Kiến thức chứng khoán(training online)

Bài 11: Chăm sóc các khoản đầu tư
Tìm hiểu và quyết định đầu tư vào thị trường chứng khoán là những việc làm phức tạp. Chăm sóc mọi việc khi đã đầu tư rồi lại dễ dàng hơn. Mỗi người có những cách khác nhau để quản lý các khoản đầu tư của mình. Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu sơ qua về những công việc mà các nhà đầu tư nên làm:

I. Lập sổ sách theo dõi:

1. Lưu giữ tất cả các hợp đồng theo thứ tự ngày tháng. Đây là tập hồ sơ đầy đủ về danh mục đầu tư để bạn theo dõi và tính toán các khoản thuế phải nộp (đối với nhà đầu tư là tổ chức). Hãy kiểm tra chi tiết từng hợp đồng xem có chính xác hay không.

2. Ghi nhận đầy đủ, chi tiết về các khoản cổ tức hay tiền lãi đã nhận được.

3. Nếu vẫn còn nắm giữ các chứng chỉ cổ phiếu, thì các chứng chỉ này phải được cất giữ an toàn nhưng dễ tìm thấy, phòng khi cần bán ngay.

4. Bạn sẽ cần đến một phương pháp nào đó để bám sát tiến triển của các khoản đầu tư đã thực hiện. Phương pháp này có thể dưới dạng một biểu đồ thủ công ghi rõ tên cùng số lượng chứng khoán đang nắm giữ, giá mua vào, giá cả vào các thời điểm định giá sau đó.

Lượng thông tin này sẽ làm nền tảng cho một hệ thống theo dõi hoàn hảo những loại chứng khoán mà bạn theo sát. Nếu bạn muốn có một phương pháp tinh vi hơn, các công ty chứng khoán sẽ có những phần mềm điện toán giúp bạn cập nhật giá cả và vẽ biểu đồ thành tích của danh mục đầu tư trên máy tính cá nhân của bạn.

5. Nếu công việc của bạn vốn đã quá bận rộn, tốt nhất bạn nên nhờ đến dịch vụ quản lý danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán sẽ thường xuyên cung cấp các báo cáo về tình hình các khoản đầu tư của bạn. (Bạn có thể tìm hiểu thêm về dịch vụ này tại VCBS, liên hệ theo số điện thoại: 9343137- máy lẻ: 2002).


II. Thu thập thông tin:

Nhà đầu tư muốn đích thân nghiên cứu đầu tư phải tinh lọc từ nhiều nguồn thông tin khác nhau.

1. Báo chí cung cấp rất nhiều loại tư liệu, từ các thông tin về giá cả và các đặc điểm của từng công ty cá biệt cho đến các công trình phân tích và các bài báo về chiến lược đầu tư trong từng khu vực kinh doanh.

2. Phương tiện phát sóng truyền thông đại chúng bao quát rất nhiều tin tức, đặc biệt phải kể đến là các trang thời sự trên TV về giá cả cập nhật ở Thị trường chứng khoán và các bài tóm lược tin tức tài chính.

3. Internet ngày càng được sử dụng rộng rãi giúp cho tình hình tiếp cận thông tin của các nhà đầu tư nhân lên gấp bội: các công ty mà bạn muốn đầu tư vào cũng có các trang web riêng; các công ty chứng khoán nơi bạn mở tài khoản giao dịch có thể cung cấp thông tin thường xuyên qua địa chỉ e-mail.

4. Các bản tin ngày từ trung tâm giao dịch chứng khoán.

5. Các bản tin ngày và tin tuần kèm theo các bài phân tích về thị trường chứng khoán được cung cấp bởi các công ty chứng khoán.

6. Cuối cùng là loại thông tin căn bản nhất – báo cáo tình hình hoạt động từ các công ty niêm yết.
 
Bài 12: Hệ thống thông tin thị trường chứng khoán


Phần 1: Chỉ số giá cổ phiếu:

a. Khái niệm:

Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin thể hiện giá chứng khoán bình quân hiện tại so với giá bình quân thời kỳ gốc đã chọn.

