Lẵng quả thông hay suối nhạc nhiệm màu...

Hà Chi
(Libra)

Điều hành viên
Lẵng quả thông

Mùa thu, nhà soạn nhạc Edua Grigơ thường về ở trong những khu rừng gần thành phố Bécghen.


Mọi khu rừng đều đẹp với bầu không khí phảng phất mùi nấm, với tiếng lá rì rào. Nhưng những khu rừng trên núi và gần biển mới thực là đẹp. Ở đó ta nghe rõ cả tiếng sóng vỗ bờ. Sương mù từ biển cả thường xuyên tràn vào và vì khí ẩm quá nhiều nên rêu mọc rậm rịt. Rêu từ trên cành cây xõa dài xuống mặt đất như những mớ tóc xanh. Ngoài ra trong những khu rừng trên núi, còn có một thứ tiếng vọng vui tính. Giống như một con khướu nó chỉ chực chộp lấy một tiếng động nào để rồi liệng lại qua vách đá.


Một hôm Grigơ bắt gặp trong rừng một em bé có đôi bím tóc nhỏ xíu, con ông gác rừng. Em đang nhặt quả thông bỏ vào lẵng.


Trời đang thu. Nếu như có thể lấy hết đồng và vàng trên trái đất thành muôn vàn lá cây mỏng dính thì chúng cũng chỉ có thể làm thành một phần rất nhỏ của bộ áo mùa thu trải trên đồi núi kia mà thôi. Vả lại những chiếc lá nhân tạo nọ sẽ rất thô kệch so với lá thật, nhất là với lá liêu hoàn diệp. Mọi người đều biết rằng chỉ cần một tiếng chim hót thôi cũng đã đủ làm chúng run rẩy.


- Cháu tên gì nào? Grigơ hỏi.
- Cháu là Ðanhi Pêđecxen. Em bé lí nhí trả lời.


Em bé trả lời lí nhí không phải vì sợ, mà vì bối rối. Nó sợ sao được khi cặp mắt của Grigơ đang cười.


- Rõ tiếc... Grigơ nói. Bác chả có quà gì cho cháu cả. Chả có búp bê, chả có băng, thỏ nhung cũng không có nốt.
- Cháu có con búp bê cũ của Mẹ cháu. Em bé trả lời. - Trước kia nó cũng biết nhắm mắt cơ bác ạ. Như thế này này...
Nó từ từ nhắm mắt lại. Khi nó mở mắt, Grigơ nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh nhạt và lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ.
- Nhưng bây giờ thì nó ngủ mở mắt, Em bé buồn rầu nói tiếp, người già hay khó ngủ. Ông cháu cũng vậy, cứ kêu rên cả đêm.
- Ðanhi này. Bác nghĩ ra rồi, Grigơ nói, - Bác sẽ tặng cháu một món quà thú vị. Nhưng không phải bây giờ mà độ mười năm nữa.
Ðanhi đập hai tay vào nhau :
- Ôi, thế thì lâu quá!
- Cháu hiểu không, bác còn phải làm ra nó đã chứ.
- Nhưng nó là cái gì kia, bác?
- Sau này cháu sẽ biết.
- Chả lẽ suốt đời bác, bác chỉ làm được có dăm sáu thứ đồ chơi thôi hay sao? Em bé nghiêm nghị hỏi.
Grigơ bối rối:
- Không, không phải thế đâu. Ông bác lại vẻ không quả quyết - Có thể bác sẽ làm xong vật ấy trong vài ngày. Nhưng những thứ đó người ta không cho trẻ con. Bác thường chỉ làm quà cho người lớn.
- Cháu không đánh vỡ đâu mà. Ðanhi năn nỉ và nắm tay áo kéo ông lại. - Cháu cũng chẳng làm hỏng đâu. Ðấy rồi bác xem! Ông cháu có một chiếc thuyền thủy tinh bé tí tẹo. Cháu vẫn lau bụi cho nó đấy nhưng cháu có bao giờ làm sứt nó tí nào đâu.
" Con bé Ðanhi này làm mình rối tung lên rồi. " Grigơ bực bội nghĩ thầm và rồi ông lặp lại những điều mà người lớn thường nói với trẻ con khi lâm vào thế bí:
- Cháu hãy còn bé và có nhiều điều cháu không hiểu. Hãy học tập tính kiên nhẫn. Còn bây giờ cháu đưa cái lẵng đây cho bác. Cháu ì ạch mãi mới mang nổi nó kia kìa. Bác sẽ đưa cháu về nhà và chúng ta sẽ nói về một chuyện gì khác.
Ðanhi thở dài và đưa cái lẵng cho Grigơ. Cái lẵng quả là khá nặng. Quả cây thông tán nhọn có nhiều nhựa, nên nó nặng hơn quả của loại thông khác.


Khi nhà người gác rừng hiện ra giữa đám cây, Grigơ bảo cô bé:
- Thôi, ?Đanhi này, bây giờ cháu chạy về một mình nhé. Ở Nauy có nhiều em bé trùng tên trùng họ với cháu. Bố cháu tên là gì nhỉ?
- Hagrup ạ . Ðanhi trả lời và hỏi tiếp, vầng trán nhăn lại - Bác không vào chơi nhà cháu ư? Nhà cháu có chiếc khăn trải bàn thêu này, có con mèo hung này, lại có chiếc thuyền bằng thủy tinh nữa. Ông cháu sẽ cho phép bác cầm xem đấy.
- Cám ơn cháu. Bây giờ bác vội. Chào cháu, Ðanhi ạ.
Grigơ vuốt tóc em bé rồi đi về phía bờ biển. Ðanhi chau mày trông theo. Em xách cái lẵng nghiêng về một bên và những quả thông rơi xuống đất.
" Ta sẽ làm một bản nhạc, Grigơ quyết định và trên trang bìa ta sẽ cho in : "Tặng Ðanhi Pêđecxen, con gái người gác rừng Hagrup Pêđécxen, khi cô mười tám tuổi ".


****

ở Becghen không có gì thay đổi. Tất cả những gì làm cho âm thanh giảm đi như thảm, màn cửa, đồ gỗ lót đệm, Grigơ đã loại ra khỏi nhà từ lâu. Chỉ còn lại chiếc đi văng cũ kỹ đủ chỗ cho người khác ngồi là Grigơ chưa dám bỏ đi. Các bạn của nhà soạn nhạc nói rằng nhà của ông giống nơi ở của một tiều phu. Chỉ có mỗi dương cầm là vật trang sức cho ngôi nhà. Người giàu tưởng tượng có thể nghe thấy giữa bốn bức tường trắng ở đây nhiều điều kỳ diệu, từ tiếng gầm thét của Bắc băng dương - cái đại dương đang dồn sóng ra từ cõi mịt mù sương gió, nơi gió rú rít kể câu chuyện cổ xưa rùng rợn - cho đến bài hát của em gái ru con bút bê vải. Chiếc dương cầm có thể ca về tất cả: về khí phách con người vươn tới cái cao cả, về tình yêu. Những phím đàn đen trắng lướt nhanh dưới những ngón tay chắc nịch của Grigơ, lúc vui cười, lúc lại réo lên giông tố và căm thù rồi bất thần lặng hẳn đi.


Trong phút lặng lẽ ấy chỉ cò một dây đàn nhỏ bé là còn rung mãi như thể nàng Lọ Lem bị các chị mắng mỏ đang khóc.


Grigơ ngả người ra, lắng nghe cho đến khi cái âm thanh cuối cùng ấy tắt hẳn ở trong bếp, nơi chú dế mèn đã đến trú ngụ từ lâu. Ðến lúc ấy mới nghe tiếng vòi nước nhỏ giọt, đếm từng giây hệt như máy đo tiết điệu. Những giọt nước nhấn mạnh rằng thời gian, thời gian không chờ đợi ai và cần phải hối hả làm cho xong những điều dự định.


Grigơ viết bản nhạc tặng Ðanhi Pêđecxen trong hơn một tháng.


Mùa đông bắt đầu. Sương mù phủ kín thành phố. Những con tàu han rỉ từ nhiều nước kéo đến gà gật bên bến cảng lát gỗ, khe khẽ phì phò hơi nước. Chẳng bao lâu tuyết bắt đầu rơi. Grigơ nhìn qua cửa sổ thấy những bông tuyết bay chênh chếch, cố bám lấy ngọn cây. Tất nhiên, không thể truyền đặt âm thanh bằng lời, dù cho ngôn ngữ của chúng ta có phong phú đến thế nào chăng nữa. Grigơ viết về cái đẹp vô cùng của thời con gái và của hạnh phúc. Ông viết và thấy cô gái có đôi mắt xanh sáng ngời nghẹn ngào vì sung sướng, đang chạy đến với ông. Cô gái vòng tay ôm lấy cổ ông, áp bên má nóng bừng của cô vào cái má đầy râu bạc lâu ngày không cạo của ông. " Cảm ơn bác" Cô nói trong lúc chính cô cũng chưa biết cô cảm ơn ông vì lẽ gì.


" Cháu như mặt trời, Grigơ nói với cô, như làn gió êm dịu, như buổi sáng tươi mát. Một bông hoa trắng ngần đã bừng nở trong lòng cháu làm cho toàn thân cháu thơm ngát mùa xuân. Ta hiểu đời lắm. Cháu ạ, dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu hãy cứ tin rằng cuộc đời thật là kỳ diệu và tuyệt đẹp. Ta già rồi, nhưng ta đã hiến cuộc đời ta, sự nghiệp và tài năng của ta cho tuổi trẻ. Hiến tất cả mà không đòi hỏi trả lại. Vì thế có thể, ta còn hạnh phúc hơn cả cháu nữa kia, Ðanhi ạ! Cháu là đêm trắng với ánh sáng huyền ảo. Cháu là hạnh phúc, là ánh bình minh. Cháu cất tiếng là bao con tim rung động. Cầu chúa ban phước lành cho mọi vật xung quanh cháu, chạm tới người cháu và được cháu chạm tới, những gì làm cháu vui sướng và bắt cháu phải trầm ngâm suy nghĩ".


Grigơ nghĩ vậy và gửi vào phím đàn những gì ông suy nghĩ. Ông ngờ rằng có người nghe trộm ông. Ông còn đoán được ai đang nghe trộm nữa. Ðó là đàn sơn tước trên cành, đám thủy thủ ngoài cảng quá chén đang lang thang, chị thợ giặt bên hàng xóm, chú dế mèn, những bông tuyết từ trên bầu trời trĩu nặng kia rơi xuống và nàng Lọ Lem trong bộ quần áo vá chằng vá đụp.
Mỗi người và vật nghe ông theo một cách.


Những con sơn tước xốn xang. Nhưng dù chúng có loay hoay thế nào mặc lòng, sự huyên náo của chúng cũng không át nổi tiếng đàn. Những tay thủy thủ quá chén ngồi xuống bậc thềm nhà ông, vừa nghe nức nở. Chị thợ đứng thẳng lên, lấy lòng bàn tay lau cặp mắt đỏ hoe và lắc đầu. Chú dế mèn chui ra khỏi kẽ nứt của chiếc lò sưởi lát gạch sứ và nhòm Grigơ qua một khe hở. Những bông tuyết rơi, ngập ngừng, lơ lửng giữa từng không, lắng nghe suối đàn từ trog nhà vọng ra. còn Lọ Lem thì mỉm cười nhìn xuống sàn. Một đôi giày xinh xắn bằng pha lê nằm bên chân cô. Ðôi giày run rẩy, va vào nhau, hoà nhịp với tiếng đàn ngân vang trong phòng nhà soạn nhạc. Grigơ qúy những thính giả ấy hơn các vị sang trọng và lịch sự vẫn thường tới nghe hoà nhạc.


****



Năm 18 tuổi Ðanhi học hết trung học.
Nhân dịp này cha nàng cho nàng về Krixtania chơi ít lâu với bà Magda, em gái ông. "Cho con bé (cha nàng vẫn coi nàng là con bé, mặc dầu Ðanhi đã là một cô gái có thân hình cân đối với đôi bím tóc vàng nặng trĩu) biết cái thế giới này nó ra sao, người ta sống thế nào, và cho nó giải trí một chút".


Ai biết được tươg lai sẽ dàh cho Ðanhi những gì? Có thể, một người chồng chân thật và yêu nàng nhưng lại đáng ngán và keo kiệt chăng? Hay việc làm ở quầy tạp hóa trong làng? Hoặc phục dịch tại một trong vô vàn hãng tàu biển ở Bécghen?


Bà Magda làm thợ may trong một nhà hát. Chồng bà, ông Ninxơ cũng làm thợ cắt tóc trong nhà hát ấy. Họ ở trong một phòng nhỏ ngay dưới mái nhà hát. Từ đấy trông thấy những lá cờ hiệu hàng hải và tượng đài Ipxen! Những con tàu suốt ngày cứ chõ vào các cửa sổ bỏ ngỏ mà la hét. Ông Ninxơ, đã nghiên cứu tiếng kêu la của chúng kỹ đến nỗi, theo ông nói, ông biết chắc chiếc tàu nào đang kéo còi: " Nôđecnay" từ Côpenhaghen, " Người ca sĩ xứ Ecốt" từ Glazgô hay " Gian đa" từ Boócđô đến. Trong phòng bà Magda có rất nhiều vật dụng của nhà hát: gấm, lụa, tuyn, băng, đồ ren, mũ dạ thời xưa gắn lông đà điểu đen, khăn san của người digan, tóc giả bạc trắng, ủng cổ loa gắn cựa bằng đồng, các loại gươm, quạt và những đôi giày dát bạc đã sờn ở những nếp gấp. Tất cả những thứ đó phải được vá víu sửa chữa, lau chùi và là phẳng. Trên tường treo những tranh nhỏ cắt ra từ sách báo: kỵ sĩ thời vua Lui XIV, mỹ nhân bận váy bông, hiệp sĩ, phụ nữ Nga trong bộ xaraphan, thủy thủ và bọn vikinh trên đầu mang những vòng lá sồi. Muốn lên phòng phải leo một cái thang dưng đứng. Ở đấy thường phảng phất mùi sơn và mùi vécni bốc lên từ lớp vàng mạ.


