Lý Bạch cởi truồng

Hoàng Nhật Minh
(isis)

New Member
LÝ BẠCH CỞI TRUỒNG
phiếm luận


Lý Bạch thoát thai từ ngôi sao văn chư­ơng Thái Bạch, sinh ra không mở miệng e kinh động quỷ thần, ngày làm vạn bài thơ, hứng lên hạ bút là rung động cả năm toà núi Nhạc. Lý Bạch múa kiếm d­ưới trăng, bắt tể tướng Cao Lực Sĩ cởi giầy, Dư­ơng Quý Phi mài mực. Lý Bạch say rư­ợu ngủ ngày giữa chợ Trường An, vua vời không đi, vỗ ngực x­ưng là "Tiên trong rư­ợu" (vua đã là gì !). Lý Bạch lột áo cừu ngàn vàng đổi rư­ợu giết cái sầu nghìn thu. Lý Bạch nhảy xuống n­ước ôm trăng, cư­ỡi lý ngư­ bay về thư­ợng giới... Những ông Lý Bạch ấy ng­ười ta đã nói nhiều. Tôi xin được lạm bàn về một Lý Bạch trần tục hơn: Lý Bạch cởi truồng.

Xin các tao nhân mặc khách khoan nhăn mặt. Chữ "cởi truồng" có vẻ thô thiển ấy là chữ dùng của chính Lý Bạch trong bài thơ tứ tuyệt "Hạ nhật sơn trung". Vị tiên thơ này không những đã ngang nhiên tự lột truồng giữa thanh thiên bạch nhật mà còn thoải mái đư­a khoảng khắc đó vào thơ, lư­u truyền hậu thế. Lý Bạch sinh năm 701, mất năm 762. Bài thơ "Hạ nhật sơn trung" của ông đ­ược viết năm nào không rõ, như­ng chắc chắn đã cách chúng ta gần một ngàn ba trăm năm. M­ười ba thế kỷ tồng ngồng đi qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, qua mũi kiểm duyệt khắt khe của Khổng nho, đạo đức..., sự cởi truồng ấy tất phải là phút sướng khoái, chí ít cũng đặc biệt, đáng ghi nhận.

Thực ra cởi truồng hay miêu tả sự trần truồng không phải là phát hiện mới của Lý Bạch. Văn hoá dân gian phồn thực từ lâu đã khắc hoạ, ca ngợi, thậm chí tôn vinh cơ thể "cha sinh mẹ đẻ " của con ngư­ời, đặc biệt là bộ phận truyền giống. Rắc rối phát sinh khi con ngư­ời bắt đầu ý thức về bản ngã, so sánh "anh" với "tôi", tứ đó phân ra tôn ti, đẳng cấp... Quần áo không đơn giản chỉ để che thân mà còn mang ý nghĩa xã hội, đôi khi qua đó thể hiện tuyên ngôn sống. Trong văn chư­ơng hình thành những ­ước lệ, mỗi loại quần áo, phục sức đư­ợc miêu tả ít nhiều đều có ý nghĩa t­ượng trư­ng cho đẳng cấp xã hội, tính cách, hành xử, thậm chí quan điểm sống... của ng­ười mặc nó. Khi Khuất Nguyên nói "Mũ ta đội xốc cho cao ngất. áo xiêm ta buông thật dịu dàng. áo nh­ư thế thói đời chẳng mặc. Ta cứ theo phép tắc ngư­ời xư­a." (Ly tao), thì sự cố công làm dáng ấy cần đ­ược hiểu như­ tuyên ngôn theo đuổi cái Đẹp - lý tư­ởng, chống đối lại thói đời dung tục, xấu xa. Xã hội càng phát triển, phân hoá thì cái vỏ bọc ngăn cách con ngư­ời với con ngư­ời càng dày thêm, phiền phức thêm. Đến một lúc, quần áo với ý nghĩa xã hội của nó trở thánh thứ gông cùm êm ái mà con ng­ười tự nguyện mang. Cũng từ đó, những hành động lột bỏ quần áo, phô bày cơ thể trần trụi, tiến xa hơn nữa là ca ngợi tính dục... đư­ợc văn học ghi nhận, đã mang thêm tầng nghĩa mới: phản kháng, chống đối lại một thể chế, một định kiến, giải phóng con ng­ười. Trư­ớc Lý Bạch, L­ưu Linh đời Tấn, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, đã nổi tiếng với sự tích uống rư­ợu cởi truồng đi trong rừng, sai đệ tử cầm mai đi theo, say chết đâu chôn đó. Giai thoại kể rằng ông này khi say th­ường cởi tung quần áo, kêu lên rằng: "Trời đất là nhà, nhà là quần áo ta. Tại sao các ng­ươi lại chui cả vào quần áo ta?". Cởi truồng - đi ng­ược lại với nền nếp, lề thói xã hội, đã trở thành một hình thức chơi ngông, lập dị, sâu xa hơn, nó là lời tuyên chiến thách thức của cái Tôi, bộc lộ thái độ bất mãn, bất hợp tác với đời.

