc gothic! Thời gian này, chính xác hơn là cuối thế kỉ 13, phong cách hội họa gothic (gothic paiting) cũng ra đời. Sự ra đời này có thể nói hòan tòan dựa vào đạo Cơ đốc (Christianity). Như đã biết thế kỉ 13 nằm trong giai đọan đỉnh cao của Cơ đốc giáo. Vì vậy bất kì thay đổi nào ở nhà thờ cũng đều có tác động lớn đến tiềm thức của dân chúng – những con người ngoan đạo. Sự thay đổi ở phong cách, ý tưởng, chi tiết, màu sắc trong các tác phẩm hội họa được nhận thấy rõ ràng trong hơn một thế kỷ qua, từ khi nhà thờ kiểu gothic Saint-Denis được đặt những viên gạch đầu tiên. Đó là do hình ảnh nhà thờ hòan tòan mới thúc đẩy họ có một cái nhìn mới mẻ hơn. Năm 1280 là thời điểm phong cách hội họa gothic định hình hòan tất. Các họa sĩ Ý là những người đã có công tập hợp lại các thay đổi trong phong cách hội họa trong hơn 1 thế kỷ qua và áp dụng tất cả trong tranh của họ. Và các tác phẩm đó được xem là các tác phẩm theo phong cách gothic đầu tiên. Điểm khác nhau đặc trưng giữa chúng với các tác phẩm cùng thời thứ nhất là chỉ theo trường phái tự nhiên, thứ hai là cái tự nhiên đó được hiện thực hóa tối đa. Đây là trường phái hội họa chỉ mô tả cuộc sống thực tại và bỏ đi tất cả những yếu tố siêu phàm hay thuộc về tâm linh. Cũng như kiến trúc, phong cách hội họa gothic ngay lập tức lan rộng khắp châu Âu và đạt đến đỉnh cao ngay trong giai đọan đầu của thời kì Phục Hưng (The Renaissance XIV, XV, XVI) rồi kết thúc vào cuối thế kỉ 15. Mặc dù không được phát triển và giữ gìn lâu dài nhưng ta thấy phong cách này đã có ảnh hưởng như thế nào qua rất nhiều tác phẩm được lưu giữ tại các viện bảo tàng nghệ thuật khắp châu Âu.
Nếu nói đến Gothic , thì chúng ta không chỉ liên tưởng đến lối kiến trúc mái vòm mang đậm phong cách Gotik 1913 của thời Trung cổ ở Châu Âu hay người phụ nữ trong những bộ trang phục thật đẹp mà sẽ còn nghĩ đến 1 thể loại âm nhạc đang cực kỳ phát triển . Gothic Metal đã , đang và sẽ tiếp tục chinh phục người nghe bằng thế mạnh ở chính vẻ đẹp rạng ngời mà không chói loá. Dù được thể hiện dưới hình thức nào , có tôn vinh người phụ nữ , có nhấn mạnh vai trò của phái đẹp hay không thì Gothic Metal vẫn mang đến cho Âm Nhạc nói chung 1 nét đẹp có sắc thái riêng biệt , mới lạ và chính sức quyến rũ , thu hút rất riêng ấy sẽ mãi trường tồn trong trái tim của người hâm mộ.