****



Ðanhi hay đi xem hát. Ðó là một việc thú vị. Nhưng sau những buổi xem kịch ấy, Ðanhi thường thao thức mãi không ngủ được và đôi khi lại cứ nằm trên giường mà khóc. Bà Magda lấy thế làm lo lắng và thường an ủi Ðanhi. Bá nói rằng ko nên mù quáng tin những gì diễn ra trên sân khấu. Nhưng ông Nixơ vì thế lại gọi bà là "mụ nái xề" và nói rằng, ngược lại, nên tin mọi điều ở nhà hát. Nếu không thì người ta chẳng cần đến nhà hát nào nữa. Thế là Ðanhi tin. Tuy vậy bà Magda vẫn cứ nhất định đòi đi nghe hoà nhạc để đổi món. Ông Ninxơ không phản đối ý kiến ấy. "Âm nhạc, ông nói, đó là gương mặt của thiên tài."


Ông Ninxơ thích dùng những danh từ cao siêu và mơ hồ. Ông bảo Ðanhi giống như hợp âm đầu tiên của một tự khúc. Còn bà Magđa thì, theo lời ông, lại có một quyền lực siêu phàm đối với mọi người. Quyền lực đó là ở chỗ bà may trang phục sân khấu. Mà ai chẳng biết rằng con người cứ mỗi lần mặc bộ đồ mới là biến đổi hẳn. Thành thử vẫn là anh diễn viên hôm qua là tên giết người bỉ ổi, hôm nay đã trở thành chàng nhân tình say đắm, ngày mai là anh hề của nhà vua, còn ngày kia lại thành vị anh hùng dân tộc.


Trong những trường hợp đó bà Magđa thường kêu lên:
- Ðanhi! Cháu hãy bịt tai lại, đừng nghe những lời ba hoa gớm ghiếc ấy làm gì! Ông ấy chả biết ông ấy nói gì đâu, lão triết gia kiết xác ấy.


Tháng sáu, trời ấm. Ðang hồi những đêm trắng. Những buổi hoà nhạc tổ chức ngoài trời, tại công viên thành phố. Ðanhi nghe hòa nhạc cùng cô Magđa và chú Ninxơ. Nàng muốn mặc chiếc áo dài trắng độc nhất của mình, nhưng chú Ninxơ bảo rằng người con gái đẹp phải biết ăn mặc sao cho nổi bật lên giữa môi trường xung quanh. Nói chung, bài diễn văn dài dòng của ông về chuyện đó có thể tóm tắt lại là trong những đêm trắng nhất thiết phải mặc đồ đen và ngược lại lúc trời tối nên diện bộ áo trắng. Không thể nào cãi lại ông Ninxơ, nên Ðanhi mặc chiếc áo dài nhung lụa đen, tuyết rất mịn. Bà Magđa đã mượn trong kho phục trang cho nàng chiếc áo đó.

Khi Ðanhi đã mặc xong, bà Magđa phải chịu là ông Ninxơ có lý: không gì có thể tôn nước da mai mái nghiêm nghị trên gương mặt và đôi bím tóc dài lấp lánh vàng mười của nàng bằng thứ nhung huyền bí ấy.


- Này Magđa, mình trông mà xem, chú Ninxơ nói khẽ, con Ðanhi đẹp như thể nó đi gặp người yêu trong buổi đầu tiên ấy.
- Ðúng vậy, bà Magđa trả lời - Thế mà lần hẹn đầu tiên ông đến gặp tôi, tôi lại chả được thấy ông là một chàng điển trai si tình. Ông chỉ là một chàng ba hoa.
Và bà Magđa đặt một cái hôn lên tóc của chồng.


Buổi hoà nhạc bắt đầu sau khi khẩu đại bác ở ngoài cảng nổ phát súng chiều thường lệ. Phát súng báo hiệu mặt trời lặn. Mặc dầu là buổi tối, cả nhạc trưởng lẫn nhạc công đều không bật những ngọn đèn nhỏ trên giá nhạc. Tối hôm đó trời rất sáng nên những cây đèn *****g lấp lánh trong tán cây đoạn hẳn cũng chỉ để tạo cho buổi hoà nhạc vẻ hào nhoáng mà thôi. Lần đầu tiên Ðanhi được nghe nhạc giao hưởng. Bản nhạc gây cho cô một ấn tượng lạ lùng. Những đoạn luyến láy và rền vang của dàn nhạc gợi lên trong tâm trí cô muôn vàn cảnh lạ giống như giấc mơ. Bỗng Ðanhi giật mình, ngước mắt lên. Nàng có cảm giác như người đàn ông gầy gò mặc áo đuôi tôm đang giới thiệu chương trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng.


- Chú gọi cháu đấy ư, chú? Ðanhi nhìn ông Ninxơ hỏi rồi lập tức cau mày lại.
Người chú nhìn nàng không ra là kinh hãi không ra là thán phục. Và bà Magđa áp chiếc khăn vào miệng cũng nhìn Ðanhi hệt như vậy.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? Ðanhi hỏi.
Bà Magđa nắm lấy tay nàng rồi nói khẽ:
- Nghe kìa!
Và Ðanhi nghe thấy người mặc áo đuôi tôm nói:
- Các vị thính giả mấy hàng ghế cuối nhờ tôi nhắc lại. Vậy là dàn nhạc chúng tôi sẽ trình bày hiến quý vị một bản nhạc nổi tiếng của Eđua Grigơ đề tặng Ðanhi Pêđecxen, con gái ông gác rừng Harup Pêđecxen, nhân dịp cô tròn mười tám tuổi.


Ðanhi hít một hơi dài đến nỗi nàng thấy tức ngực. Nàng muốn lấy hơi thở đó để giữ dòng nước mắt sắp trào ra, nhưng vô hiệu, Ðanhi cúi xuống và giấu mặt trong đôi bàn tay. Thoạt đầu nàng không nghe thấy gì hết. Một cơn giông đang cuồn cuộn trong lòng nàng. Cuối cùng nàng nghe thấy tiếng tù và mục đồng rúc lên trong buổi sớm tinh sương và dàn nhạc đàn dây khẽ giật mình, đáp lại bằng hàng trăm tiếng hát. Ðiệu nhạc tăng dần, cất bổng lên rồi gào thét lướt trên ngọn cây, như một luồng gió rứt lá, thổi rạp cỏ xuống đất, quất vào mặt những tia nước mát rượi. Ðanhi cảm thấy có một luồng không khí do âm nhạc dấy lên phả đến và nàng gắng bình tĩnh lại.


Phải, đó là cánh rừng của nàng, quê hương nàng! Núi đồi của nàng, tiếng tù và, tiếng sóng biển quê nàng. Những con tàu bằng thủy tinh làm nước sủi bọt. Gió reo cả trên những dây buồm. Từ lúc nào không biết, tiếng reo đó đã chuyển thành tiếng những quả chuông nhỏ trong rừng đổ hồi, tiếng đàn chim ríu rít nhào lộn trên không, tiếng trẻ con hú nhau, tiếng hát về người con gái: lúc bình minh người yêu ném một vốc cát vào cửa sổ phòng nàng. Ðanhi đã nghe bài hát đó trên đồi núi ở quê nhà.

Vậy ra đó chính là bác ấy. Ông già tóc bạc đã giúp cô mang lẵng quả thông về nhà. Ðó là Edua Grigơ, người có phép thần và nhạc sĩ vĩ đại! Thế mà nàng đã trách bác ấy không biết cách làm mau chóng. Thì ra đó chính là món quà mà ông đã hứa cho nàng mười năm sau.


Ðanhi khóc, không giấu giếm những giọt lệ biết ơn. Ðến lúc ấy âm nhạc đã tràn ngập khoảng không giữa mặt đất và mây trời giăng mắc trên thành phố. Sóng nhạc du dương làm cho mây gợn lên lăn tăn và những vì sao lung linh lấp lánh. Bản nhạc không phải là hát nữa. Nó kêu gọi. Kêu gọi đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có thể làm nhạt tình yêu, nơi mặt trời sáng chói như vòg triều thiên trên đầu nàng tiên trong cổ tích. Trong dòng âm thanh cuồn cuộn ấy bỗng nổi lên giọng nói quen thuộc "Cháu là hạnh phúc, cháu là ánh bình minh". Bản nhạc ngừng bặt. Những tràng vỗ tay lúc đầu còn chầm chậm, sau mỗi lúc t mạnh thêm, vang lên như sấm dậy.


Ðanhi đứng lên và đi nhanh về phía cổng công viên. Mọi người cùng quay đầu lại nhìn nàng. Có thể, có một số người trong đám thính giả đã thoáng nghĩ rằng nàng chính là Ðanhi Pêđecxen mà Grigơ đã dành tặng tác phẩm bất tử của ông. "Bác ấy mất rồi ư? Ðanhi nghĩ - Vì sao?" Giá mà lại được gặp ông! Giá mà ông có mặt ở đây? Hẳn nàng sẽ chạy ào lại với ông, tim đập rộn ràng, nàng sẽ bá lấy cổ ông, áp bên má ướt đẫm nước mắt vào má ông và chỉ nói một câu : "Cảm ơn bác". " Vì lẽ gì cơ chứ?" Hẳn ông sẽ hỏi như thế. "Cháu cũng chả biết nữa... Hẳn nàng sẽ trả lời, - Vì bác đã không quên cháu. Vì lòng hào hiệp của bác. Vì bác đã cho cháu thấy cái tuyệt mỹ mà con người phải sống bằng cái tuyệt mỹ ấy".


Ðanhi đi trên đường phố vắng tanh. Nàng không biết rằng bà Magđa đã phái ông Ninxơ đi theo nàng mà không để nàng trông thấy. Ông đi lảo đảo như người say rượu, miệng lẩm bẩm gì đó về sự thần kỳ xảy ra trong cuộc sống eo hẹp của họ. Bóng đêm vẫn còn trải trên thành phố. Nhưng trong cửa sổ đã thấy lấp lánh ánh vàng yếu ớt của bình minh phương Bắc. Ðanhi đi ra bờ biển. Biển vẫn còn ngủ say, không một tiếng sóng vỗ.


Ðanhi nắm chặt hai tay lại và rên lên vì một cảm giác mơ hồ đối với nàng, nhưng đã chiếm lĩnh toàn cơ thể nàng - cảm giác về cái đẹp của cuộc đời.
- Ðời ơi, hãy nghe đây! Ðanhi nói khẽ - Ta yêu Người.
Và nàng cười, mở to mắt nhìn những ngọn đèn trên tàu biển đang chậm rãi lắc lư nơi nước xám trong vắt.


Ông Ninxơ đứng ở đàng xa nghe thấy tiếng cười đó và quay về nhà. Giờ ông đã yên tâm về Ðanhi. Giờ đây ông hiểu rằng cuộc đời cháu gái ông sẽ không qua đi vô ích.


Pauxtopxki
Kim Ân dịch


Lấy từ www.hssv.vnn.vn
 
lau lam ko đọc lại bài này. tuyệt cu' mèo. ai có thêm mấy tác phẩm văn học nga nữa post lên đựơc ko nhỉ. thanks Ha CHi
 
Pautopxky! Chị Hà Chi Ơi ,chị đã đọc trọn bộ "bông hồng vàng "và "tự truyện "của Pau chưa ah ?
Đọc Pau chăc là cũng yêu Xuân Quỳnh lắm chị nhỉ ?;)
 
Pautopxky! Chị Hà Chi Ơi ,chị đã đọc trọn bộ "bông hồng vàng "và "tự truyện "của Pau chưa ah ?
Đọc Pau chăc là cũng yêu Xuân Quỳnh lắm chị nhỉ ?

"Bông hồng vàng" thì chị đọc rồi, còn "tự truyện" thì nghe là lạ ghê :) Chị chỉ nhớ là bộ truyện favourite nhất của chị cũng không phải là "bông hồng vàng" mà là "bình minh mưa" thì phải, không nhớ chính xác nữa, nhưng cái tuyển tập mà có "Tuyết", "Bình minh mưa", "Lẵng quả thông"... ý! (lâu lắm không được đọc lại rồi, lẫn lộn, không biết có phải ngày xưa mình đọc từ tuyển tập ra không biết nữa :D) Bông hồng vàng cũng hay, nhưng cảm giác thiên về triết lý hơn một chút :)

Xuân Quỳnh cảm thấy yêu vì cái nữ tính nồng nàn trong thơ của chị. Còn Pau thì đó là tình yêu từ thủa xưa, chập chững lớn lên, chập chững tập lãng mạn và nhìn cuộc sống là những sự diệu kỳ nối tiếp nhau. Bao nhiêu thời gian nhìn lại, thấy dù có thay đổi đi nhiều, nhưng không hiểu sao những gì trước kia tin tưởng và mơ mộng vẫn có vị trí trong tim mình, không thay đổi. Cũng nhờ những niềm tin đó mà cảm thấy yêu cuộc sống biết bao nhiêu! Pau có cách tả thiên nhiên tuyệt vời, vô cùng đẹp và rung động mà chỉ có người yêu cuộc sống thiết tha mới có thể viết nên được những áng văn đó :)

lau lam ko đọc lại bài này. tuyệt cu' mèo. ai có thêm mấy tác phẩm văn học nga nữa post lên đựơc ko nhỉ. thanks Ha CHi

Chi không có bộ truyện ở nhà nên không thể gõ lên được, ai đó "ra tay nghĩa hiệp" đi ;) Nếu không thì chờ.... đến lúc Chi về HN rồi ngồi gõ nhé :D

Có ai thích Maxim Gooki không nhỉ (chả nhớ đánh vần thể nào nữa :D)?
 
Đọc "bình minh mưa "thì đỉnh rồi,khó mà hết để diễn tả cái chất của Pau ,
chị Chi nhỉ ,quả em cũng cảm nhận như những gì chị nói ......Em cũng muốn giới thiệu lên đây cho mọi người lắm ,tiếc là bận quá không ngồi tỉ mẩn đánh được..
Chị Diệu Hương gì đó ơi ,mua luôn bộ "Bình Minh Mưa "luôn cho rồi ,đọc vào những cái ngày trời HN vừa mưa xong ...;)
 
Duong Ha ơi, nếu mà chị mua được thì đã chả ngồi đây rồi, phải ngồi nghiền ngẫm nó chứ. Ở US này có chỗ nào bán mấy truyện văn học Nga như thế đâu, chắc lại chui vào thư viện tìm truyện dịch tiếng anh vậy.
 
