Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

'thượng lộ' là một từ rất TQ, nó chỉ tính chât là anh đang ở trên đường không cần biết anh có đi hay không. Chính vì thế nếu anh đứng yên một chỗ ở trên đường đã gọi là anh đang thượng lộ rồi.
i, y đúng đầu đứng cuối theo kiểu chị thì 'ỉa' = 'ỷa' 'ỉn=ỷn' à
'xum xuê' mới đúng nếu chị muốn thì cứ tra từ điển Tiếng Việt thì biết không có từ "sum sê" đâu.
 
cả chữ 's' và 'x' không thể dùng thay thế cho nhau được. Chỉ tội người miền bắc phát âm s với x lẫn lộn nên không biết dùng cái nào thôi(người miền bắc không có âm 's').
xanh=màu sắc, sanh= cái vật gần giống như hũ.
xe= vehicle, se= khô(làm khô).
sa= cát, xa= khoang cách.
xà= rắn, sà=động từ .
sú=cây, xú=không tốt(trong xú uế).
sổ=cái để in, viết, xổ= hành động.
xinh=dễ nhìn, sinh= đẻ.
sao= star, xao=trong xao xuyến, xao lãng.
siêu= hơn, vuợt quá, xiêu= nghiêng
xen=insert,sen= hoa(hay con ở)
.................
x và s không thể dùng lẫn lộn được
 
Em xin nói về cách dùng từ ghép của người Việt, có nhiều từ rất buồn cười:

1. Tin tức : tại sao cứ nói đến tin lại là tin - tức. Nghĩa là hình như cứ có tin là phải tức.

2. Chợ búa: người Hà Nội rất hay dùng từ này, đặc biệt là các mẹ các cô. Chợ có bán búa đâu mà lại để 2 từ này đi gần nhau.

Bên cạnh đó , em có câu chuyện này để chị Tố nghĩ sao:

Ngày xưa trong các cuộc họp, Bác Hồ không bao giờ viết là anh mà Bác lại viết là enh. Mọi ngươig nghĩ sao về vụ này, theo em thì Bác viết thế là hòn toàn đúng. Chữ anh trong tiếng Việt là 1 sai sót của chúng ta. Từ anh không thể được đọc như bây giờ. Đúng như Bác làm, muốn đọc đúng từ đó, chúng ta phải viết đúng:
Không thể là anh, mà phải là enh.
Nếu không tin mọi người cứ thử đánh vần mà xem.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Về cái vụ "Giảm thiểu đến mức thấp" tớ thầy hoàn toàn OK. Vì như ô nhiễm chẳng hạn, đang ở mức cao do phát thải ở mức cao, mình có thể "giảm thiểu" phát thải chất ô nhiễm xuống. Nhưng xuống đến đâu: có thể là mức trung bình hay thấp tùy theo khả năng và tiêu chuẩn. :)

Nhưng nếu nói "giảm thiểu đến mức thấp nhất" thì lại cũng vẫn khó hiểu vì "thế nào là thấp nhất". :(

Còn về vụ "chợ búa", xin báo cáo các đồng chí là "búa" cũng có nghĩa là chợ nhé :)) Đây là 1 đặc điểm ngữ pháp rất hay của tiếng Việt đấy: sử dụng từ ghép gồm 2 bộ phần thành phần có nội dung ngữ nghĩa giống nhau, mục tiêu chủ yếu là để nhấn mạnh nội dung. Ví dụ như các từ: phố xá, chòm xóm, làng bản, rừng rú,... (chẳng lấy được nhiều ví dụ lắm vì nghĩ mãi không nhớ ra được ... nhưng ngày xưa đi học phải làm bài tập về cái hiện tượng này rồi... nên khi nào nhớ ra thêm được sẽ bổ sung. Nhờ mọi người bổ sung nữa chứ nhể :)
 
Mà ngày xưa Bác Hồ dùng nhiều từ khác bây giờ lắm "Đường Kách Mệnh" chứ không phải là "Đường Cách Mạng" đâu

Nhưng từ bấy đến nay đã mấy chục năm rồi, theo ngữ pháp tiếng Việt bây giờ thì nguyên âm "e" không ghép được với cặp phụ âm "nh" nữa. Ngôn ngữ không phải là bất biến, nên không thể nói là Bác Hồ nói thế mới đúng, mặc dù Bác rất siêu. "enh" có thể đúng vào thời điểm Bác Hồ sử dụng nó nhưng bây giờ thì "anh" mới đúng cơ.

Theo mình biết thì ngôn ngữ nào cũng vậy, thay đổi rất nhiều qua thời gian.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
tại sao không? Lệnh?

Còn nếu là enh thì :D hình như phát âm còn khó nữa là!!
 
Em còn nhớ Bác rất hay sử dụng chữ Z . Nhưng em lại quên mất những từ mà Bác dùng. Có anh chị nào nhớ không ????
 
Hoàng Lê Vĩnh Hưng đã viết:
i, y đúng đầu đứng cuối theo kiểu chị thì 'ỉa' = 'ỷa' 'ỉn=ỷn' à

Cảm ơn em Hưng nhé, thế mà chị không nghĩ ra. Từ trước đến giờ toàn viết theo thói quen thôi, đã bao giờ hiểu hết cặn kẽ 100% là vì sao đâu. Thế mới biết "Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp VN", mà chính tả còn khó hơn nữa.
 