Giá bình quân thời kỳ gốc thường được lấy là 100 hoặc 1.000. Khi thông báo về thị trường chứng khoán như chỉ số giá chứng khoán Hàn Quốc KOSPI ngày 9/1/1998 là 440.78 điểm cũng chỉ ngụ ý nói về chỉ số giá cổ phiếu của ngày này so với gốc đã chọn là ngày 4/1/1980 với giá gốc là 100. So sánh giá trị chỉ số giữa 2 thời điểm khác nhau ta được mức biến đổi giá giữa 2 thời điểm đó. Nếu trị giá chỉ số KOSPI ngày 10/1/1998 là 445.28 thì có nghĩa là thị trường Hàn Quốc đã có dấu hiệu phục hồi với chỉ số KOSPI đã tăng 5.5 điểm trong ngày 10/1/1998. Nếu đem số này so với giá đóng cửa hôm trước và nhân với 100 thì ta có sự biến đổi theo % ( (5.5/440.78) x 100 = 1.25%). Chỉ số gía cổ phiếu được coi là phong vũ biểu thể hiện tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là thông tin rất quan trong đối với hoạt động của thị trường, đối với nhà đầu tư và đánh giá kinh tế. Tất cả các thị trường chứng khoán đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình.

Chỉ số giá cổ phiếu được tính cho:

- Từng cổ phiếu và có thông báo trên báo chí.
- Tất cả cổ phiếu thuộc thị trường của một quốc gia, như chỉ số giá Hangseng của Hồng Kông; chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp của Hàn Quốc (KOSPI)…
- Từng ngành, nhóm ngành, như chỉ số giá cổ phiếu ngành công nghiệp của Mỹ (DJIA)
- Thị trường quốc tế như chỉ số Hangseng Châu á (HSAI), chỉ số Dow Joness quốc tế (DJWSI)…
Một số chỉ tiêu sau cũng thường được thống kê, tổng hợp đối với chỉ số giá và thông báo rộng rãi: chỉ số giá ngày đó, ngày đó so với ngày trước đó, so với đầu năm; chỉ số giá cao nhất, thấp nhất trong năm, số cổ phiếu có chỉ số tăng trong kỳ và giảm trong kỳ và phân tích biến động theo ngành…

b. Một số chỉ số giá chứng khoán thường được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

* Các chỉ số của Nhật Bản:

- Chỉ số NIKKEI 225: là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với quyền số giá cả của 225 cổ phiếu thuộc sở giao dịch chứng khoán Tokyo và 250 cổ phiếu thuộc sở giao dịch Osaka. Chỉ số này do Thời báo kinh tế Nhật tính và công bố (Thời báo NIKKEI). Chỉ số này còn được gọi là chỉ số NIKKEI Dow vì phương pháp tính của nó như phương pháp tính các chỉ số DowJones.

- Chỉ số TOPIX: chỉ số này tính cho tất cả chứng khoán niêm yết quan trọng của thị trường chứng khoán Tokyo. Thời điểm gốc là 4/1/1968 với giá trị gốc là 100.

* Các chỉ số của Anh:

- Chỉ số FTSE-30: là chỉ số giá của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu của thị trường chứng khoán London. Chỉ số này được công bố từng giờ một kể từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều và vào lúc đóng cửa sở giao dịch chứng khoán London. Thời gian gốc là năm 1935 với trị giá gốc là 100.

- Chỉ số FTSE-100: là chỉ số giá của 100 cổ phiếu hàng đầu tại Sở giao dịch chứng khoán London. Ngày gốc là 3/1/1984 với trị giá gốc là 1.000.

Phần 2: Các loại chỉ số của Mỹ

1. Chỉ số Dow Jones:

Là chỉ số giá chứng khoán, phản ánh sự biến động bình quân của giá chứng khoán thuộc thị trường chứng khoán Newyork, một thị trường lớn nhất thế giới.
Chỉ số Dow Jones nói chung hiện nay là chỉ số giá chung của 65 chứng khoán đại diện, thuộc nhóm hàng đầu (Blue chip) trong các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Newyork. Nó bao hàm 3 chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: Công nghiệp DJIA (Dow Jones Industrial Average), Vận tải DJTA (Dow Jones Transportation Average) và Dịch vụ DJUA (Dow Jones Utilities Average).