Hìhì ... lâu không gặp sao mà đanh đa hơn cả xưa nữa :p ok CẦn Vương:D

Trái Vô Tư Và Cành Cây Phiền Muộn

Hãy nhặt đi em trái vô tư
Những trái rơi từ nhánh cây phiền muộn
Đừng để một ngày gió mây đem xuống
Trận mưa rào trôi hết trái vô tư

Hãy lại đây ngồi ăn trái vô tư
Chớ núp làm chi sau nhánh cây phiền muộn
Trái vô tư sẽ làm em vui sướng
Sẽ quên đời phiền muộn bấy lâu nay...

Anh đã biết rồi
Em như một áng mây
Bay bồng bềnh cao trên trời trong sáng quá
Chợt biết yêu em là một điều rất lạ
Một ngày mây đến lại bay đi

Em để muộn phiền lên những nhánh si
Rơi trái vô tư nhẹ nhàng trong trĩu nặng
Em lớn khôn rồi chớ phải đâu mười tám
Sao cứ mãi là một trái vô tư ?...

:razz:
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Well, cool, cũng choáng ghê ha :) Bài thơ rất hay :) không biết là cái em "trái vô tư" của ấy đã lớn lên chưa, hay đợi 100 năm nữa :p
 
ô... hehe ...trái vô tư của tớ lơn lắm rồi hehe :D

Trên giang hồ anh là trang lãng tử
Nay giữa đuờng gặp sư tử Hà Chi
Anh gục ngã than ôi đời buồn bã
Kiếp phong trần không 1 lời từ giã ... :(

Anh còn nhớ có một thời kiêu hảnh
Đã san bằng những băng đảng lưu manh
Đi ra đường ai gặp cũng ... chào anh...
Nay khuất phục trước hồng nhan bạc...triệu... :D
 
TUYẾT

Tachiana Petơrốpna dọn đến nhà cụ Pôtapốp được một tháng thì cụ mất. Nàng ở lại một mình với đứa con gái nhỏ là Varia và người vú già.

Ngôi nhà nhỏ, chỉ có ba gian, ở trên một ngọn đồi trông xuống con sông phía bắc ngay đầu tỉnh lỵ. Sau nhà, bên kia khu vườn đã trụi lá là một rừng bạch dương phơi màu trắng bạc. Ở đó, từ sáng đến tối, lũ quạ kêu quàng quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi, báo hiệu trời xấu.

Từ khi rời Maxcơva, Tachiana mãi vẫn không sao quen được cái tỉnh lỵ đìu hiu với những ngôi nhà nhỏ bé, nhũng cánh cửa hàng rào kêu ken két, những buổi tối vắng lặng, nghe rõ cả tiếng ngọn đèn dầu hỏa nổ lép bép.

“Mình ngốc quá ! - Nàng nghĩ. - Không dưng đi bỏ Maxcơva, nhà hát và bè bạn ! Đáng lẽ phải đưa Varia đến với bà vú ở Puskinô, nơi đó chưa bị máy bay bắn phá lần nào, còn mình thì cứ việc ở lại Maxcơva. Trời, mình thật ngốc !”.

Nhưng không thể trở lại Maxcơva được nữa rồi. Tachiana quyết định biểu diễn trong các trạm quân y - trong thị trấn này có vài trạm - và nàng cảm thấy yên tâm. Nàng còn thấy thích cái tỉnh lỵ ấy nữa là khác, nhất là khi đông về và tuyết xuống phủ đầy. Ngày lại ngày, êm dịu và xám ngắt. Sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói.

Tachiana quen dần cả với tỉnh lỵ và cả với ngôi nhà không phải của mình. Nàng đã quen với chiếc dương cầm lạc giọng, những tấm ảnh úa vàng trên tường chụp những thiết giáp hạm cổ lỗ bảo vệ bờ biển. Trước kia, cụ Pôtapốp làm thợ máy tàu biển. Trên cái bàn giấy phủ dạ xanh của cụ có đặt mô hình tuần dương hạm “Grômôbôi”, trên tàu đó cụ đã làm việc. Varia không được phép sờ vào mô hình ấy. Và nói chung, không được sờ vào bất cứ vật gì.

Tachiana biết cụ Patôpốp có con trai đang phục vụ trong hạm đội Hắc Hải. Trên bàn, bên cạnh mô hình tuần dương hạm, có bức ảnh của anh. Đôi lúc, Tachiana cầm bức ảnh lên ngắm nghía rồi nhíu đôi lông mày thanh thanh lại, nghĩ ngợi. Nàng cứ có cảm giác là đã gặp anh ở một nơi nào đó, nhưng đã lâu lắm rồi, trước cả cuộc hôn nhân không toại nguyện của nàng. Nhưng ở đâu ? Và khi nào nhỉ ?

Anh lính thủy nhìn nàng bằng đôi mắt bình thản hơi có vẻ chế nhạo, như muốn hỏi : “Thế nào chị ? Chẳng lẽ chị vẫn chưa nhớ ra là chúng ta đã gặp nhau ở đâu hay sao ?”.

- Không, tôi không nhớ. - nàng trả lời khe khẽ.

- Mẹ ơi, mẹ nói chuyện với ai thế ? - Varia từ phòng bên hỏi

- Với cái dương cầm con ạ, - Tachiana cười, đáp lại.

Vào giữa mùa đông bắt đầu có những lá thư do cùng một bàn tay viết gửi cho cụ Patôpốp, Tachiana xếp những lá thư ấy lại trên bàn. Một lần đang đêm nàng chợt thức giấc. Ánh tuyết mờ mờ chiếu vào cửa kính. Con mèo xám Ackhip của cụ Patôpốp để lại đang ngáy khò khò trên đi-văng.

Tachiana khoác áo choàng mỏng, vào phòng làm việc của cụ Patôpốp và đứng một lát bên cửa sổ. Một con chim lặng lẽ bay vụt ra khỏi cây làm tuyết đổ xuống. Tuyết bay như bụi trắng, phủ một lớp mỏng trên mặt kính.

Tachiana thắp ngọn nến trên bàn, ngồi xuống ghế bành và nhìn mãi ngọn nến. Ngọn nến cũng chả buồn lay động. Sau đó nàng thận trọng lấy ra một bức thư, bóc phong bì, nhìn chung quanh rồi bắt đầu đọc :
“Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh viện được một tháng - nàng đọc. - Vết thương không nặng lắm. Đại thể là nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy !”

“Con luôn nhớ đến cha, - Tachiana đọc tiếp, - đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lỵ của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời. Con nhắm mắt lại và thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống, nhưng còn đường dẫn tới phong đình bên dốc đã được quét dọn sạch sẽ, còn băng bụi phủ đầy những khóm tử đinh hương. Lò sưởi trong phòng kêu tí tách. Khói bạch dương thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những cây nến vàng hình xoắn ốc con mua từ Lêningrat vào những chân đèn. Và vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn ? Bản tự khúc của vở nhạc kịch “Con đầm Pích” và tình ca “Trên bờ cõi Tổ quốc xa xôi”. Không biết những quả chuông treo ở cửa có kêu không ? Thế là con vẫn chưa kịp chữa. Chả lẽ rồi con sẽ lại được gặp tất cả những cái đó ? Chả lẽ rồi con lại được lấy nước giếng trong bình mà rửa sạch bụi đường xa ? Cha nhớ không ? Ôi, nếu cha biết được rằng từ chốn xa xôi này con yêu mến tất cả những cái đó biết chừng nào ! Cha đừng ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật nghiêm túc rằng con nhớ đến những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh. Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì bờ cõi đất nước mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con : tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả những chú bé tóc bù xù trong làng ta, cả những cánh rừng bạch dương bên kia sông và cả con mèo Ackhip nữa. Xin cha đừng cười và đừng lắc đầu cha nhé.

Có thể khi ra viện con sẽ được về nhà ít lâu. Điều đó chưa chắc lắm. Tốt hơn là cha đừng đợi”.

Tachiana ngồi mãi bên bàn, mắt mở to nhìn qua cửa sổ, nơi bình minh bắt đầu hé lên trong màu xanh dày đặc, và nghĩ rằng rồi đây, ngày một ngày hai, một người không quen biết có thể từ mặt trận trở về ngôi nhà này và nguời đó sẽ đau khổ khi phải gặp những người xa lạ ở đây và phải trông thấy mọi vật hoàn toàn không giống như ý người đó muốn.

Sáng hôm sau, Tachiana sai Varia lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc. Cái lầu đã hoàn toàn cũ nát. Những cột gỗ mốc meo, rêu phủ đầy. Tachiana tự tay chữa quả chuông con trêu trên cửa. Trên chuông có một hàng chữ đúc đến buồn cười “Ta treo trên cửa - hãy giật cho vui !”. Tachiana đụng vào chuông, nó kêu lên lanh lảnh. Con mèo Ackhip khó chịu, ve vẩy đôi tai, rồi bực dọc đi ra khỏi nhà ; có lẽ nó cho tiếng chuông vui vẻ kia là càn rỡ.

Trưa hôm đó, Tachiana, má ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng thâm vì xúc động, từ ngoài phố về dắt theo một ông lão lên dây đàn, một người Tiệp đã Nga hóa. Ông lão làm nghề chữa đèn cồn, đèn dầu hỏa, búp bê, ắccoócđêông và lên dây đàn dương cầm. Ông lão có cái họ rất buồn cười : “Nêviđan” (của lạ). Sau khi lên dây đàn, ông già nói rằng chiếc đàn cũ nhưng rất tốt. Không cần ông nói Tachiana cũng biết.

Khi ông lão đã ra về, Tachiana cẩn thận lục khắpc các ngăn kéo bàn và tìm thấy một gói nến to hình xoắn ốc. Nàng cắm và các chân nến đặt trên dương cầm. Tối đến, nàng thắp nến, ngồi chơi đàn, và tiếng nhạc tràn ngập ngôi nhà.

Khi Tachiana ngừng chơi và tắt nến đi thì một làn khói thơm tỏa ra khắp các phòng như quanh cây thông ngày hội.

Varia không chịu được nữa.

- Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác ? - Nó nói với Tachiana. - Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng vào đủ mọi thứ ? Nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại đặt những bản nhạc của người ta lên trên dương cầm nữa.

- Vì mẹ là người lớn, - Tachiana trả lời.

Varia chau mày, ngờ vực nhìn mẹ. Lúc này Tachiana không giống người lớn một chút nào. Mặt nàng tươi hẳn lên và nom nàng giống cô gái tóc vàng đã đánh rơi chiếc hài pha lê trong hoàng cung. Chính Tachiana đã kể cho Varia nghe chuyện cô gái ấy.

* *
*
Ngồi trên tàu hỏa, trung úy Nikôlai Pôtapốp đã tính rằng anh chỉ có thể ở nhà với cha nhiều lắm là một ngày đêm. Hạn nghỉ phép thì ngắn mà đi đường đã chiếm gần hết thời gian.

Tàu hỏa tới thành phố vào ban ngày. Ngay tại nhà ga, trung úy được người quen làm trưởng ga cho biết cha anh đã mất một tháng và một nữ ca sĩ trẻ cùng đứa con gái đang ở nhà anh.

- Chị ta là người tản cư, - ông trưởng ga nói.

Nikôlai im lặng nhìn ra ngoài cửa kính, nơi những hành khách mặc áo bông, đi ủng dạ, tay cầm ấm nước, đang chạy. Anh thấy chóng mặt.

- Vâng, - ông trưởng ga nói. - Cụ nhà ta là người thật tốt bụng. Thế mà cụ chết đi không kịp gặp con trai.

- Bao giờ lại có tàu ra, thưa bác ? - Nikôlai hỏi.

- Năm giờ sáng mai, - ông lão nói, rồi im lặng một lát và nói tiếp. - Anh lại đàng tôi chơi. Bà lão nhà tôi sẽ pha trà, làm cơm anh ăn. Anh không phải về nhà nữa đâu.

- Cảm ơn bác, - Nikôlai trả lời và bước ra.

Ông trưởng ga nhìn theo, lắc đầu.

Nikôlai đi qua tỉnh lỵ về bờ sông. Phía trên là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ, bay chênh chếch giữa trời và đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên còn đường phân rác bẩn thỉu. Trời sẩm tối. Gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh chảy nước mắt.

“Làm sao được ! Nikôlai nói. - Chậm mất rồi ! Và giờ đây cái tỉnh lỵ này, cả con sông và ngôi nhà - mọi thứ đối với ta gần như xa lạ !”

Anh ngoảnh nhìn sườn đồi bên kia thành phố. Ở đó hiện lên lờ mờ ngôi nhà trong khu vườn tuyết phủ. Từ ống khói tỏa ra, khói bị gió cuốn về cánh rừng bạch dương.

Nikôlai thong thả bước về phía nhà mình. Anh định không vào nhà mà chỉ đi ngang thôi, cũng có thể, rẽ vào vườn đứng một lát trong cái lầu cũ kỹ. Thật khó chịu khi nghĩ rằng những người thờ ơ xa lạ đang ở trong ngôi nhà của cha anh. Tốt hơn là chẳng nhìn thấy gì hết để khỏi phải đau lòng, cứ đi đi và lãng quên dĩ vãng.

“Ờ, - Nikôlai nghĩ bụng, - con người mỗi ngày một trưởng thành, và nhìn sự vật chung quanh một cách nghiêm khắc hơn”.

Nikôlai về đến nhà khi trời tối. Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng nó vẫn kêu ken két. Mảnh vườn như giật mình. Tuyết đọng trên cành rơi xào xạc. Anh nhìn quanh. Trên con đường nhỏ dẫn tới phong đình, tuyết đã được dọn sạch. Nikôlai vào trong lầu, đặt hai tay lên cái lan can cũ kỹ. Đằng xa, bên kia rừng, bầu trời hồng lên mờ nhạt : có lẽ trăng đã lên sau những đám mây. Nikôlai cất mũ, lấy tay vuốt tóc. Chung quanh yên lặng, chỉ ở dưới chân đồi, mấy người đàn bà xách những chiếc xô rỗng kêu loảng xoảng đi đến lỗ băng lấy nước.

Anh chống cùi tay lên lan can nói khẽ :

- Có thể nào lại như thế ?

Có ai đó nhè nhẹ chạm vào vai anh. Nikôlai ngoảnh lại. Đằng sau anh là một thiếu phụ trẻ, có khuôn mặt xanh xao và nghiêm nghị, đầu trùm khăn len. Thiếu phụ nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm và chăm chú. Trên mi mắt và má nàng những bông tuyết tan dần. Có lẽ đó là tuyết trên cành rơi xuống.