Em còn nhớ Bác rất hay sử dụng chữ Z . Nhưng em lại quên mất những từ mà Bác dùng. Có anh chị nào nhớ không ????

Anh thì trí nhớ kém, chả nhớ được mấy, nhưng đoán là được dùng trong câu "Enh em zúp bác làm kách mệnh, ziết zặc nhé!!!"

/Thanh
 
Không phải câu đó đâu anh. Còn 1 chuyện nữa, người Nghệ An khi nói âm R , họ nói rất chuẩn. Chúng ta có thể thấy đầu lưỡi của họ rung lên bần bật. -------> thế mới chính xác với các phát âm trong SGK.
Nhưng người Hà Nội lại không hề. Mang tiếng alf dân Thủ Đô nhưng chúng ta có ai nói chính xác chữ R đâu. Tất cả chúng ta đều có thể nói được âm đó nhưng trong cuộc sống hàng ngày hầu như ko ai phát âm chuẩn R. Tất cả mọi người đều biến âm R thành âm D.
Không biết có khi nào hay sẽ bao giờ người Hà Nội lại có thể phát âm chuẩn cái chữ R này. Ngay cả bản thân em nói thế thôi chứ cũng không quen nói chữ R chính xác.:cool:
 
Đúng ra thì người HN nói đâu có chuẩn R hay Tr đâu. Vấn đề là nói nặng quá lưỡi nó rung nhiều thì cũng buồn cười. Nhưng mà nhiều lúc nói sai cũng hay đấy chứ, tiếng Việt đa dạng và phong phú.
Ví dụ: Mùa hè đang đến gần. Trong trường chị em bắt đầu nâng cao hạ thấp, nên phải sắm 1 đôi kính "dâm" :cool: để đeo cho đỡ bị lộ, khỏi bị chê là mất lịch sự :D:))
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Không phải là người Hà Nội KHÔNG THỂ nói được chữ R và TR mà là kiểu nói của người Hà Nội phát âm các từ bắt đầu bằng R và TR khá nhẹ nên nghe "R" cứ như "D" hoặc "GI", còn "TR" cứ như "CH". Và nhiều người vì thế khi viết cùng nhầm. Nhưng chị vẫn nói chữ TR đấy, nhưng không nặng như người miền Trung. Chữ R thì nhiều khi có phát âm uốn lưỡi, nhiều khi không :) Và chị thấy nhiều người Hà Nội cũng nói như vậy mà.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Mọi người quên là chính tả quốc ngữ ngày nay là lấy từ phát âm của người miền Trung ả? Còn từ vựng là của miền Bắc!

Người Miền Trung và miền Nam thì rất hay nhầm trong phát âm dấu ~ với dấu ? - cũng như mấy tỉnh bắc bộ giữa chữ L với chữ N :D
 
Có ai biết là viết từ "dấu giếm" hay "giấu diếm" là đúng không nhỉ? Làm ơn chỉ cho em với, lâu không viết tiếng Việt quên hết cả. Người ta viết "che dấu" hay "che giấu"? Thanks các bác rất nhiều.
 
Theo tớ thì cả 2 đều sai ạ :D. Từ đúng là "giấu giếm" cơ (với nghĩa là che giấu, không để lộ ra).

"Dấu" mang nghĩa như trong "con dấu" "dấu âm dương" "dấu vết"...
 
Úi giời, bàn luận thế này thì vô tận. Nói chung chẳng sai đâu, tiếng nói và chữ viết thay đổi theo thời gian mà. Nói ví dụ tiếng Anh, lâu hơn tiếng Việt nhiều, cũng có rất nhiều thay đổi. Ngồi học vắn Shakespeare, chẳng hiểu gì hết vì dùng has => hath, from here => hence... Shall cũng không được dùng nữa, tất cả các ngôi đều dùng Will
Mấy thằng Đức còn kêu tiếng của nó cũng stupid. Bọn nó đang cố bỏ cái chữ beta đi...
 
Cảm ơn Quỳnh nhiều nhé. Tại sao không học tập Bác Hồ mà dùng chữ Z, có phải đơn giản hơn bao nhiêu k nhỉ? Zấu Ziếm, che zấu...... Hình như trong di chúc Bác Hồ viết "Đơn zản", "zản zị"?
 
Có bài này hay hay về sự chuyển hóa của tiếng Việt. Em post mọi người đọc cho vui :)

Tiếng Việt Dễ Mà Khó
Nguyễn Hưng Quốc

Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Điển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành nhà văn được.

Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được.

Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1)

Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn.

Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả.

Tôi mới biết là mình mừng hụt.

Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng".

Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40)

Đọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng) , người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên uỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"?

Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v...

Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Ấm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v...

Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Đến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Điều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả.

Đặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ?

Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Điều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Đúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TáT; nhưng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TáC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TáC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4)

Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Đứng một mình là một. Đứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Đứng một mình là năm. Đứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi": hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ.

Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v...

Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Đã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Đã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Đã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Đã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Đã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái".

Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v...

Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v....

Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).

Điều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Đút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại.

Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau.

Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Đụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân.

Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại.

Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm éT hay ẹT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC - ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v...

Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng:

Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Điều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn.

Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v...

Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế.

Nguyễn Hưng Quốc



Chú thích:

1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi: Trăm Hoa, tr. 169.

2. Lê Trung Hoa, "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm", in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225.

3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80.

4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên.

5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêmcuốn Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố HCM, 1994.
 
Back
Bên trên