2. Chỉ số DJIA :

Là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do ông Charles H.Dow cùng với công ty mang tên ông thu thập giá đóng cửa của chứng khoán để tính ra và công bố trên Wall Street Journal từ năm 1896. Bắt đầu công ty chỉ tính giá bình quân số học của 12 cổ phiếu. Ngày tính đầu tiên là ngày 26/5/1896 với mức giá bình quân ngày này là 40.94$. Năm 1916 mở rộng ra 20 cổ phiếu và năm 1928 tăng lên 30 cổ phiếu và giữ số lượng này cho đến ngày nay. Trong quá trình đó thường xuyên có sự thay đổi các công ty trong nhóm Top 30. Mỗi khi có công ty chứng tỏ là không thuộc tiêu chuẩn Top 30 của các cổ phiếu Blue Chip nữa thì sẽ có công ty khác chiếm vị thế đó thay thế. Công ty duy nhất còn lại đến nay kể từ đầu là công ty General Electric.

Chỉ số DJTA được công bố đầu tiên vào ngày 26/10/1896 và cho đến 2/1/1970 vẫn mang tên chỉ số công nghiệp đường sắt, vì thời gian này vận tải đường sắt là chủ yếu. Chỉ số DJTA bao gồm 20 cổ phiếu của 20 công ty vận tải đại diện cho ngành đường sắt, đường thuỷ và hàng không được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York.

Chỉ số ngành phục vụ công cộng (DJUA): được công bố trên tờ báo Wall Street từ tháng 1 năm 1929. Chỉ số này được tính từ giá đóng cửa chứng khoán của 15 công ty lớn nhất trong ngành khí đốt và điện.

Tuy chỉ có 65 cổ phiếu nhưng khối lượng giao dịch của chúng chiếm đến hơn 3/4 khối lượng giao dịch của TTCK New York, bởi vậy chỉ số Dow Jones thường phản ánh đúng xu thế biến động giá của thị trường chứng khoán Mỹ.

Chỉ số giá chứng khoán nói chung, chỉ số Dow Jones nói riêng được coi là phong vũ biểu, hay là nhiệt kế để đo tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế, xã hội. Thông thường nền kinh tế tăng trưởng thì chỉ số tăng và ngược lại. Tuy nhiên, giá chứng khoán nói riêng, giá của thị trường nói chung đều là tổng hợp của hàng loạt yếu tố như: các yếu tố kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường đầu tư... nhất là yếu tố tâm lý của người đầu tư. Nhiều khi mới chỉ có dấu hiệu tăng trưởng của nền kinh tế (mà thực sự chưa có) là mức lạc quan của nhà đầu tư đã có thể rất cao và họ đua nhau đi mua chứng khoán, đẩy giá lên cao. Ngược lại, có khi tình hình chưa đến nỗi tồi tệ, nhưng mọi người đã hoảng hốt bán tống bán tháo chứng khoán làm giá giảm tồi tệ. Ví dụ: Ngay khi Bill Clinton công nhận người tình Lewinsky thì chỉ số Dow Jones giảm ngay 200 điểm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
em mới thi cái chứng chỉ luật mà nó còn chày bửa mãi chả thông báo kết quả, thế là chán chả đi học 2 cái chứng chỉ kia
Đằng nào thì cũng phải có bằng đại học thì mới được thi lấy giấy phép hành nghề nên em cũng chả vội :D

----------

lâu không thấy chị vào đây chơi :D
 
anh ơi em tò mò tí
fải có điều kiện j` mới được tham gia giao dịch chứng khoán
nếu có thể thì ở đâu
thủ tục nó như thế nào??????
 