- Anh đội mũ vào kẻo cảm lạnh đấy ! - Thiếu phụ nói khẽ - Mời anh vào nhà đi. Không nên đứng ở đây.

Nikôlai im lặng. Thiếu phụ nắm lấy tay áo của anh và dẫn anh theo con đường nhỏ đã dọn sạch. Đến bên thềm Nikôlai dừng lại. Xúc động làm anh nghẹn ngào, không sao thở được. Thiếu phụ vẫn nói khe khẽ :

- Không sao, xin anh đừng ngại vì chuyện tôi ở đây. Cảm giác đó sẽ qua ngay thôi.

Nàng giậm chân để rũ tuyết bám vào giày. Tức khắc quả chuông trong phòng mắt áo reo lên lanh lảnh đáp lại. Nikôlai thở dài thực mạnh, lấy hơi.

Anh bước vào nhà, vẻ bối rối, lẩm bẩm điều gì. Ở phòng ngoài, mới cởi áo choàng anh đã ngửi thấy mùi khói bạch dương thoang thoảng và nhìn thấy con mèo Ackhip. Nó ngồi ngáp dài trên đi-văng. Một cô bé tóc bím đứng bên đi-văng và nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng, nhưng không phải nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh.

- Vào đây, anh ! - Tachiana nói và dẫn anh vào bếp.

Trong bếp có bình nước giếng lạnh và treo một chiếc khăn vải lanh quen thuộc thêu hình những chiếc lá sồi.

Tachiana trở ra. Đứa con gái mang xà phòng cho Nikôlai và nhìn anh cởi áo, rửa mặt. Nỗi bối rối trong lòng anh vẫn chưa tan

- Mẹ cháu làm nghề gì vậy ? - Anh hỏi con bé và đỏ ửng mặt. Anh hỏi câu đó cho có hỏi mà thôi.
- Mẹ cháu tưởng mẹ cháu là người lớn. - Con bé thì thầm với một vẻ bí ẩn. - Nhưng mẹ cháu chẳng phải là người lớn tí nào. Mẹ cháu còn xoàng hơn cả cháu nữa kia.

- Tại sao vậy ? - anh hỏi.

Nhưng con bé không trả lời, nó cười, và chạy ra ngoài.

Suốt buổi tối, anh không sao xua đuổi được cái cảm giác kỳ lạ là đang sống trong giấc mộng nhẹ nhàng mà sâu lắng. Mọi vật trong nhà xếp đặt đúng theo ý anh muốn. Vẫn những bản nhạc ấy trên dương cầm, vẫn những cây nến hình xoắn ốc đang cháy, nổ tí tách và chiếu sáng phòng làm việc của cha anh. Cả những bức thư anh gửi từ bệnh viện về cũng nằm trên bàn, dưới chiếc địa bàn cũ mà ngày trước ông cụ vẫn thường dùng chặn lên thư.

Uống trà xong, Tachiana dẫn Nikôlai ra sau cánh rừng thăm mộ cha anh. Mặt trăng mờ mờ đã lên cao. Những cây bạch dương tỏa sáng yếu ớt trong ánh trăng ngả bóng nhẹ xuống tuyết.

Đêm đã khuya, Tachiana ngồi trước dương cầm, nhẹ nhàng lựa phím đàn, rồi ngoảnh lại nhìn Nikôlai và nói:

- Tôi cứ có cảm giác là tôi đã gặp anh ở đâu rồi.

- Vâng, cũng có lẽ, - anh đáp.

Nikôlai nhìn thiếu phụ. Ánh nến ở bên cạnh soi sáng nửa khuôn mặt nàng. Anh đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng rồi dừng lại.

- Không, tôi không nhớ ra được ! - Anh nói giọng trầm trầm.

Tachiana ngoảnh lại hốt hoảng nhìn Nikôlai nhưng không nói gì hết.

Nàng đã sửa soạn chỗ ngủ cho Nikôlai trên chiếc đi-văng trong phòng làm việc, nhưng anh không sao chợp mắt được. Mỗi phút trong ngôi nhà này đối với anh thực sự quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào. Anh nằm lắng nghe bước chân rón rén của con mèo Ackhip, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa đóng. Rồi những giọng nói im bặt, người vú già đã đi, những vệt sáng ở dưới cánh cửa vẫn không tắt. Anh nghe thấy các trang giấy loạt soạt : chắc Tachiana còn đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn nói với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.

Bốn giờ sáng, Tachiana khe khẽ mở cửa và gọi Nikôlai. Anh cựa mình.

- Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi, - nàng nói. - Tôi rất tiếc phải đánh thức anh.

Tachiana tiễn anh ra ga khi thành phố đang yên giấc. Sau hồi chuông thứ hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai tay cho Nikôlai và nói :
- Anh nhớ viết thư nhé ! Giờ đây chúng ta như là người thân. Phải không anh ?

Nikôlai không trả lời, anh chỉ gật đầu.

Mấy hôm sau, Tachiana nhận được một bức thư của Nikôlai viết ở dọc đường.

“Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp nhau ở đâu, - anh viết, - nhưng tôi không muốn nói với chị khi còn ở nhà. Chị có nhớ Krưm năm hăm bảy không ? Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ ở công viên Livađia. Trời u ám, biển nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Orêanđa. Trên chiếc ghế dài bên đường có một thiếu nữ đang ngồi. Cô ta chừng mười sáu tuổi. Trông thấy tôi, cô ta đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi đi ngang nhau, tôi liếc nhìn cô. Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở rộng. Tôi dừng lại, nhìn theo cô rất lâu. Thiếu nữ đó là chị. Tôi không thể nhầm được. Tôi nhìn theo chị và cảm thấy rằng có một người con gái vừa đi qua bên cạnh tôi, người đó có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc cho tôi. Tôi hiểu rằng mình có thể yêu người con gái ấy đến quên cả thân mình. Lúc đó tôi đã biết rằng phải tìm được chị dù phải trả bằng giá nào. Tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn đứng lì tại chỗ. Vì sao - tôi chẳng biết. Từ ngày ấy tôi yêu Krưm và con đường nhỏ, nơi tôi đã gặp chị trong giây lát và mất chị vĩnh viễn. Nhưng cuộc đời đã thương tôi và tôi lại được gặp chị. Nếu mọi việc ổn thỏa và chị cần đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của chị. À, tôi đã thấy bức thư của tôi bị bóc ra để trên bàn. Tôi đã hiểu tất cả và chỉ biết cảm ơn chị từ nơi xa này”.

Tachiana đặt lá thư xuống, đôi mắt mơ màng nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn tuyết phủ, đoạn thốt lên :

- Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu ? Chưa bao giờ ! Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng ? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì ? Và cả mình nữa !

Nàng cười, đưa tay lên che mắt. Ngoài cửa sổ ánh tà dương mờ nhạt vẫn tỏa sáng, mãi không sao tắt được.


Lấy từ www.ttvnol.com. Typed by maple.

------------

Thật không thể tin là mình may mắn thế, lang thang trong một rừng tác phẩm văn học và nhìn thấy truyện của Pau, do những người yêu Pau gõ và gửi lên vậy. Fan của Pau vẫn còn nhiều lắm :)
 
CHIẾC NHẪN BẰNG THÉP

Cụ Kuzma sống với cháu gái Varusa ở làng Môkhôvôje sát tận bìa rừng.

Mùa đông đến thật khắc nghiệt, gió mạnh và tuyết nhiều. Suốt cả mùa đông không có một ngày ấm lên, không có những giọt nước tuyết tan lã chã từ mái nhà gỗ nhỏ xuống. Đêm đến những con chó sói lạnh cóng hú vu vơ. Cụ Kuzma bảo chúng rú vì ghen tị với người : chó sói cũng thèm được sống ở trong nhà, được nằm gãi bên lò sưởi và sưởi ấm bộ lông xù cứng lạnh.

Vào giữa đông, thuốc hút của cụ cạn hết. Cụ ho nhiều, than phiền rằng người không được khỏe và bảo nếu được kéo vài hơi thì người sẽ khá lên ngay.

Chủ nhật, Varusa sang làng Pêreborư bên cạnh kiếm thuốc hút cho ông. Đường sắt chạy qua bên rìa làng. Varusa mua thuốc xong, cho vào cái túi vải hoa buộc lại rồi ra ga xem xe lửa. Ít khi chúng dừng lại ở Pereborư. Hầu như bao giờ chúng cũng chỉ phóng qua với tiếng ầm ầm rin rít.

Có hai chiến sĩ ngồi trên sân ga. Một người để râu có đôi mắt xám vui vẻ. Tiếng còi tàu rúc lên và đã thấy nó tỏa hơi nước mù mịt, phăng phăng lao tới ga từ khu rừng đen sẫm.

- Tàu tốc hành ! - Chú chiến sĩ để râu nói. - Cháu gái coi chừng kẻo tàu nó thổi bay đấy. Khéo lại bay lên trời !

Con tàu trên đà lao vào ga. Tuyết bay tung làm mờ cả mắt. Rồi những bánh xe xình xịch nối nhau chạy tới. Varusa ôm lấy cột đèn và nhắm mắt lại : coi chừng kẻo nó bị cuốn bồng lên khỏi mặt đất và hút theo con tàu thực.

Khi con tàu đã phóng qua, bụi tuyết còn quay cuồng trong không khí rồi đậu xuống đất, chú chiến sĩ có râu hỏi Varusa :

- Túi cháu đựng gì đấy ? Có phải thuốc lá không ?

- Thuốc đấy ạ. - Varusa trả lời.

- Bán cho chú nhé ! Đang thèm hút quá !

- Ông Kuzma cháu không cho bán. - Cô bé nghiêm nghị trả lời. - Cái này chữa ho cho ông cháu.

- Ồ, cái bông hoa đi ủng dạ này, nghiêm quá nhỉ !

- Thế chú cần chừng nào chú cứ lấy, - Varusa nói và chìa cái túi. - Chú hút đi !

Chú chiến sĩ bỏ vào túi ít thuốc lá vụn, cuộn một điếu to hút, rồi lấy tay nâng cằm Varusa vừa cười vừa nhìn vào cặp mắt xanh biếc của cô bé.

- Ôi, bông hoa tử la tết đuôi sam ! Chú biết tặng lại cháu gì bây giờ ? Chả lẽ cái này à ?

Chú chiến sĩ lấy từ trong túi áo khoác chiếc nhẫn nhỏ bằng thép, thổi vụn thuốc và muối bám vào chiếc nhẫn rồi đeo vào ngón tay giữa cho Varusa :

- Cháu đeo cho mạnh giỏi. Chiếc nhẫn này tuyệt lắm. Trông này, sáng bóng nhé !

- Nó tuyệt thế nào hở chú ? - Varusa đỏ mặt lên hỏi.

- Thế này này, - chú bộ đội trả lời, - nếu cháu đeo ở ngón giữa nó sẽ mang lại sức khỏe, cả cho cháu và ông Kuzma. Nếu đeo nó vào ngón này, ngón vô danh, - chú bộ đội kéo ngón tay đỏ ửng giá lạnh của Varusa, - cháu sẽ có niềm vui lớn. Hoặc giả thử cháu muốn xem thế gian này với mọi điều kỳ diệu của nó thì cháu đeo nhẫn vào ngón trỏ. Nhất định cháu sẽ thấy hết.

- Thế ư ? - Varusa hỏi.

- Cháu cứ tin chú ấy, - anh chiến sĩ mặc áo khoác cổ bẻ ngược lên nói. - Chú ấy biết làm phép đấy. Cháu nghe nói vậy chưa ?

- Cháu nghe rồi ạ.

- Thế đấy. - Anh chiến sĩ cười, - Chú ấy là lính công binh kỳ cựu. Đến mìn còn phải kiềng chú ấy đấy.

- Cảm ơn chú, - Varusa nói rồi chạy về làng Mokhôvoje.

Gió cuốn tuyết rơi mù mịt. Varusa cứ sờ vào chiếc nhẫn mãi, xoay đi xoay lại, nhìn nó lấp lánh trong ánh sáng mùa đông.

- Chú bộ đội lại quên không nói đến ngón tay út rồi ! - cô bé nghĩ, - Nếu đeo thì sao ? Mình thử đeo vào ngón út xem nào.

Nó đeo nhẫn vào ngón tay út. Ngón tay gầy gò, chiếc nhẫn lỏng quá nên rơi xuống lớp tuyết dày và biến ngay tận dưới đáy.

Varusa kêu ôi một tiếng rồi lấy tay bới tuyết. Nhưng không thấy chiếc nhẫn. Những ngón tay đã tím ngắt lại, cứng queo vì rét đến nỗi không gập lại được nữa.

Varusa khóc òa. Mất chiếc nhẫn rồi ! Nghĩa là rồi đây ông Kuzma sẽ không khỏe, còn nó sẽ không có niềm vui lớn và không được nhìn thấy thế gian với bao điều kỳ diệu của nó. Varusa cắm một cành thông già xuống tuyết, đúng chỗ chiếc nhẫn rơi và đi về nhà. Nó lấy bao tay chùi nước mắt, nhưng nước mắt cứ trào ra và đông lại làm mắt đau nhức nhối.

Ông Kuzma thấy thuốc về mừng rỡ hút khói ra đầy nhà, còn chuyện chiếc nhẫn ông nói :

- Cháu đừng buồn, con bé ngốc nghếch ạ ! Nó rơi đâu thì vẫn nguyên đấy. Bảo với Xiđơrơ. Nó ắt tìm thấy.

Con sẻ già Xiđơrơ đậu trên chiếc sào đang ngủ, mình tròn như quả bóng nhỏ. Suốt mùa đông Xiđơrơ sống trong nhà ông Kuzma đàng hoàng như chủ nhân. Nó không những bắt Varusa phải nể nó mà cả ông Kuzma nữa. Nó mổ cháo đặc ngay trong bát, còn bánh thì giật lấy từ tay người. Khi người ta xua đuổi nó thì nó phật ý, xù lông ra, bắt đầu gây gổ, kêu ríu rít giận dỗi đến nỗi những con chim sẻ ở gần đấy thấy ồn cũng bay đến, nghe ngóng rồi sau đó bàn cãi ầm ĩ, chê trách Xiđơrơ. Được sống trong nhà, được no ấm mà vẫn cho là còn ít !