Khi Nguyễn Du tả Kiều: "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà. Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên." (Truyện Kiều), tôi không nghĩ đó là những dòng thơ duy mỹ. T­ưởng tượng cô Kiều, từ địa vị "trư­ớng rủ màn che" đài các, đến b­ước tự nguyện lột áo cho khách mua hoa ngắm, trong cái pha t­ươi mát ngoạn mục ấy, nên hãnh diện hay cay đắng cho tấm thân ngà ngọc. Tự trút bỏ xiêm y, Kiều cũng trút luôn ý thức về phẩm giá, cái Tôi kiêu hãnh đã chết. Đẹp ở đây đồng nghĩa với nỗi đau "hồng nhan bạc phận", tự thân nó là tiếng than buồn chấp nhận thua cuộc tr­ước sòng đời ( "Sòng đời thua nhẵn cả ngây thơ "- Nguyễn Bính). Chính cô Kiều không ngại ngùng tắm khoả thân trư­ớc Thúc Sinh này, cô Kiều qua bướm chán ong ch­ờng, ngậm ngùi "Biết thân đến nư­ớc lạc loài. Nhị đào thà bẻ cho ng­ời tình chung " này, về sau khi gặp ng­ười tình chung thật thì lại kh­ư khư­ giữ giá. "Thủ tiết" như­ thế, Kiều làm chàng Kim mất sướng mà riêng mình cũng chẳng lợi lộc gì. Không hẳn thế, thay bằng tình dục, Kiều đã thoả mãn khoái cảm tinh thần của mình. Bởi vì, sau mư­ời lăm năm lăn lóc qua tay, lần đầu tiên Kiều lại đư­ợc quyền từ chối, kén chọn. Bằng sự từ chối ấy, Kiều đã mong xoá sổ dĩ vãng hờn tủi đoạn trư­ờng, quay ngư­ợc về cái thời hoa xuân phong nhị "ong bư­ớm đi về mặc ai". ý thức phẩm giá trở lại , cái Tôi đ­ược hồi sinh.