điều kiện là em có CMND, nếu ko có thì lấy CMND của bố mẹ. Ra cty chứng khoán bất kì hỏi thủ tục làm tài khoản, rất nhanh thôi. Còn cty CK nào thì em phải chọn, tìm hiểu trên mạng đi rồi quyết định, ngay sau trường Ams cũng có ba bốn cty CK đấy. Thủ tục rất đơn giản nhưng có lãi được ko thì ko đơn giản keke ;))
 
lãi hay không thì không thành vấn đề
vấn đề đầu tiên là fải kiếm ra một số tiền dư lớn để đầu tư. Chẳng lẽ chỉ vài ba triệu ra ngoài mua mấy chục CP rồi nằm nhà chờ xem thế nào ah`.
 
CP bây h xuống giá lắm em ạ :)) vài ba triệu cứ vô tư đi, mua được trăm CP của khối thằng.
hì hì đúng rồi có nhiều tiền, mua đi bán lại, mua thằng này một ít, thằng kia một ít, nay mua mai bán vẫn sướng hơn. Anh cũng ko thích om :D
 
om xong mấy hum thành đống giấy vun ah`.Chỉ kần có thông tin xôn xao hay vài ông trong hội đồng quản trị bán mấy cái là dân tình lại lo lên.Lại đổ xô bán.Cứ thế là chết
 
Bài 17: Các hệ số về khả năng sinh lời


Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý tới khả năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu bằng việc nghiên cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà quản lý giỏi sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu quả sản xuất, các công ty có thể giảm hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là quan trọng nếu các nhà quản lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc tài trợ thành công cho sự phát triển của công ty.

Nếu tỷ lệ lợi nhận của một công ty tụt xuống dưới mức có thể chấp nhận được, thì P/E (giá trên thu nhập) và giá trị các cổ phiếu của công ty giảm xuống - điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lời lại đặc biệt quan trọng đối với một công ty.

Phần 1. Hệ số tổng lợi nhuận.

Hệ số tổng lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng nguyên liệu và lao động trong quy trình sản xuất của ban quản lý một công ty.

********************* Doanh số - Trị giá hàng bán tính theo giá mua
Hệ số tổng lợi nhuận = -----------------------------------------------------
********************* Doanh số bán

Ví dụ: Hệ số tổng lợi nhuận
Nếu một công ty có doanh số bán là 1.000.000 USD và giá trị hàng bán tính theo giá mua lên tới 600.000 USD, thì hệ số tổng lợi nhuận của công ty sẽ là:

********************** $1.000.000 - $600.000
Hệ số tổng lợi nhuận = -----------------------------------------
********************** $1.000.000

Khi chi phí lao động và chi phí nguyên vật liệu tăng nhanh, hệ số tổng lợi nhuận chắc chắn sẽ giảm xuống, trừ khi công ty có thể chuyển các chi phí này cho khách hàng của mình dưới hình thức nâng giá bán sản phẩm. Một cách để tìm xem các chi phí này có quá cao không là so sánh hệ số tổng lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty tương đồng. Nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì công ty cần phải thực hiện một biện pháp nào đó để có được sự kiểm soát tốt hơn đối với chi phí lao động và nguyên liệu.

Phần 2: Hệ số lợi nhuận hoạt động


Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết Ban quản lý của một công ty đã thành công đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của công ty.

****************** EBIT
Mức lãi hoạt động = ---------------------------------------
****************** Doanh thu

Tử số của hệ số này là thu nhập trước thuế và lãi hay chính là thu nhập tính được sau khi lấy doanh thu trừ trị giá hàng bán đã tính theo giá mua và các chi phí hoạt động (EBIT).

Ví dụ: Hệ số lợi nhuận hoạt động
Nếu EBIT lên tới 200.000 USD trong khi doanh thu là 1.000.000 USD thì mức lãi hoạt động là:

*********************** $200.000
Hệ số lợi nhuận hoạt động = --------------------------------
*********************** $1.000.000

Hệ số này là một thước đo đơn giản nhằm xác định đoàn bẩy hoạt động mà một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động cho biết một Đô la doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu EBIT. Hệ số lợi nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động. Các nhà quản lý cần phải tìm ra các nguyên nhân khiến hệ số lợi nhuận hoạt động cao hay thấp để từ đó họ có thể xác định xem công ty hoạt động có hiệu quả hay không, hoặc xem giá bán sản phẩm đã tăng nhanh hơn hay chậm hơn chi phí vốn.