Hôm sau Varusa bắt con Xiđơrơ gói vào chiếc khăn tay mang vào rừng. Từ dưới tuyết chỉ nhô lên chút đầu của cành thông. Varusa đặt con sẻ lên cành cây và bảo :

- Tìm đi, cào bới đi ! Có khi mày thấy đấy !

Nhưng Xiđơrơ liếc mắt, nhìn tuyết nghi ngờ và kêu chiêm chiếp :

- Khiếp, khiếp ! Có tìm được thằng ngốc !

- Khiếp, khiếp ! - Xiđơrơ láy lại rồi vù khỏi cành cây bay vào nhà.

Thế là không tìm thấy cái nhẫn.

Ông Kuzma ngày càng ho nhiều hơn. Sang tháng ba cụ leo lên bếp lò nằm, gần như không rời khỏi nơi ấy, và cứ đòi uống nước luôn. Varusa đưa nước lạnh trong gáo sắt cho cụ uống.

Bão tuyết quay cuồng trên xóm nhỏ, phủ lên các mái nhà. Những cây thông ngập tuyết đến ngang đầu gối, và thế là Varusa không thể tìm ra nơi chiếc nhẫn rơi ở trong rừng. Nó thường hay nấp đằng sau bếp lò khóc khe khẽ vì thương ông và trách mình.

- Đồ ăn hại ! - Nó thì thầm, - Nghịch quá để đánh rơi mất chiếc nhẫn. Thật đáng đánh lắm ! Đáng lắm !

Nó tự đấm vào đầu để phạt mình. Cụ Kuzma bèn hỏi :

- Cháu đang cãi nhau với ai đấy ?

- Dạ, với Xiđơrơ, - Varusa trả lời. - Nó không nghe lời. Chỉ muốn gây sự thôi.

Một buổi sáng Varusa thức dậy vì Xiđơrơ nhảy nhót ở bâu jcửa sổ mổ mổ vào mặt kính. Varusa mở mắt ra rồi nheo mắt lại. Từ trên mái nhà những hạt nước dài đua nhau chảy xuống. Ánh sáng nóng hổi rọi vào cửa kính. Những con quạ kêu quàng quạc.
Varusa bước ra đường. Gió ấm thổi vào mắt em, làm tóc bay lòa xòa.

- Ô, mùa xuân đến rồi ! Varusa nói.

Những cành cây đen nhấp nhoáng, tuyết ướt lao xao trượt từ trên mái nhà xuống. Rừng ẩm ướt rì rào vui vẻ và trang trọng ở sau làng. Mùa xuân lướt trên đồng ruộng như một bà chủ trẻ tuổi. Nó chỉ vừa nhìn xuống rãnh lạch là đã thấy con suối lấp lánh chảy róc rách. Mùa xuân trải bước và mỗi bước đi làm cho suối reo càng tưng bừng nhộn nhịp hơn.

Tuyết trong rừng đã sẫm lại. Đầu tiên lộ ra những lá thông nâu rơi rụng trong mùa đông. Sau đó là nhiều cành khô - bão đã bẻ gãy từ hồi tháng chạp. Sau đó là đám lá vàng rơi từ năm ngoái rồi đất sạch tuyết nhô lên. Và bên rìa những đống tuyết muộn đã nở những bông hoa khoản đông đầu tiên.

Varusa tìm thấy trong rừng cành thông già - cái cành mà nó đã cắm xuống tuyết nơi đánh rơi chiếc nhẫn, và thận trọng gạt đám lá cũ, những quả thông rỗng do chim gõ kiến vứt bừa bãi, những cành gãy và rêu mục. Dưới một chiếc lá đen lóe lên một đóm sáng. Verusa reo lên, rồi ngồi xuống. - Nó đây rồi, chiếc nhẫn bằng thép ! Nó không gỉ đi chút nào.

Varusa chộp lấy chiếc nhẫn đeo vào ngón tay giữa và chạy về nhà !

Ngày từ xa khi chạy gần tới nhà, nó trông thấy cụ Kazma. Cụ ra khỏi nhà ngồi trên thềm, khói thuốc màu lam tỏa trên người cụ, bốc lên trời tựa như cụ đang ngồi hóng dưới mặt trời mùa xuân và hơi nước đang bay trên người cụ.

- Này cháu ơi, - ông già nói, - cháu cứ như cái chong chóng ấy, ra khỏi nhà quên cả đóng cửa, gió nhẹ thổi ùa vào phòng thế là làm ông hết cả bệnh. Bây giờ ông hút thuốc một lát, rồi lấy cái rìu chẻ ít củi, ta nhóm lò làm một mẻ bánh ăn chơi.

Varusa cười phá lên, vuốt mớ tóc bạc xù xù của ông cụ và bảo :

- Cảm ơn chiếc nhẫn ! Nó đã làm cho ông khỏe đấy, ông ạ.

Cả ngày Varusa đeo chiếc nhẫn ở ngón giữa để làm cho ông được khỏe hẳn. Mãi đến tối khi sửa soạn đi ngủ nó mới tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón giữa và đeo vào ngón vô danh. Sau đó ắt phải có một niềm vui lớn. Nhưng sao nó mãi không đến. Varusa không đợi được nữa ngủ thiếp đi.

Em dậy rất sớm, mặc quần áo, đi ra khỏi nhà.

Ánh dương ấm áp lặng lẽ tỏa trên mặt đất. Ở phía cuối trời còn mấy ngôi sao chưa tắt. Varusa đi về phía rừng. Em dừng lại bên bìa rừng : cái gì kia ngân vang trong rừng như ai đó đang lắc những quả chuông nhỏ ?

Varusa cúi xuống nghe ngóng rồi vung tay mừng rỡ - những bông hoa điểm tuyết trắng rung rinh chào đón bình minh, mỗi bông đều ngân nga như trong đó có một con bọ dừa đang đập chân vào mạng nhên bằng bạc. Trên ngọn thông con gõ kiến gõ năm tiếng.

“Năm giờ ! - Varusa nghĩ. - Sớm quá ! Yên tĩnh quá !”

Ngay lúc đó trên cành cao, con vàng anh - con chim Lửa của chúng ta - cất tiếng hót.

Varusa đứng nghe, miệng mỉm cười. Một làn gió ấm hiền hòa thổi ào vào người nó, bên cạnh có cái gì xào xạc. Rừng rung động, từ những chùm hoa bồ đào phấn vàng rơi xuống. Ai đó vô hình thận trọng rẽ cành cây đi lướt qua Varusa. Phía trước con chim cu cất tiếng gáy chào mừng người ấy.

“ Ai vừa đi qua nhỉ ? Thế mà mình không nhìn thấy”. - Varusa nghĩ.

Em không biết rằng mùa xuân vừa đi qua.

Varusa cười rộ vang cả khu rừng và chạy về nhà. Và một niềm vui lớn - lớn không thể ôm xuể được - rộn ràng reo vui trong lòng em.

Mùa xuân mỗi ngày một bừng sáng tươi vui và rực rỡ hơn. Bầu trời chan hòa ánh sáng khiến mắt cụ Kuzma nheo lại mà vẫn luôn luôn tươi. Rồi liền đó muôn ngàn đóa hoa nở rộ trong rừng, trên đồng cỏ và các khe mương như có ai rắc lên đó một thứ nước thần.

Varusa định đeo chiếc nhẫn sang ngón trỏ để được nhìn thế giới với bao điều kỳ diệu của nó, nhưng nhìn những bông hoa ấy, những nõn lộc cây bạch dương, bầu trời trong vắt và ánh nắng ấm áp, nghe gà gáy, nước róc rách và chim hót véo von ngoài đồng, em không đeo nhẫn vào ngón trỏ nữa.

“Mình còn kịp, - em nghĩ. - Không ở đâu trên thế gian có thể đẹp bằng làng Môkhôvôje của mình. Thật là tuyệt vời ! Không phải vô cớ ông Kuzma bảo rằng quê mình là thiên đường thực sự và chẳng còn mảnh đất nào tuyệt vời như vậy trên trái đất này”.


Lấy từ www.ttvnol.com. Typed by maple.
 
CHUYẾN XE ĐÊM

Tôi muốn viết hẳn một chương riêng về sức mạnh của trí tưởng tượng và ảnh hưởng của nó tới đời sống của chúng ta. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã viết thay vào đó một truyện ngắn về nhà thơ Anđecxen. Tôi nghĩ rằng truyện ngắn này có thể thay thế chương sách định viết và làm cho ta hình dung trí tưởng tượng còn rõ hơn là những câu chuyện chung chung về đề tài này”.

Trong cái khách sạn bẩn thỉu và cũ kỹ ở thành Vơnidơ không bói đâu ra mực, mà ở đây có mực để làm gì cơ chứ ? Để viết phiếu thanh toán quá giá cho khách trọ chăng ?

Thật ra, khi Anđecxen mới đến khách sạn thì trong cái bình mực bằng thiếc vẫn còn một ít. Chàng dùng mực ấy viết một câu chuyện cổ tích. Nhưng câu chuyện mỗi lúc một nhợt nhạt trông thấy bởi Anđecxen đã mấy lần pha thêm nước lã vào mực. Thế là chàng không viết hết được câu chuyện - cái đoạn kết vui vẻ của nó còn nằm lại ở đáy lọ.

Anđecxen tủm tỉm cười và quyết định sẽ đặt tên cho câu chuyện cổ tích sau là “Câu chuyện còn nằm dưới đáy bình mực cạn”.

Chàng yêu mến Vơnidơ và đặt tên cho nó là “Bông sen tàn”.

Mây mùa thu thấp lè tè cuồn cuộn trên mặt biển. Nước hôi hám vỗ óc ách trên dòng kênh. Gió lạnh thổi trên các ngã ba, ngã tư đường phố. Nhưng khi mặt trời ló ra thì màu đá hồng nổi lên từ dưới đám rêu xanh và ngoài cửa sổ, cả thành phố hiện ra như một bức tranh của Kanalettô, nhà danh họa già người Vơnidơ.

Quả vậy, Vơnidơ tuy hơi buồn nhưng thật là đẹp. Song, đã đến lúc phải xa nó để đi tới những thành phố khác.

Vì thế mà Anđecxen đã chẳng luyến tiếc bao nhiêu khi bảo gã bồi phòng đi mùa vé cho chuyến xe đêm sang Vêrôn.

Gã bồi phòng thật xứng với cái khách sạn - anh ta lười biếng, lúc nào cũng ngà ngà say, hay ăn cắp vặt nhưng có bộ mặt hồn nhiên cởi mở. Gã chưa hề dọn phòng cho Anđecxen lần nào, đến nỗi có việc quét cái sàn đá thôi gã cũng chẳng làm.

Từ những màn cửa bằng nhung đỏ mối bay ra trong giống những đàn ong vàng óng. Muốn rửa mặt phải dùng cái chậu sứ rạn có hình những cô gái đang tắm. Cây đèn dầu đã gãy. Thay vào đó người ta đặt trên bàn một chân nến nặng nề bằng bạc trên còn một mẩu nến mỡ lợn cháy dở. Có lẽ từ thời Tiziano người ta chưa hề lau rửa cho nó.

Từ tầng một, nơi có quán rượu rẻ tiền, xông lên mùi thịt cừu rán và mùi tỏi. Những người đàn bà trẻ bận áo lót nhưng xơ xác buộc lỏng lẻo bằng những dải băng đứt, suốt ngày cười oang oang và gây lộn với nhau.

Đôi khi họ đánh nhau, giằng kéo, túm lấy tóc nhau. Những lúc ấy nếu Anđecxen đi qua đám đánh nhau thì chàng dừng lại và thán phục nhìn những mái tóc rối tung, những bộ mặt đỏ gay vì tức giận và những cặp mắt long lên khao khát trả thù.

Nhưng đáng yêu hơn cả tất nhiên vẫn là những giọt nước mắt tức giận trào ra và chảy trên gò má như những hạt kim cương.

Khi thấy chàng, họ dịu đi, ngượng ngùng trước cái ông khách gầy còm và lịch sự có cái mũi thanh tú. Họ tưởng chàng là một nhà ảo thuật vãng lai, mặc dầu họ vẫn kính nể gọi chàng là “xinho thi sĩ”. Theo hiểu biết của họ chàng là một nhà thơ kỳ dị, thiếu nhiệt huyết. Chàng không hát theo dây đàn lục huyền những khúc thuyền ca làm tan nát lòng người và không mê hết người đàn bà này đến người đàn bà khác. Chỉ có một lần chàng rút ở khuyết áo ra một bông hồng đỏ thắm rồi tặng cho cô bé rửa bát xấu xí nhất bọn. Hơn nữa cô ta lại thọt, đi lắc lư như vịt.

Khi gã bồi phòng đi rồi, Anđecxen chạy lại gần cửa sổ, hé mở tấm màn nặng nền và trông thấy gã vừa đi vừa huýt sáo dọc bờ kênh. Gã đứng lại hồi lâu trên chiếc cầu cong và chăm chú nhổ vào cái vỏ trứng rỗng trôi lềnh bềnh dưới chân cầu.
Cuối cùng gã nhổ trúng vào chiếc vỏ trứng chìm nghỉm. Đoạn gã lại gần chú bé đội chiếc mũ dạ rách. Chú bé đang câu cá. Gã bồi ngồi xuống một bên, ngây dại nhìn chằm chằm vào chiếc phao và chờ xem có con cá lang thang nào cắn không.

- Trời ! - Anđecxen tuyệt vọng kêu lên - Chả lẽ hôm nay mình không đi được vì cái thằng đần độn này ư ?

Anđecxen mở toang cửa sổ ra. Tiếng kính cửa rung mạnh đến nỗi gã bồi phòng nghe thấy và ngẩng đầu lên. Anđecxen giơ hai tay lên trời phẫn nộ lắc lắc hai quả đấm.

Gã bồi phòng giật chiếc mũ của thằng bé, hoan hỉ giơ chiếc mũ vẫy Anđecxen rồi chụp lên đầu thằng bé và nhảy lên, biến mất vào một góc phố nhỏ.

Anđecxen phá lên cười. Chàng không tức giận chút nào. Thậm chí những chuyện ngộ nghĩnh vặt vãnh như thế càng làm cho thú say mê du lịch trong người chàng mỗi ngày một mạnh thêm.