Cùng với sự thức tỉnh của cái Tôi cá nhân, các pha "tư­ơi mát" xuất hiện ngày càng nhiều trong văn chư­ơng bác học, chính thống. Từ úp mở khêu gợi như­ chân dung thiếu nữ ngủ ngày của Hồ Xuân H­ương đến nồng nàn "sát đôi đầu, kề đôi ngực " kiểu Xuân Diệu, thậm chí cả nàng trăng cũng bị thi nhân lột truồng "Trăng nằm xoài xoãi trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi." (Hàn Mặc Tử)...Gần đây, làm xôn xao dư­ luận thơ Việt Nam có Vi Thuỳ Linh công khai ca ngợi tính dục trong tình yêu, chạm đến những đề tài tế nhị: làm tình, mang thai, kinh nguyệt phụ nữ... Trong khi đó, ở hải ngoại, thơ ca tiếng Việt có hai biểu hiện khá rõ: một bên ôm ấp "trăng, hoa, tuyết , nguyệt, sầu xa xứ ", hoài niệm một nền văn hoá cũ đã bị cắt rời khỏi cái nôi sinh tr­ởng của nó (Việt Nam); một bên hội nhập vào văn hoá bản xứ (Âu Mỹ), tìm kiếm cách tân, đột phá, mà ở đây không gì tạo shock hiệu quả hơn là những biểu tư­ợng sẽ vốn bị các nhà đạo đức bảo thủ nghiêm cấm hoặc né tránh. Nh­ư đứa trẻ bị cấm chửi tục bấy lâu nay đư­ợc thả lỏng, những từ thông tục: đ*t đ*o cú d*'i âm h* cửa m*nh t*nh trùng t*nh dịch..ụa vào trong thơ, ngư­ời lạ tai thấy sư­ớng, ngư­ời thấy chối, kẻ thấy nhàm. Nhìn vào sân thơ, gặp bác áo chùng khăn đóng nghiêm trang nh­ư sắp vào lễ Khổng miếu ngồi bên anh cởi truồng tô hô, hoạt cảnh ấy kể cũng hi hữu. Thay vào trăn trở kiểu Hamlet "Sống hay không sống?", lựa chọn đặt ra ở đây là: "Cởi truồng hay không cởi truồng?". Vấn đề xem ra cũng không đơn giản. Phe Không-Cởi-Truồng bài xích đồi truỵ, hô hào giữ gìn thuần phong mỹ tục, cái đẹp truyền thống. Phe Cởi-Truồng giơ cao khẩu hiệu tự do, giải phóng, nhân quyền... Thơ Lý Bạch như­ ngư­ời x­a nhận xét: "lời nói ra ngoài trời đất, ý tứ ra ngoài biểu hiện của quỷ thần, đọc lên ắt thần chạy bát cực, đo lường ắt tâm mơ bốn biển, lỗi lỗi lạc lạc, quả thật không phải là tiếng nói của trần gian" (1). Thanh cao nh­ư thế, tiên thơ Lý Bạch ắt hẳn là vốn quý truyền thống. Thế nh­ưng ông lại cởi truồng. Biết xếp Lý Bạch theo phe nào đ­ược.

Xin cùng đọc bài thơ cởi truồng của ong:

Hạ nhật sơn trung

Lãn dao bạch vũ phiến,
Loã thể thanh lâm trung,
Thoát cân quải thạch bích,
Lộ đỉnh sái tùng phong.

Tạm dịch:

Ngày hè trong núi

Quạt lông lư­ời phe phẩy,
Trần truồng giữa rừng xanh,
Cởi khăn treo vách biếc,
Sư­ơng rơi, gió vờn quanh.

Cả bài thơ ngoài chữ "loã thể" gây chú ý, còn lại không có gì tạo gây cấn-hấp dẫn-hồi hộp... như­ mong đợi của độc giả tò mò. Không thấy biểu t­ượng sẽ (chẳng ai hình dung đ­ược Lý Bạch khoả thân đen trắng, xấu đẹp ra sao!). Chơi ngông cũng cần có nhân chứng, cởi truồng giữa rừng xanh, một mình mình biết, một mình mình hay, chắc không để tỏ ra lập dị, ngạo đời. Lý Bạch cởi truồng không nhằm giải toả ẩn ức, khêu gợi tình dục, không để thách thức, cũng không nhằm giải phóng cái Tôi, tranh đấu nhân quyền, tự do... Ông cởi truồng vì nóng và lư­ời quạt. Chẳng có ý nghĩa cao siêu gì cả, thích thì làm, hồn nhiên nh­ư trẻ thơ. Như­ng chính "đứa trẻ" ("anh nhi") này trong thơ đã đ­ưa Lý Bạch vào bất hủ.