Phần 3: Hệ số lợi nhuận ròng


Hệ số lợi nhuận ròng là hệ số từ mọi giai đoạn kinh doanh. Nói cách khác đây, là tỷ số so sánh lợi nhuận ròng với doanh số bán.

*************** Lợi nhuận ròng
Mức lãi ròng= ---------------------------------
*************** Doanh số

Ví dụ: hệ số lợi nhuận ròng
Nếu lợi nhuận sau thuế của một công ty là 100.000 USD và doanh thu của nó là 1.000.000 USD.

****************** 100.000 USD
Hệ số lợi nhuận ròng = -------------------------------- = 10%
****************** 1.000.000 USD

Một số công ty có mức lợi nhuận ròng hơn 20%, và một số khác có chỉ đạt khoảng từ 3% đến 5%. Hệ số lợi nhuận ròng giữa các ngành khác nhau là khác nhau. Thông thường, các công ty được quản lý tốt đạt được mức lợi nhuận ròng tương đối cao hơn vì các công ty này quản lý các nguồn vốn của mình có hiệu quả hơn. Xét từ góc độ nhà đầu tư, một công ty sẽ ở vào tình trạng thuận lợi sẽ có mức lợi nhuận ròng cao hơn lợi nhuận ròng trung bình của ngành và nếu có thể, có mức lợi nhuận liên tục tăng. Ngoài ra, một công ty càng giảm chi phí của mình một cách hiệu quả- ở bất kỳ doanh số nào thì mức lợi nhuận ròng của nó càng cao

Phần 4: Hệ số thu nhập trên cổ phần.

Hệ số thu nhập trên cổ phần (ROE - return on equity) là thước đo tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông. Nhà phân tích chứng khoán, cũng như các cổ đông, đặc biệt quan tâm đến hệ số này.
Nói chung hệ số thu nhập trên cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn. Hệ số này là một cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi so sánh với hệ số thu nhập trên cổ phần của các cổ phiếu khác. Hệ số này có thể được tính như sau:

ROE= Lợi nhuận ròng sau thuế / Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình



Phần 5: Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI)

Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI - return on investment) được công ty Du Pont phát triển cho mục đích sử dụng riêng, nhưng ngày nay nó được rất nhiều công ty lớn sử dụng như là một cách thức tiện lợi để xác định tổng thể các ảnh hưởng của các biên lợi nhuận doanh thu tổng tài sản.

****** Thu nhập ròng ****** Doanh số bán ******** Thu nhập ròng
ROI = -------------------- x ------------------ = -------------------------
****** Doanh số bán ****** Tổng tài sản ******** Tổng tài sản

Mục đích của công thức này là so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty, và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu quả, thì thu nhập (và ROI) sẽ cao, và nếu ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bài 18: Sử dụng các hệ số để phân tích

Mỗi hệ số đề cập ở các bài trước chỉ cung cấp một số thông tin về mức độ hiệu quả trong hoạt động của một công ty. Tuy nhiên, như các bạn biết, việc phân tích tài chính đặc biệt có ý nghĩa khi bạn có một số chuẩn mực để có thể so sánh với các hệ số của một công ty, bạn không chỉ muốn xem khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình trạng nợ và các mối liên hệ hoạt động của một sông ty là cao hay thấp, và các yếu tố này đang được cải thiện hay xấu đi, mà bạn còn muốn xác định mức độ hiệu quả hoạt động của công ty đó so với các đối thủ cạnh tranh khác, so với ngành hay so với công ty hoạt động tốt nhất cùng ngành.
Mặc dù nhà quản lý của một công ty có thể tính toán các hệ số của các công ty khác, những các thông tin này đã có sẵn từ các nguồn công khai, chẳng hạn như: Niên giám các hệ số tài chính công nghiệp và kinh doanh, các hệ số kinh doanh chủ yếu, các trang tài chính công ty của các cơ quan định mức tín nhiệm... Các nguồn này cung cấp các hệ số của từng công ty và ngành có thể dùng để so sánh.
Người ta có thể so sánh những hệ số tài chính chuẩn này với các hệ số của một công ty nào đó để xem xem liệu chúng khác nhau hay tương tự.