Du lịch bao giờ cũng hứa hẹn những điều bất ngờ. Ai mà biết trước được lúc nào sẽ có cái nhìn hóm hỉnh của người đàn bà ánh lên trong khóe mắt, lúc nào những ngọn tháp của một thành phố không quen biết sẽ hiện ra ở đằng xa, và cột buồm của những con tàu lớn sẽ nghiêng ngả ở chân trời, những vần thơ nào sẽ đến với ta trước cảnh cơn giông gầm thét trên dãy núi Anpơ, và giọng ai sẽ hát cho ta nghe, như tiếng nhạc ngựa đường xa, bài hát về một cuộc tình duyên dang dở.

Gã bồi phòng mang tấm vé xe về nhưng không trả lại tiền thừa, Anđecxen túm lấy cổ gã và lịch sự tống ra ngoài hành lang. Ở đó chàng bông đùa đập nhẹ lên gáy gã một cái và gã bồi phòng liền phóng thẳng xuống cái cầu thang ọp ẹp, nhảy cách bậc và hát ầm ĩ.

* *
*

Xe vừa đi khỏi Vơnidơ thì trời bắt đầu mưa lâm thâm. Đêm tối hạ xuống đầm lầy.

Người đánh xe nói rằng chính quỷ vương đã bày ra chuyện bắt xe từ Vơnidơ đến Vêrôn phải đi đêm hôm thế này.

Hành khách không trả lời. Người đánh xe im lặng rồi giận dữ nhổ bọt và báo trước để hành khách biết rằng ngoài mẩu nến tàn trong cái đèn bằng sắt tây không còn một cây nến nào hết.

Không ai chú ý đến chuyện đó. Người đánh xe bèn tỏ vẻ hoài nghi về đầu óc minh mẫn của khách trên xe và nói thêm rằng Vêrôn là một chốn hang cùng, người đứng đắn không ai đến đó làm gì.

Hành khách biết gã nói bậy nhưng chẳng ai buồn phản đối.

Trên xe cả thảy có ba người : Anđecxen, một linh mục đã có tuổi, vẻ mặt cau có, và một thiếu phụ mặc áo choàng màu sẫm. Anđecxen có cảm giác như thiếu phụ lúc thì trẻ, lúc thì già, lúc đẹp, lúc xấu. Tất cả cái đó là do ánh lửa lập lòe của ngọn nến tạo nên.

- Hay là ta tắt nó đi ? - Anđecxen hỏi. - Giờ cũng chẳng cần đến nó. Rồi đến lúc lại chẳng có gì mà thắp.

- Đây là một ý nghĩ không bao giờ có thể có trong đầu một người Ý ! - linh mục kêu lên.

- Tại sạo vậy ?

- Người Ý không biết phòng trước cái gì hết. Họ sực nhớ ra và kêu la ầm ĩ khi đã chẳng còn cách nào cứu vãn.

- Thưa cha, - Anđecxen hỏi, - vậy thì chắc cha không phải là người của dân tộc nhẹ dạ ấy ?

- Tôi là người Áo ! - linh mục trả lời giận dữ.

Câu chuyện ngừng bặt, Anđecxen thổi tắt ngọn nến. Một lát sau thiếu phụ lên tiếng:

- Ở cái cùng này của nước Ý đi đêm không đèn lại hay cơ đấy.

- Dù thế nào thì tiếng bánh xe cũng làm chúng ta bị lộ - linh mục phản đối và nói thêm. - Đàn bà đi đường xa lẽ ra phải có người nhà đi hộ tống.

- Người hộ tống của tôi - thiếu phụ trẻ trả lời và cười hóm hỉnh - ngồi bên tôi đó.

Thiếu phụ muốn nói Anđecxen. Chàng liền ngả mũ cảm ơn người bạn đồng hành.

Ngọn nến vừa tắt thì tiếng động và mùi vị xông lên càng mạnh, như thể chúng mừng rỡ vì đối thủ của mình đã biến mất. Tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe lạo xạo lăn trên sỏi, tiếng nhịp xe cọt kẹt và tiếng mưa vỗ lộp bộp vào mui xe nghe càng to. Mùi cỏ ẩm ướt va mùi bãi lầy lọt vào cửa xe cũng đâm thêm.

- Lạ thật ! - Anđecxen nói - Ở Ý, tôi đinh ninh sẽ được thấy mùi rừng cam chanh, hóa ra lại gặp cái khí trời đát nước phương bắc của tôi.

- Sắp khác rồi, ông ạ, - thiếu phụ nói. - Xe đang lên đồi. Trên kia khí trời ấm hơn.

- Ngựa đi bước một. Quả thực xe đang lên một quả đồi thoai thoải.

Nhưng đêm không vì thế mà sáng hơn. Trái lại, hai bên đường kéo dài những hàng du cổ thụ, dưới cành lá lòa xòa bóng tối càng dày đặc hơn và âm thầm hơn, thoáng nghe thấy tiếng mưa rì rào trên lá.

Anđecxen hạ cửa xuống. Một cành du ngó vào xe. Anđecxen bứt vài chiếc lá làm kỷ niệm.

Giống như nhiều người giàu trí tưởng tượng, chàng say mê thu lượm đủ mọi thứ lặt vặt trong những chuyến đi. Nhưng những cái lặt vặt ấy có một đặc tính : chúng làm sống lại dĩ vãng, tái tạo cái trạng thái mà Anđecxen đã trải qua đúng lúc chàng nhặt một mảnh vỡ của bức khảm, một chiếc lá du hay móng sắt nhỏ của một con lừa nào đó.

- Đêm rồi ! - Anđecxen tự nhủ.

Lúc này chàng thích màn đêm hơn là ánh sáng mặt trời. Bóng tối cho phép ta yên tĩnh suy nghĩ về mọi thứ trên đời. Và khi chàng nghĩ chán rồi thì nó giúp chàng tưởng tượng ra mọi thứ chuyện trong đó nhân vật chính là bản thân chàng.

Trong những câu chuyện đó Anđecxen bao giờ cũng hình dung là mình đẹp trai, trẻ trung, hoạt bát. Chàng hào hiệp tung ra quanh mình những lời nói làm say sưa lòng người, những lời mà các nhà phê bình đa cảm gọi là “hoa thơ”.

Thực ra chàng rất xấu trai và hiểu rõ điều đó. Chàng cao ngổng và nhút nhát. Tay chân chàng lòng thòng như tay chân con rối treo trên sợi dây. Những con rối mà ở tổ quốc chàng trẻ con gọi là “hampenman”.

Với những đặc tính như thế chẳng có hy vọng gì được phụ nữ chú ý. Nhưng mỗi lần những thiếu phụ đi qua mặt chàng như qua cái cột đèn thì lòng chàng lại nhói lên vì hờn tủi.

Anđecxen thiu thiu ngủ.

Khi tỉnh lại thì trước tiên chàng nhìn thấy một ngôi sao lớn màu lá mạ. Nó sáng rực ngay sát mặt đất. Đêm chừng đã khuya. Xe đã dừng lại. Ở bên ngoài có tiếng nói lao xao. Anđecxen lắng tai nghe. Người đánh xe đang mặc cả với mấy cô gái vừa gọi xe đỗ lại giữa đường.

Những giọng nói của các cô gái cứ ngọt lịm và giòn vang đến nỗi cái cuộc mặc cả du dương ấy giống như khúc ngâm của một vở ca kịch cổ.

Người đánh xe không bằng lòng chở họ tới một thị trấn chắc là rất nhỏ bé nào đó với giá tiền họ trả. Các cô gái nhao nhao nói rằng ba người đã góp cả lại và họ không còn tiền nữa.

- Thôi được ! Ađecxen bảo người đánh x e – Tôi sẽ trả nốt số tiền thiếu mà anh đã càn rỡ đòi họ. Tôi sẽ thêm nữa nếu như anh thôi không ăn nói thô lỗ với khách và tán dóc.

- Thôi được, mời các quý nương lên, - người đánh xe nói với các cô gái. – Hãy cảm ơn Đức mẹ đã dun dủi cho các cô gặp cái ông hoàng ngoại quốc coi tiền như rác này. Ông ấy chẳng qua không muốn xe phải đậu lại vì các cô, thế thôi. Chứ ông ấy báu các cô lắm đấy !

- Giê su, lạy chúa tôi ! – Nhà tu hành rên rỉ.

- Các cô lại đây ngồi gần tôi cho ấm, - thiếu phụ nói.

Mấy cô gái chuyền cho nhau đồ đạc, rì rầm bàn tán và lên xe, chào mọi người, bẽn lẽn cám ơn Anđecxen rồi ngồi xuồng và im lặng.

Họ mang theo lên xe mùi pho mát sữa cừu và mùi bạc hà. Anđecxen lờ mờ trông thấy các hạt thủy tinh lấp lánh trong những đôi hoa tai rẻ tiền của các cô gái.

Xe đi. sỏi lạo xạo dưới bánh. Các cô gái bắt đầu thì thầm nói chuyện.

- Họ muốn biết ông là ai, - thiếu phụ lên tiếng và Anđecxen đoán rằng nàng đang cười diễu trong bóng tối. – Có thật là một ông hoàng ngoại quốc không ? Hay chỉ là một du khách kiểm lâm bình thường ?

- Tôi là nhà tiên tri, - không đắn đo, Anđecxen đáp. – Tôi biết tiên đoán tương lai và nhìn rõ trong bóng tối. Nhưng tôi không phải là một tên bịp bợm. Và, có lẽ tôi là một thứ ông hoàng nghèo ở cái xứ sở của Hamlet đã sống ngày xưa.

- Thế cái gì ông có thể nhìn thấy trong đêm tối thế này ? - một cô gái ngạc nhiên hỏi.

- Như cô chẳng hạn, - Anđecxen trả lời. – Tôi thấy cô rõ đến nỗi lòng tôi đã mê say trước vẻ kiều diễm của cô.

Chàng nói điều đó và cảm thấy mặt mình lạnh toát. Cái trạng thái mà chàng thường trải qua mõi lần sáng tác thơ hoặc truyện cổ tích đã đến gần.

Trong trạng thái ấy hòa hợp lại nỗi ưu tư nhẹ nhàng, những suối từ không hiểu từ đâu đến và cảm giác bất ngờ về sức mạnh của của thơ ca, về quyền lực của mình đối với trái tim người đời.

Giống như trong một câu chuyện chàng viết, nắp chiếc rương thần cũ kỹ bỗng bật mở ầm một cái. Trong chiếc rương đó giấu kín những ý nghĩ chưa thốt thành lời, những tình cảm còn ngủ yên và tất cả sự mê hoặc của trái đất - mọi màu sắc và âm thanh, những làn gió ngát hương và biển cả bao la, tiếng ồn ào của rừng, những dằn vặt của tình yêu và tiếng líu lo của con trẻ.

Anđecxen không biết gọi trạng thái ấy là gì. Một số gọi đó là cảm hứng, số khác gọi là sự phấn chấn, số khác nữa gọi là tài ứng tác.

- Tôi tỉnh giấc và nghe thấy giọng các cô nói trong đêm, - im lặng một lát, chàng điềm đạm nói. – Các cô gái xinh đẹp ơi, như thế cũng đủ để cho tôi quen biết các cô và còn hơn thế nữa, để yêu các cô như những cô em gái thỉnh thoảng mới gặp mặt. Tôi nhìn thấy các cô rõ lắm. Chẳng hạn như cô, cô con giái có mái tóc vàng nhẹ bỗng. Cô là cô gái hay cười khanh khách và cô yêu hết thảy mọi vật đến nỗi những con sau trong rừng cũng sà xuống đậu trên vai cô khi cô vun xới trong vườn.

- Ôi, Nicôlina, ông ấy nói đằng ấy đấy ! - Một cô gái lớn tiếng thì thào.

- Cô có một trái tim sôi nổi, cô Nicôlina ạ, - Anđecxen vẫn điềm đạm nói tiếp. - Nếu như chẳng may có chuyện không lành xảy ra với người yêu của cô, cô sẽ chẳng đắn đo suy nghĩ vượt qua ngàn dặm núi tuyết và sa mạc để gặp mặt và cứu chàng. Tôi nói đúng không nào ?

- Vâng, em sẽ đi thật… - Nicôlina bối rối, ấp úng. - Nếu ông đã nghĩ như thế.

- Các cô tên là gì ? – Anđecxen hỏi.

- Chúng em là Nicôlina, Maria và Anna, - một cô trong bọn sốt sắng trả lời thay các bạn.

- Cô Maria ạ, đáng ra tôi không muốn nói về sắc đẹp của cô. Tôi nói tiếng Ý không thạo. Nhưng từ lúc thiếu thời tôi đã nguyện với Nàng Thơ sẽ ca tụng sắc đẹp ở bất cứ nơi nào tôi được gặp.

- Lạy Chúa tôi ! - vị linh mục nói khẽ. – Ông ta bị nhện độc cắn rồi. Ông ta đã hóa rồ.

- Có những người đàn bà quả là đẹp mê hồn. Phần nhiều họ là những người bản tính kín đáo. Họ sống với niềm đam mê cháy bỏng trong lòng, không thổ lộ với ai. Niềm mê say đó dường như từ bên trong tỏa ra làm cho mặt họ nóng bừng. Cô như thế đấy, cô Maria ạ ! Số mệnh của những người đàn bà như thế thường là kỳ lạ. Hoặc là rất buồn thảm, hoặc là rất hạnh phúc.

- Ông đã gặp những người đàn bà như thế bao giờ chưa ? - thiếu phụ hỏi.

- Vừa gặp đây thôi, - Anđecxen trả lời. – Tôi không phải chỉ nói về cô Maria mà cả về bà nữa, thưa bà.

- Tôi mong rằng ông nói thế cốt không phải cho đêm dài chóng qua, - người đàn bà nói, giọng run run. - Điều ông vừa nói thật là tàn ác đối với cô gái kiều diễm nà. Và cả tôi nữa, - nàng nhẹ nhàng nói tiếp.

- Thưa bà, chưa lúc nào tôi lại nghiêm chỉnh như lúc này.

- Vậy thì sao ? - Maria hỏi. - Liệu em có hạnh phúc hay không ?

- Cô muốn hưởng nhiều ở đời, mặc dầu cô chỉ là một cô gái nông thôn bình dị. Vì thế cô không dễ dàng được hạnh phúc. Nhưng trong đời mình cô sẽ gặp một người xứng đáng với trái tim hay hờn dỗi của cô. Người cô chọn tất nhiên là một người xuất sắc. Có thể đó là nhà hội họa, là nhà thơ, là chiến sĩ đấu tranh cho tự do của nước Ý… Mà cũng có thể đó chỉ là một chàng mục đồng hay một thủy thủ, nhưng là người có một tâm hồn lớn. Nói cho cùng, thì cũng thế cả thôi.