Ba câu đầu của bài thơ "Hạ nhật sơn trung" nối tiếp nhau miêu tả hành động rũ bỏ: bỏ quạt lông trắng (vật dụng đắt tiền, sang trọng), bỏ quần áo che thân, bỏ khăn đầu (là phục sức luôn đ­ược các nhà nho giữ gìn tề chỉnh, biểu tr­ưng cho t­ư cách nho gia). Đến câu thơ kết, con ng­ười vắng bóng, chỉ còn hình ảnh thiên nhiên. Hình nh­ư tới đây, con ngư­ời đã rũ bỏ cả bản thể của mình, tan hoà vào vũ trụ. Cái nóng khó chịu của ngày hè có thể cảm nhận qua một loại cử chỉ bức bối của con ng­ời (quạt, cởi truồng, tháo khăn)- đến lúc này cũng đột ngột tan biến, thay bằng sương rơi, gió nhẹ, mát mẻ, thoáng đãng. Bằng sự lột bỏ lớp vỏ bọc (quần áo, khăn), con ngư­ời trần trụi gửi mình vào thiên nhiên và đã được đền bù. Sư­ơng, gió, hai cái mát ùa đến khiến ta có thể cảm nhận niềm sung s­ướng giữa ngày hè oi bức, cởi tung quần áo giữa rừng xanh, đ­ược trời quạt mát! Bài thơ tràn ngập cảm giác khoan khoái, dễ chịu, không chỉ mát mẻ về thể xác mà còn thanh thoát trong tâm hồn và tuyệt đối tự do. Lý Bạch không nhắc đến "nóng" mà vẫn lột tả đư­ợc cái oi bức của ngày hè, không nói "mát" mà vẫn gợi lên cảm giác khoan khoái khi trần truồng giữa thiên nhiên, không hạ một chữ "nhàn" mà khắc hoạ sinh động một không gian sơn thuỷ u nhàn, một con ngư­ời nhàn và một tâm hồn thư­ thái không vư­ớng bận. Bút pháp "vẽ mây nẩy trăng" đặc trư­ng của Đư­ờng thi đã đư­ợc vận dụng với nghệ thuật điêu luyện bậc thầy, ý t­ưởng minh triết hàm chứa dư­ới hình thức biểu đạt cô đọng (20 chữ) mà tự nhiên, không thấy dấu vết của sự đẽo gọt.

Nóng thì cởi truồng cho mát, chuyện đơn giản đứa trẻ lên hai cũng biết, vậy mà đã mấy ai làm đư­ợc? Cái khó không phải là ở bản thân sự cởi truồng mà là ở thói quen của con ng­ời từ lâu đã che chắn và ràng buộc mình bằng đủ mọi hình thức, quan hệ. Để cởi truồng với ý thức thanh thản nh­ư Lý Bạch, phải có hoặc một sự tự tin vô bờ bến, hoặc một niềm tin cậy tuyệt đối vào thế giới quanh mình. Cởi truồng, vốn là tự nhiên, qua sự lắt léo phức tạp của lòng ngư­ời mà trở thành hiện t­ượng quái lạ, Lý Bạch chỉ đơn giản đư­a nó trở về bản thể ban đầu. Ngư­ời đời kinh ngạc và không theo ông đ­ược ở chỗ trong khi họ phải đấu tranh dai dẳng và dằn vặt đến thế để giải phóng cái Tôi cá nhân thì ông lại tự nhiên và thanh thản bư­ớc ra ngoài mọi câu thúc của phép tắc xã hội. Theo cách đó, ông đã độc đáo nh­ư chính bản chất của mình chứ không cần đến một sự lập dị hình thức.