nouvelleimage1iq3.png



Bạn có thể thấy ngay là các con số trong bảng cho thấy rằng với thời kỳ 7 năm, sự tiến triển trong khả năng thanh toán và sinh lời của công ty lớn hơn khả năng thanh toán và sinh lời của của toàn ngành công nghiệp mà công ty này hoạt động. Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ của công ty giảm, một phần do tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần tăng mạnh, nhưng vẫn lớn hơn mức trung bình của ngành. Hơn nữa, bạn có thể thấy ngay rằng nói chung khả năng thanh toán và sinh lợi cũng như khả năng trả nợ lại lớn hơn các công ty cùng ngành. Có một điểm kém hấp dẫn là biến động trong đòn bẩy tài chính của công ty (nợ trên vốn cổ phần), hệ số này đã lên đến 45% và vào thời điểm năm 1995 đã cao hơn hẳn mức trung bình của ngành. Yếu tố này cho thấy rằng trong tương lai công ty nên phát hành cổ phiếu hơn là trái phiếu nhằm giữ hệ số nợ trên vốn tương đương với mức hợp lý của ngành. Bảng 5 cũng cho thấy mặc dầu tỷ lệ tăng trưởng của công ty tương đương với mức trong toàn ngành nhưng tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) lại cao hơn, chủ yếu là khả năng thanh toán cũng như danh tiếng của công ty vượt trội so với toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ đánh đổi rủi ro lợi nhuận của công ty vào năm 1988 tương đương mức toàn ngành như đã thấy trong hệ số đồng biến thiên. Các nnhà đầu tư hiển nhiên nhận thấy sự tăng trưởng trong tỷ lệ nợ trên vốn là đáng báo động, do vậy, tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) giảm từ 10,5 năm 1988 xuống 10,0 năm 1995, trong khi đó tỷ lệ P/E của ngành không thay đổi trong cùng kỳ.

Việc chi tiết hoá các hệ số như trong bảng 5 giúp các công ty chỉ ra được những điểm yếu và điểm mạnh trong hoạt động cuả mình. Như vậy, việc phân tích các hệ số cung cấp cho các nhà quản lý những công cụ để cải thiện và phát triển hoạt động của công ty.

Hạn chế của việc phân tích hệ số.

Các hệ số tài chính chỉ cung cấp một phần thông tin cần thiết để đánh giá hoạt động và hiệu quả chung của một công ty. Các yếu tố thống kê khác như rủi ro, cần được tính đến để có được một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của một công ty.

Ngoài ra, việc so sánh các hệ số có thể dẫn đến sai lầm ở một số phép tính. một công ty có thể đã thông qua các chuẩn mực kế toán mới, tức là công ty này đã chuyển từ cách đánh giá hàng dự trữ FIFO : first in first out (nhập trước xuất trước) sang LIFO : last in first out (nhập sau xuất trước). Công ty có thể đã đổi từ phương pháp khấu hao trực tuyến sang phương pháp khấu hao tăng tốc. Thông qua việc sát nhập, công ty có thể được xác định thuộc ngành công nghiệp mới. Tương tự, giá trị tài sản của công ty có thể được khai chưa đúng giá trị do lạm phát cao. Một vài số liệu ngành có thể cũng đã sai lệch, đặc biệt nếu các số liệu trung bình có tính đến nhiều công ty nhỏ, yếu về tài chính.