- Thưa ông, em không nhìn thấy ông, vì thế em cứ hỏi mà chẳng thẹn thùng, - Maria rụt rè nói. – Nên làm gì đây, nếu người ấy đã làm chủ trái tim em rồi ? Em mới gặp chàng có vài bận, thậm chí cũng chẳng biết chàng bây giờ ở đâu.

- Cứ tìm chàng đi ! – Anđecxen thốt lên. – Hãy tìm bằng được, và chàng sẽ yêu cô.

- Maria ! – Anna vui vẻ nói. – Thì ra đó là cái anh chàng họa sĩ ở Vêrôn đấy chứ ai…

- Im đi ! – Maria mắng át.

- Vêrôn chẳng phải là một thành phố to lớn gì để đến nỗi không tìm nổi một người, - thiếu phụ nói. – Cô nhớ lấy tên tôi. Tôi là Elêna Guytsiôli. Tôi hiện ở Vêrôn. Người Vêrôn nào cũng biết nhà tôi. Cô Maria này, cô đến Vêrôn đi. Và sẽ ở cùng tôi đến tận cái ngày hạnh phúc mà ông bạn đường thân mến của chúng ta đã tiên đoán cho cô.

Trong bóng tối, Maria tìm bàn tay Elêna và áp vào bên má nóng hổi của mình.

Mọi người im lặng. Anđecxen nhận thấy một ngôi sao xanh đã tắt. Nó đã lặn dưới chân trời. Nghĩa là đã quá nửa đêm.

- Kìa, sao ông không đoán gì cho em ? Anna, cô gái nhanh mồm nhanh miệng nhất bọn hỏi.

- Cô sẽ có nhiều con, - Anđecxen nói một cách quả quyết. – Chúng nó sẽ xếp thành hàng, nối đuôi nhau nhận phần sữa. Cô sẽ mất nhiều thì giờ để tắm rửa và chải đầu cho cả lũ. Nhưng chồng sắp cưới sẽ giúp cô một tay.

- Có phải là Pêtơrô không ? – Anna hỏi. – Em cần cái anh chàng béo ục ịch ấy lắm đấy !

- Rồi cô còn mất nhiều thì giờ nữa để hôn vài lần trong mọt ngày những con mắt long lanh hiếu kỳ của hết thảy những thằng cu, con bé của cô.

- Trong lãnh địa của giáo hoàng mà nói những lời lẽ điên rồ ấy thì thật là quá quẩn ! - vị linh mục bực bội nói, nhưng không ai chú ý đến lời nói của ông ta.

Mấy cô gái lại thì thầm chuyện gì với nhau. Tiếng cười luôn luôn cắt đứt tiếng xì xào. Cuối cùng Maria nói :

- Thưa ông, bây giờ chúng em muốn biết ông là người thế nào. Chúng em thì lại không nhìn được trong bóng tối.

- Tôi là nhà thơ phiêu lãng, - Anđecxen trả lời. – Tôi còn trẻ. Tóc tôi rậm, uốn sóng và mặt tôi rám nắng. Đôi mắt xanh của tôi hầu như lúc nào cũng cười, bởi tôi vô tư và chưa yêu ai. Công việc duy nhất của tôi là đem những món quà nhỏ tặng người khác và làm những việc lăng nhăng cốt sao cho người thân đuợc vui lòng.

- Thí dụ những việc gì thưa ông ? – Elêna hỏi.

- Biết kể gì cho bà nghe đây ? Mùa hè năm ngoái tôi ở nhà một người quen làm nghề kiểm lâm ở xứ Giuytlan. Một hôm tôi dạo chơi trong rừng và tới một quãng rừng thưa, nơi có rất nhiều nấm. Ngay ngày hôm đó tôi trở lại cánh rừng ấy và giấu dưới mỗi cây nấm hoặc một cái kẹo bọc giấy bạc, một quả chà là, một bó hoa tí xíu bằng sáp, hoặc một cái đê khâu và một mẩu băng lụa. Sáng hôm sau tôi đi cùng với cháu gái con ông kiểm lâm vào cánh rừng đó. Cháu bé lên bảy. Thế là dưới mỗi gốc nấm cháu tìm thấy những vật nhỏ bé kỳ lạ kia. Chỉ thiếu có quả chà là. Hẳn là một chú quạ nào đã tha đi mất. Ồ, nếu bà được trông thấy đôi mắt em bé sáng rực lên vì sung sướng ! Tôi quả quyết với cháu rằng những vật đó là của những chú quỷ lùn đã giấu ở đấy.

- Ông đã đánh lừa một đứa bé ngây thơ ! - Vị linh mục phẫn nộ nói. – Đó là một tội lớn.

- Không, đó chẳng phải là chuyện đánh lừa. Em bé sẽ nhớ chuyện ấy suốt đời. Và tôi xin quả quyết với cha rằng trái tim cháu sẽ không dễ dàng cằn cỗi như ở những người không được biết chuyện cổ tích ấy. Hơn nữa, thưa cha, tôi cũng muốn nói để cha biết rằng tôi vốn không ưa những lời răn ép buộc.

Xe dừng lại. Các cô gái ngồi yên không nhúc nhích như bị bỏ bùa. Elêna cúi đầu im lặng.

- Này, các mỹ nương ! - Người đánh xe kêu lên. - Tỉnh dậy thôi ! Đến nơi rồi.

Các cô gái lại thì thào chuyện gì và đứng dậy.

Trong bóng tối Anđecxen bỗng thấy hai cánh tay khỏe mạnh ôm lấy cổ chàng và một đôi môi nóng hổi áp vào môi chàng.

- Cảm ơn ông ! – đôi môi nóng hổi ấy thì thầm, và Anđecxen nhận ra giọng nói của Maria.

Nicôlina cảm ơn chàng và hôn chàng thận trọng và âu yếm, tóc cô mơn man trên mặt chàng. Cái hôn của Anna thì kêu và khỏe. Các cô nhảy xuống đất. Xe lại chuyển bánh trên con đường lát đá. Anđecxen nhìn ra ngoài cửa sổ. Chẳng thấy gì ngoài những ngọn cây đen thẫm trên nền trời hơi ngả màu xanh lục. Bình minh hửng sáng.

Thành Vêrôn làm chàng ngạc nhiên vì những tòa nhà tráng lệ. Những mặt tiền trang nghiêm đua tài khoe sắc với nhau. Nền kiến trúc hài hòa lẽ ra phải làm cho tâm hồn thanh thản. Nhưng lòng Anđecxen lại xáo động.

Tối hôm đó Anđecxen đến giật chuông căn nhà cổ kính của Elêna trong một phố hẹp dẫn lên pháo đài.

Chính Elêna ra mở cửa cho chàng. Cái áo nhung xanh bó sát lấy thân nàng. Ánh nhung hắt lên mắt nàng làm cho đôi mắt ngả màu xanh nước biển đẹp vô ngần.

Nàng giơ cả hai tay đón chàng, những ngón tay lạnh nắm chặt lấy bàn tay to lớn của chàng, rồi nàng lùi lại dẫn chàng vào một phòng nhỏ.

- Tôi nhớ quá chừng ! – nàng nói một cách bình dị và mỉm cười như có lỗi. – Tôi đã cảm thấy thiếu anh rồi.

Anđecxen tái mặt. Suốt ngày chàng chỉ nghĩ đến Elêna, lòng xáo động âm thầm. Chàng biết rằng mình có thể yêu đến chết mệt mỗi lời nói của người đàn bà ấy, từng chiếc lông mi rơi của nàng, từng hạt bụi vướng trên tà áo nàng. Chàng hiểu điều đó. Chàng nghĩ rằng một mối tình như thế nếu cứ để cho nó bùng lên thì trái tim chàng sẽ không chứa nổi. Nó sẽ mang lại biết bao dằn vặt và niềm vui, nước mắt và tiếng cười khiến chàng không đủ sức chịu đựng tất cả những đổi thay và bất ngờ của tình yêu đó.

Và biết đâu, chỉ vì mối tình kia mà những chuyện cổ tích của chàng như một đàn ong sặc sỡ, sẽ chẳng nhạt phai, sẽ chẳng bỏ chàng bay đi để không bao giờ trở lại. Lúc đó chàng sẽ còn giá trị gì ?

Dù sao thì rồi tình yêu của chàng cuối cùng cũng chẳng được đáp lại. Biết bao lần đã xảy ra như thế. Những người đàn bà như Elêna thường hay đồng bóng. Một ngày đáng buồn kia nàng sẽ nhận thấy chàng xấu xí. Chính chàng cũng gớm ghét bản thân mình. Luôn luôn chàng cảm thấy những cái nhìn chế giễu sau lưng mình. Những lúc ấy dáng đi của chàng trở nên cứng quèo, chàng vấp lên vấp xuống và chỉ muốn độn thổ.

Chàng tự nhủ : “Chỉ trong trí tưởng tượng mới có thể vĩnh cửu, có thể vĩnh viễn là thơ là mộng. Hình như ta có thể tưởng tượng ra tình yêu giỏi hơn là được hưởng tình yêu trong thực tại”.

Vì thế chàng đã đến nhà Elêna với ý định dứt khoát là gặp nàng xong rồi đi ngay để không bao giờ gặp lại.

Chàng không dám nói thẳng điều đó ra với nàng. Giữa hai người đã có gì đâu. Họ mới gặp nhau hôm qua trên một chuyến xe và chưa hề nói với nhau điều gì.

Anđecxen dừng lại trước cửa phòng và đưa mắt nhìn quanh. Trong một góc, bức tượng đầu nữa thần Đian bằng đá trắng toát dưới ánh sáng của những cây đèn, hình như tái nhợt đi vì xúc động trước sắc đẹp của chính mình.

- Ai đã làm cho gương mặt bà trở thành bất tử trong pho tượng Đian kia vậy ? – Anđecxen hỏi.

- Cavôna đấy, - Elêna trả lời và cúi mặt xuống. Hình như nàng đoán biết tất cả những gì đang xốn xang trong lòng chàng.

- Tôi đến đây để từ biệt bà, - Anđecxen lẩm bẩm bằng một giọng trầm ngâm, - Tôi chạy khỏi Vêrôn đây.

- Tôi biết anh là ai rồi, - nhìn thẳng vào mặt chàng, Elêna nói, - Anh là Krixtian Anđécxen, nhà thơ và người viết truyện cổ tích nổi tiếng. Nhưng hóa ra trong cuộc đời anh lại sợ chuyện cổ tích đến nỗi anh cũng chẳng có đủ nghị lực và can đảm cho một cuộc tình ngắn ngủi.

Anđecxen thú nhận:

- Đó là cây thập tự quá sức của tôi.

- Vậy thì nhà thơ phiêu lãng thân yêu của em, - Elêna chua chát nói và đặt tay lên vai Anđecxen, - Anh hãy chạy đi ! Chạy cho thoát ! Cầu cho đôi mắt anh mãi mãi tươi cười. Đừng nghĩ đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì anh chỉ cần nhắn cho em một lời, em sẽ đi bộ như cô Nicôlina nọ, vượt qua ngàn dặm, qua bao núi tuyết và sa mạc khô cằn để tới an ủi anh.

Nàng gieo mình xuống chiếc ghế bành và lấy tay che kín mặt. Những ngọn nến trên giá nổ lách tách.

Anđecxen nhìn thấy một giọt nước mắt long lanh rỉ qua những ngón tay nhỏ nhắn của Elêna rơi xuống vạt áo nhung và lăn đi.

Chàng xô tới, quỳ xuống trước mặt nàng, áp mặt vào đôi bàn chân ấm áp, rắn rỏi và dịu dàng của nàng. Elêna vẫn nhắm mắt, đưa tay ra ôm lấy đầu chàng, nàng cuối xuống và hôn vào môi chàng.

Giọt nước mắt nóng hổi thứ hai rơi xuống mặt chàng. Chàng cảm thấy vị mặn của nó.

- Anh đi đi ! – Nàng nói khẽ. - Cầu cho Nàng Thơ tha thứ mọi điều cho anh.

Chàng đứng dậy, cầm lấy mũ và bước vội ra ngoài.

Chuông chầu đổ hồi trên toàn thành Vêrôn.

Hai người không bao giờ gặp nhau nữa, nhưng luôn luôn nghĩ đến nhau.

Có lẽ vì thế ít lâu trước khi nhắm mắt Anđecxen đã nói với một nhà văn trẻ :

- Tôi đã trả bằng một giá đắt, có thể nói vô cùng đắt cho những chuyện cổ tích của tôi. Vì chúng, tôi đã từ bỏ hạnh phúc của mình và bỏ qua thời gian khi mà trí tưởng tượng, dù cho có mạnh và hào nhoáng đến mấy, cũng phải nhường chỗ cho thực tế.

Bạn hỡi, hãy biết vận dụng trí tưởng tượng không phải để gây ra đau buồn, mà để mang lại hạnh phúc cho mọi người và cho bản thân mình.


Lấy từ www.ttvnol.com. Typed by maple.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
NGƯỜI ĐẦU BẾP GIÀ


Một buổi tối mùa đông năm 1766, trong ngôi nhà gõ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bà bá tước Tun - một ông lão mù - đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gãy. Khi cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi thì con chó đực xích trong chuồng lại gầm gừ khe khẽ. Cũng như chủ mình, nó đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.

Mấy năm về trước người đầu bếp già bị mù vì hơi nóng của bếp lò. Từ ấy, viên quản lý của bà bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài lon flôrin.

Ông lão ở với con là Maria, một cô gái độ tuổi mười tám. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế dài khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một cái dương cầm kiểu cổ - tài sản độc nhất của Maria.

Cái dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có tiếng động vang lên ở chung quanh là những dây đàn lại rung lên khe khẽ hồi lâu. Người đầu bếp gọi đùa cái dương cầm là “anh gác của nhà ta”. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy già yếu.

Khi Maria đã làm xong việc lau mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo sạch lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô :

- Cha không hề ưa bọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm cha được trong sạch.

- Vậy phải làm thế nào thưa cha ? - Maria lo lắng hỏi.

- Con hãy ra đường, - ông lão nói, - và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.