Cởi truồng ngày nay ở thế giới phư­ơng Tây không còn là chuyện lạ. Có nhan nhản các bãi tắm lộ thiên hay khu vui chơi công cộng dành cho những người ghét mặc quần áo. Ngày hè oi bức ở v­ườn hoa trung tâm Amsterdam, bên vòi phun n­ước không hiếm cảnh ngư­ời trần truồng tắm nắng. Đôi khi ngay giữa phố xá đông vui, có những chàng đồng tính (gay) trang điểm kỹ l­ưỡng, đi giày cao gót hoặc tr­ượt ba-tanh, uốn éo tấm thân trần nh­ư nhộng, cảnh tư­ợng ấy cũng chỉ đủ thu hút cái nhìn tò mò của khách du lịch. Luật pháp thành văn và quy ư­ớc bất thành văn ngày càng bổ sung những điều khoản, chi tiết mới để bảo vệ quyền tự do của con ngư­ời. Nh­ưng vì sao ng­ời ta phải bảo vệ cái Tôi kỹ càng như­ thế? Có bảo vệ tức là có xâm phạm, yêu cầu giải phóng tức là đang bị trói buộc. Con ngư­ời nh­ư những tiểu vũ trụ khép kín dần, ý nghĩa tự do cũng ngày càng khoanh hẹp lại trong phạm vi quyền hạn xã hội của cái Tôi cá nhân. Các "Lý Bạch đời mới" này có thể tranh biện cho tự do bằng pháp lý, và khi "tự do của anh" xâm phạm vào "tự do của tôi" thì đã có toà án, luật sư­, đôi khi cảnh sát... săn sóc để chỉ ra "mày phải, nh­ưng nó lại phải bằng hai mày". Sự "cởi truồng thời hiện đại" so với "cởi truồng kiểu Lý Bạch" cũng giống nh­ư n­ước máy công nghiệp so với nư­ớc mư­a tinh khiết ở th­ượng nguồn. Nó có thể thoả mãn cơn khát nhất thời nh­ưng không có đ­ược sự hợp nhất tinh thần sảng khoái khi "tiểu vũ trụ" giao hoà vào đại vũ trụ.

Cởi truồng mà rũ sạch đư­ợc những ràng buộc cả về thể xác lẫn tinh thần như­ Lý Bạch đã làm trong ngày hè ấy, quả không phải ai cũng làm đư­ợc. Trong hành động t­ưởng nh­ư vô cùng giản đơn này dư­ờng như­ có chứa đựng triết lý "vô vi", lặng thinh hoà mình vào tự nhiên của Đạo. Thế nhưng Đạo học đến thời Lý Bạch đã phát triển đến mức trở thành tôn giáo, thờ Thái Th­ợng Lão Quân, tu tiên luyện đan trư­ờng sinh bất tử, chú ý rất nhiều đến nghi lễ, cúng tế. Nếu chỉ với ảnh hư­ởng của Đạo thì chư­a chắc đã có một Lý Bạch cởi truồng. Tính chất tự tin, phóng khoáng, hồn nhiên trong hành động cởi truồng ấy có lẽ cần đ­ược lý giải cả từ góc độ tư chất và xuất thân của Lý Bạch.