Bạn cũng cần thận trọng để đánh giá loại nợ mà công ty bạn đang nghiên cứu phái gánh chịu. nếu các khoản vốn được huy động bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi đã đến hạn thanh toán hoặc được chuyển đổi sớm, thì việc giải thích hệ số D/E sẽ khác với khi nợ thể hiện bằng các đợt trái phiêu scó lãi suất cố định. Tương tự, một số công ty có thể huy động vốn đầu tư của mình bằn các khoản thuê ngắn hạn. Do đó, một số hệ số tài chính sẽ được công bố không chính xác do kết quả của cơ cấu tài chính này. Điều này đặc biệt đúng đối với hệ số thu nhập trên đầu tư ROI (return on investment).

Cũng nên thận trọng khi sử dụng các dữ liệu được công bố, vì các số liệu ngành đôi khi chỉ thể hiện cho các công ty hoạt động tốt nhất và có tình hình tài chính khả quan. Ngoài ra, việc phân loại các công ty cụ thể thành một ngành là rất khó khăn, vì hầu hết các công ty đều có dây chuyền sản xuất khác nhau. Vấn đề này có thể làm sai lệch so sánh các hệ số của công ty với các hệ số của ngành.
Ngoài ra, cũng nên dè chừng với các công ty tìm cách thao túng những con số của mình bằng cách bán tài sản của mình hay những thủ thuật đối với chi phí thay thế. Mặc dù nghiệp vụ kế toán đã được cải tiến nhằm giải quyết các vấn đề này, nhưng có nhiều cách giải thích và phương pháp khác nhau trong việc lập các báo cáo tài chính có thế che dấu điểm mạnh hay điểm yếu thực tế của một công ty. Do vậy, khi thực hiện phân tích các báo cáo tài chính và các hệ số tài chính, cần phải biết rằng các nhà phân tích và các nhà quản lý có thể đưa ra các giải thích khác nhau. Tóm lại, cần thận trọng khi phân tích một công ty dựa trên cơ sở các hệ số tài chính. Phải tính đến các hạn chế có liên quan đến các hệ số này./.
 
Bài 19 : Bảng cân đối kế toán

Xem xét bảng cân đối kế toán của một công ty vào ngày 31 tháng 12, 200N

clip_image002.jpg


ck2pm1.png


(*Bảng cân đối này dưới dạng gif gồm hai phần, do kích cỡ ảnh to quá nên tktung chia làm 2, các bạn khi làm, nhớ ghép các mục lại trong một bảng tính excel.*)

A-PHẦN NỢ.

Phần nợ cho biết các khoản nợ của công ty. Một số khoản nợ này phải được thanh toán trong một thời gian ngắn (Nợ ngắn hạn) trong khi một số các khoản nợ khác phải được hoàn trả trong nhiều năm (nợ dài hạn).

Nợ ngắn hạn

Nợ ngắn hạn là các khoản nợ dưới một năm. Chúng được xác định bởi từ “phải trả” thường được dùng dưới đây:

Các khoản phải trả: Số tiền mà một công ty mua chịu hàng hoá và dịch vụ đang còn nợ.
Các khoản khoản vay ngắn hạn phải trả: Khoản vay ngắn hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Cổ tức phải trả: Tiền cổ tức đã được tuyên bố nhưng chưa trả.
Các khoản thuế phải nộp: Số tiền mà công ty còn nợ Chính phủ.
Lãi phải trả: Số tiền lãi công ty nợ đối với các khoản vay nợ dài hạn.

Nợ dài hạn:

Nợ dài hạn là khoản nợ có thời hạn từ một năm trở lên mà công ty phải trả. Ví dụ trái phiếu và các khoản vay nợ dài hạn của ngân hàng.