- Phố nhà thì vắng tanh... - Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.

Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở cánh cổng sắt gỉ và dừng lại. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.

Maria đợi hồi lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng cảm thấy có một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại, hỏi :

- Ai vậy ?

Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.

- Được rồi, - người đàn ông bình thản nói. - Mặc dù tôi không phải là thầy tu, nhưng không sao. Ta đi thôi.

Họ bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa ướt xuống ghế. Chàng ăn vận tao nhã và giản dị - ánh nến lấp lánh trên chiếc camiđôn(1) màu đen, trên khuy pha lê và cổ áo thêu ren.

Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu hệt như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.
- Xin cụ cứ nói ! - Chàng bảo. - Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự đã cho tôi, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.

- Tôi làm việc suốt đời cho tới khi bị mù, - ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. - Và ai làm việc người đó không có thời giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao - vợ tôi tên là Mácta - thầy thuốc kê đơn cho nàng nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và vả khô, uống rượu vang hâm nóng, vì vậy tôi đã lấy trộm trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi đem bán. Bây giờ tôi rất khổ tâm khi nhớ lại việc này, và phải giấu con gái tôi : tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.

- Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân bị vạ lây vì vụ đó không ? - Người lạ mặt hỏi.

- Thưa ngài, tôi xin thề là không có ai cả. - Ông lão trả lời và khóc. - Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi đã chẳng lấy trộm !

- Tên cụ là gì ? - Người lạ mặt hỏi.

- Iôhan Mâye, thưa ngài.

- Vậy thì thưa cụ Iôhan Mâye ! - Người lạ mặt nói và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão, - trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.

- Amen ! - Ông lão nói khẽ.

- Amen ! - Người lạ mặt nhắc lại. - Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.

- Tôi muốn có người sẽ săn sóc Maria.

- Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không ?

Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói lớn :

- Tôi muốn một lần nữa được nhìn thấy Mácta như buổi đầu tôi gặp nàng lúc còn trẻ. Nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.

- Được, - người lạ mặt nói và đứng dậy. - Được, - chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. - Được - lần thứ ba chàng nói lớn và bất thần tiếng đàn vút lên vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn.

- Cụ hãy nghe đây, - người lạ mặt nói. - Cụ hãy nghe và hãy nhìn đây.

Chàng bắt đầu chơi. Về sau Maria nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một sắc tái kỳ lạ phủ lên trán chàng và có một ngọn nến lung lay trong đôi mắt chợt tối đi của chàng.

Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.

- Tôi thấy rồi, thưa ngài ! - Ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy. - Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và nàng vì ngượng ngùng đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, ở trên núi. Bầu trời trong xanh như thủy tinh, và Mácta cười. Nàng cười, - ông lão nhắc lại, tai lắng nghe tiếng róc rách của cung đàn.

Người lạ mặt chơi đàn, mắt nhìn vào cửa sổ tối om.

- Còn bây giờ, - chàng hỏi, - cụ có nhìn thấy gì không ?

Ông lão im lặng nghe ngóng.

- Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư ? - Người lạ mặt nói nhanh và vẫn tiếp tục chơi. - Đêm đang đen bỗng thành màu xanh thẫm rồi lại thành xanh lam, và ánh sáng ấm áp đã từ nơi nào trên cây cao kia chiếu xuống. Hoa trắng đang nở trên cành cây già cỗi trong vườn nhà cụ. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không : tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ướt đẫm nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi, và trên thành Viên cổ kính của chúng ta từng đàn chim đang bay về phương bắc.

- Tôi trông thấy tất cả những cái đó ! - Ông lão kêu lên.

Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà cả hàng trăm giọng hát vui mừng.

- Không, thưa ngài, - Maria nói với người lạ mặt, - hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo nở rộ trong một đêm.

- Vâng, - người lạ mặt trả lời, - đó là hoa táo nhưng cánh của chúng rất to.

- Mở cửa sổ ra, Maria ! - Ông lão bảo.

Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.

Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chắn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi. Chàng ngồi lặng trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi tiếng nhạc của chính mình.

Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói :

- Tôi đã thấy tất cả, rõ như hồi trước đây. Nhưng tôi không muốn chết đi mà không được biết... tên. Tên ngài !

- Tôi là Vônfgăng Amêđây Môza, - người lạ mặt trả lời.

Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước người nhạc sĩ vĩ đại.

Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.
 
ÂM NHẠC VÉCĐI

Có những cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn.

Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Matxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời.

Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên, giọng khàn khàn thúc giục :

- Ai muốn lên tàu đây ? Ai muốn nghe nhạc nào ? Chúng tôi sẽ đứng sát mạn tàu cho tới khi diễn xong nhé ! Không chòng chành gì hết – xin cam đoan ! Thế này mà chòng chành à, bà con !

Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển – sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ già yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.

Trên vũng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước cạnh những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm. Mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu.

Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên, bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xáo động : tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi.

Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của hải cảng : tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi xa xa của những người lái tàu, tiếng còi rú giận dữ, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngã.

Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo ****ốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc canô cũng phóng ngay tới đó, bóng cờ hiệu đằng đuôi phấp phới trong nước.

Tachiana Xônxeva được phân công đóng vai Viôleta.

Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những bóng đèn một trăm nến. Cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gầy sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn – cô để lại ở Matxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang nằm viện chờ một ca mổ.

Xônxeva đang lo lắng nên không thấy gì cả : mặc thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió thổi, mặc vô vàn đốm lửa như đàn ong vàng, vo ve lượn đi lượn lại trên vũng tàu, mặc cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng.

Cuộc phẫu thuật ấn định tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Matxcơva tới.

Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlôngxen gác trên tháp pháo màu gio.

Âm nhạc Vecđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến các bờ biển lân cận.

Những chiếc xuồng nhấp nhô bên mạn tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền và vào nhau, họ chỉ lặng lẽ giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày.

Người trợ lý đạo diễn đứng đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà có vẻ lo lắng. Trong túi anh ta có bức điện gửi cho Xônxeva. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau buổi diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát.

Ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra :

- Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói, - cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng. Giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy.

Người trợ lý đạo diễn nhăn nét mặt rồi gật đầu.

Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là “đồ quỷ sứ” được giao việc kéo chiếc màn làm bằng những cờ hiệu khâu lại.

Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng nhanh nhẩu nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn.

Vaxia đã nghe hết câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười rạng rỡ từ từ tắt trên môi anh.

Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu rất luống cuống. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt.

Khi Anfrết quỳ phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một đường ven xanh mảnh nổi lên chỗ thái dương giống hệt như ở đứa em cô.

Xônxeva nuốt ực không khí rồi khóc. Nước mắt trào ra, nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, ánh sao dưới nước, hay gương mặt xanh xao của các chiến sĩ hải quân.

Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã không nghe lời. Mặt anh đanh lại. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của người trợ lý đạo diễn, anh trả lời hằn học và cộc lốc :

- Anh sẽ phải tiếp chuyện vị chỉ huy con tàu đấy, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy.

Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại là hoàn toàn hợp lý, sau cái cảnh căng thẳng đầy đau khổ như lúc Viôleta đầm đìa nước mắt. Không ai biết là vở kịch bị “đồ quỷ sứ” cắt ngang lúc mới bắt đầu.

Tsukhốp lại gần vị chỉ huy con tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra.

Chỉ huy trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình, ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong những trận chiến cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đầu, sự nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tấc cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm - cả xóm thợ mỏ Đônét, cái trường làng bẩn thỉu, cả những con người của thời ấy mà chỉ để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, gieo vào ý thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một thợ mỏ và một người có trí tuệ trong sáng và chính xác.

Vị chỉ huy đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ.

Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát, mặt tái đi vì tức giận, đón chỉ huy trưởng.

- Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, - chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.

- Cô ấy sẽ không hát nữa, - chỉ huy trưởng khoan thai nói. – Các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại !

Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười khẩy :

- Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến, không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Hơn nữa, có gì cần phải nói ? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp.

Vị chỉ huy quay sang Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.

- Đồng chí thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.

Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ.

Vị chỉ huy thoáng nhìn mẩu thuốc, và Vaxia Tsukhốp tức khắc gạt khẽ nó xuống biển.

- Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Chỉ huy trưởng nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. – Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi là người thừa hành quyền lực nên tôi cho phép mình can thiệp vào việc quản lý của đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm. Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa. Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.

Vị chỉ huy giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Khán giả im bặt.

- Các chiến sĩ hải quân đỏ ! - Vị chỉ huy điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình, khó mà diễn tiếp được…

Tiếng xì xào truyền lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị chỉ huy không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một ngày tốt đẹp hơn. Điều đó thì không cần lời giải thích của chỉ huy các chiến sĩ cũng hiểu.

- Cho ca nô lại gần tàu ! - Chỉ huy khẽ ra lệnh.

- Rõ, cho ca nô lại gần tàu ! Ca nô lại gần tàu ! - Mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt ở boong dưới.

Mấy phút sau vị chỉ huy cùng Xônxeva xuống thang tàu. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên cạnh chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, mặt đỏ lựng và khẽ hô lên:

- Hết tốc lực, tiến !

Ca nô đẩy lùi về phía sau thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu. Vị chỉ huy ngồi trên ca nô nói :

- Tôi đã liên lạc với tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong tàu tốc hành đi Matxcơva. Chưa muộn đâu. Còn bốn mươi phút nữa.

Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa mà không nói lên lời.

- Thưa đồng chí chỉ huy, - anh thượng sĩ cao lớn nói khẽ nhưng đủ cho Xônxeva nghe thấy, - báo chí viết là ở Matxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy. Giá mà được ông ta…

- Im đi, Kuzmenkô ! - Vị chỉ huy nói.

Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi lại sau những mỏm đá dựng đứng

* *
*
Xônxeva ngồi trong phòng toa xe, không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng, Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới, chiếc xe tắcxi cọc cạch, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện.

Cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.

- Mọi sự đã hoàn tất trót lọt. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn dữ tướng nói với Xônxeva. – Trót lọt hiếm có đấy.

Xônxeva khẽ hôn lên thái dương non trẻ ươn ướt của em, nơi có một đường ven xanh mảnh nổi lên lờ mờ.

Và mấy giờ sau lại là đêm, nhà gà, người khuân vác mặt rỗ khó nhọc mới lấy hộ được chiếc vé, tiếng cầu sắt rầm rầm, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoại thành Khracôp và cuối cùng là màn sương lam trên vũng biển sâu, mặt trời cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.

Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia, tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến ! Xônxeva luống cuống dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn tay tới con tàu, vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên các vĩ độ miền cực nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. “Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ”. – Xônxeva nghĩ thầm.

Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.

Một ngày sau trên chiến hạm lại trình diễn vở kịch bị bỏ dở. Khi “đồ quỷ sứ” kéo màn và Xônxeva bước ra sấn khấu, các chiến sĩ hải quân đứng cả dậy và tiếng vang của những tràng pháo tay chưa từng thấy trên vùng biển dội đến vùng bờ lân cận. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhưng lụa trang phục cổ thành Vơnidơ. Vị chỉ huy đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười.

Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ ân tình hữu ái.

Cô dằn lòng, ngẩng đầu lên mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc nổi lên và âm nhạc da diết của Vecđi át cả tiếng sóng vỗ.

Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô.

Cô hát tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh ai oán trên vùng biển. Những ông già đánh cá ngồi trên bờ sát mạn nước, lắng nghe và kinh ngạc trước sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm bình dị của đồng đội.

Tưởng chừng Viôleta đang hát trên quê hương Vơnidơ. Ánh sao tỏa mờ trên những mỏm đá ven bờ. Ánh đèn xuyên tới tận đáy vịnh - nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những luồng khí nóng vô hình. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như đang lúc hoàng hôn.

Sau buổi diễn các chiến sĩ hải quân vây xung quanh Xônxeva, nhưng họ nhanh chóng kính cẩn giãn ra. Bước lại gần Xônxeva, là một người thủy thủ cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng - vị tư lệnh hạm đội.

- Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. – ông nói - Đồng chí đã đem lại niềm vui cao quý cho chúng tôi. Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ ?

Xônxeva muốn nói rằng : không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ xạm nắng này – khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý – đã cho cô được huởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì cả Môda lẫn Betôven cũng phải ghen tỵ, nhưng cô không nói gì, chỉ ráng sức siết chặt tay vị tư lệnh. Gió mát thổi vào từ biển, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nháy trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của làn sóng bạc đầu.


Lấy từ www.ttvnol.com. Typed by maple.
 
Lại nhớ về Pauxtopxki

Bằng Việt

1. Đồi trung du phơ phất bóng thông già
Trường sơ tán, hồn trong chiều lặng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ở trong đầu

Lẵng quả thông hay suối nhạc nhiệm màu
Hay chuyến xe đêm thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa

Có thể ngày mai ta cũng sẽ đi qua
Một cánh cửa nao lòng như trong truyện "Tuyết"
Có tiếng chuông rung và con mèo Ackhip
Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong
Xa xôi sao...
Thời thơ ấu sau lưng.

2. Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu
Cuộc đời không phải thế
Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể
Biển mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu
Khi em đến bên anh trước biển cả dâng triều
Ta thu hết xa khơi vào trong lồng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt tới
Dấu đen sầm khi đáy bóng đêm trôi

Và hạnh phúc vỡ ra như nốt đàn căng
Nốt cao quá trong đời xao động quá
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn

Anh đã đi qua bão lốc từng cơn
Cây rung lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao
Em đã đến rồi đi,
như một giấc chiêm bao

3. Bây giờ anh biết nói gì hơn
Có thể ngày mai thôi, có thể
Hoa tóc tiên ơi! "Sớm mai và tuổi trẻ"
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xát lòng thêm

Pauxtopxki là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng không phải thế đâu, anh hiểu rằng không phải
Như tuổi thơ vừa đó đã xa vời

Đưa em đi. Tất cả đã qua rồi.
Ta đã lớn, và Pauxtopxki đã chết
Anh vẫn khóc khi nghĩ về truyện "Tuyết"
Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em.


Thank you chị Miên :kiss1: :)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Pautovski là dĩ vãng trong em
Thành dĩ vãng hai ta bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng ko phải thế đâu, anh hiểu rằng ko phải
Như tuổi thơ vừa đó đã xa vời....


Cám ơn Chi....nhiều truyện mới posted hay lắm..
 
Back
Bên trên