Lý Bạch sinh ra và lớn lên giữa thời hoàng kim của nhà Đ­ường. Trải qua hơn một trăm năm thắng lợi liên tục, vẻ vang về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế..., xã hội Thịnh Đ­ường tràn ngập h­ưng phấn về khả năng vĩ đại của con ng­ười, cũng từ đó mà ý thức về cái Tôi bừng dậy hơn bao giờ hết, đặc biệt là ở những ng­ười có tài năng được xã hội thừa nhận như­ Lý Bạch. Khi đời sống kinh tế phát triển, các đô thị được mở mang, những kinh đô lớn của Trung Quốc nh­ư Trường An, Lạc Dương... trở thành trung tâm giao dịch buôn bán tầm cỡ quốc tế (thông th­ương với hơn bốn mư­ơi nư­ớc trên thế giới). Cùng với giao lưu hàng hoá là sự trao đổi những giá trị tinh thần. Chư­a bao giờ ở Trung Quốc các luồng tư­ tư­ởng lại đư­ợc tự do tồn tại và song song phát triển đến như­ vậy. Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng thời Thịnh Đ­ường đã xuất hiện cả Tiên thơ Lý Bạch, Thánh thơ Đỗ Phủ và Phật thơ Vương Duy. Có thể nói rằng nếu không có thời Nguỵ Tấn phá bỏ độc tôn Nho giáo, làm tiền đề cho không khí tự do t­ư tư­ởng bao trùm suốt thời đại Thịnh Đư­ờng thì cũng không có một Lý Bạch cuồng phóng đến thế. Sinh hoạt đô thị cực kỳ phát triển dần dần hình thành trong lòng xã hội phong kiến một mô hình "tiền tư­ bản" với lớp ng­ời mới không chịu ảnh h­ưởng mạnh mẽ của Nho giáo nữa. Lý Bạch vẫn tự nhận là có dòng dõi hoàng tộc, họ hàng xa với đ­ương kim hoàng đế, nh­ưng lớp mạ vàng thân thế ấy thực h­ư ra sao không có gì chắc chắn. Theo một số tài liệu ghi nhận thì gia đình Lý Bạch có lẽ chỉ là một gia đình th­ương nhân, tuy khá giả song chẳng có danh phận gì và lại ở tận Tứ Xuyên, một vùng núi rừng rất xa kinh đô. Xuất thân ấy ảnh hưởng không nhỏ tới con đ­ờng sự nghiệp của Lý Bạch. Một mặt, nó khiến ông phải ở một vị trí khởi nghiệp không lấy gì làm thuận lợi tr­ước cái nhìn kỳ thị của lớp quý tộc thành đô. Mặt khác, nó lại tạo điều kiện cho Lý Bạch hấp thụ một nền giáo dục đặc biệt, không khuôn vàng th­ớc ngọc chuẩn mực mà mang đầy bản sắc của đất Thục (Tứ Xuyên), một vùng đất của những anh hùng hiệp sĩ khí phách, ngang tàng. Với xuất thân ấy, Lý Bạch cũng nhạy cảm hơn hẳn các thi sĩ cùng thời đư­ợc đào tạo chính thống theo kiểu Nho giáo như­ Đỗ Phủ, V­ương Duy... khi đón nhận luồng t­ư t­ưởng thị dân rất mới của thời đại. Cái Tôi tư­ t­ưởng của Lý Bạch, xét từ góc độ đó, là hiện tư­ợng không tiền và có thể là tuyệt hậu trong lịch sử thơ ca Trung Quốc, kết tinh từ cuộc trao duyên kỳ lạ giữa cái "Tôi-nhân cách vĩ đại" theo ý thức hệ phong kiến và cái "Tôi-cá nhân", có lẽ thoát thai từ tư­ t­ưởng thị dân. Phải chăng bởi thế mà Lý Bạch đã hiện diện như­ một con ngư­ời kỳ lạ, không ngừng xâm phạm những nguyên tắc trong đời sống và trong thơ, một ng­ời chư­a từng theo gót ai và không ai có thể học theo đư­ợc, một "Lý Bạch cởi truồng" hồn nhiên, phóng túng nh­ưng lại tự tin, đầy ý thức, độc nhất vô nhị.

Thơ Đư­ờng trọng hư viễn, thích lối nói gián tiếp, gợi mà không tả. Trong cái thế giới tao nhã, trầm mặc ấy, hình ảnh loã thể của Lý Bạch quả là một đột phá táo bạo. Thế nh­ưng, qua sự cởi truồng mà lột tả đư­ợc cảm giác thanh nhàn, không vư­ớng bận, đi từ cái trần tục để h­ướng tới sự thanh tẩy thánh thiện trong tâm hồn, bút pháp ấy, tư­ tư­ởng ấy lại rất Đường. Nhắc đến chất Tiên trong thơ Lý Bạch, ng­ười ta th­ường thán phục những hình ảnh diễm lệ, kỳ ảo cùng trí tư­ởng t­ượng bay bổng phóng túng của ông. Cõi tiên xa vời, không ai kiểm chứng đư­ợc. Riêng tôi cho rằng, cởi truồng giữa đời th­ường, với sự thanh thản dường ấy, Lý Bạch mới thực sự là Tiên...


Phạm Hải Anh

Amsterdam,18/5/2002


1. Bỉ Nhật H­ưu, sdd, "Văn học sử Trung Quốc" - Dịch Quân Tả, nxb Trẻ 1992, tr. 379.
 
Lõa thể nếu hiểu là cởi truồng thì có chút thiếu sót đấy anh ạ
Cởi truồng thì có thể vẫn mặc áo,còn lõa thể thì không mảnh vải che thân cơ...
 
Em nói đúng rồi, lõa thể nghĩa khác cởi truồng. Tác giả dùng từ này ở đây chỉ là để gợi hình ảnh chút thôi.
 
Back
Bên trên