Ví dụ: Nợ dài hạn
Giấy nợ 9% hạn 2015: $300.000

=>Giấy nợ 9% hạn 2015: $300.000

PHẦN VỐN CỦA CÁC CỔ ĐÔNG

Phần vốn của các cổ đông thể hiện các giá trị thực của công ty. Nó chỉ ra mức độ quan tâm về sở hữu của các cổ đông. Bảng dưới đây phân biệt các loại cổ phiếu khác nhau:

Cổ phiếu ưu đãi phản ánh trên bảng tổng kết tài sản dựa trên mệnh giá. Thường mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi là $100. Trong một số trường hợp, cổ tức của các cổ phiếu ưu đãi được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá. Trong ví dụ trên, cổ tức hàng năm cho cổ phiếu ưu đãi là $6 ($100 x 6%)

Cổ phiếu thường được phản ánh trong bảng tổng kết tài sản dựa trên mệnh giá của các cổ phiếu thường của công ty. Mệnh giá chỉ để sử dụng cho mục đích ghi số sách. Mệnh giá cổ phiếu thường không ảnh hưởng đến gía thị trường của cổ phiếu. Giá thị trường của cổ phiếu phản ánh yếu tố cung cầu của cổ phiếu cũng như trình độ quản trị công ty và khả năng tạo ra lợi nhuận.

Thặng dư về vốn là số tiền các cổ đông trả theo mệnh giá cho các cổ phiếu công ty bán cho công chúng. Nó cũng được xem như là vốn góp. Nó không bao gồm vốn mà công ty nhận được từ lợi nhuận kinh doanh.

Thu nhập giữ lại thể hiện lợi nhuận ròng được dành lại sử dụng cho tương lai. Cổ tức thường được trả từ thu nhập giữ lại ./.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
khi mua bán qua thị trường tập trung, người ta đặt lệnh mua và lệnh bán để giao dịch cổ phiếu, các lệnh đó sẽ được máy tính tổng hợp lại và khớp các lệnh mua, lệnh bán với nhau sao cho lượng giao dịch được nhiều nhất. Muốn biết cụ thể hơn bạn có thể xem lại các bài viết ở trên :)
 
Cho ví dụ đi Kiên ơi.
Tớ vừa học ở chương "Sở giao dịch chứng khoán" tuần trước nhưng giờ chẳng nhớ gì cả.
Thế còn thị trường phi tập trung OTC với Sở giao dịch chứng khoán khác nhau ở điểm nào?
 
Những thứ này các em phải hỏi Tống Tuấn ấy, vua lướt của HOSE đấy. Nó nhả ra một tý thôi là ok rồi, học làm gì những thứ sách vở thừa mứa mà không thực tế đó.
 
Cho ví dụ đi Kiên ơi.
Tớ vừa học ở chương "Sở giao dịch chứng khoán" tuần trước nhưng giờ chẳng nhớ gì cả.
Thế còn thị trường phi tập trung OTC với Sở giao dịch chứng khoán khác nhau ở điểm nào?

câu này hình như là câu hỏi thi môn thị trường CK của mình :)) nói một cách dễ hiểu thì thế này.Ai cũng biết cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty.Và người sở hữu cổ phiếu hình thành một nhu cầu mua bán,trao đổi chuyển nhượng.Trước đây khi ttck chưa phát triển thì mọi người mua bán trao tay,viết giấy chuyển nhượng,và nôm na gọi là thị trường OTC.Đặc điểm của thị trường này là ko có thời gian,địa điểm giao dịch cụ thể,thuận mua vừa bán,khi tt phát triển cao hơn thì giao dịch tại các công ty CK,các ngân hàng,nên mới có tên là OTC(over the counter).Khác với tt niêm yết là mua bán theo giá khớp lệnh,tại địa điểm là sở giao dịch,trong thời gian giao dịch,qua tài khoản lưu ký tại các công ty CK.Nói đơn giản là như vậy,còn chính xác ra thì phải cóp nguyên xi từ giáo trình ra cơ.Nhưng làm sao đưa file PDF lên trên này được nhỉ?
 
nói thế là dễ hiểu rồi, một cái là giao dịch trực tiếp kiểu mua bán trao tay, còn một cái là thông qua trung gian, người mua và người bán không hề biết nhau mà giao dịch vẫn được thực hiện.
@ anh Tất Cường: đúng là lí thuyết biết cho vui thôi nhưng cái danh hiệu vua lướt HOSE sao em chưa nghe thấy nhỉ, mà đẳng cấp ở mức đấy làm sao em gặp được
 
Back
Bên trên