Đào Huy Kiên
(spider kien)
Thành viên<br><a href="http://www.hn-ams.org/forum
Chuyện anh nhà văn trẻ
-spiderkien-
Trong ba phẩy tư triệu con người ở cái đất Hà Thành, có đủ những cảnh đời khác nhau. Có những vị chỉ chịu đặt gót giầy của mình lên những toà nhà vài chục tầng, thứ mà mỗi sáng đẹp trời thức dậy bước ra đường Láng Hạ bạn lại thấy một cái mới, hay lên sàn của những chiếc xế hộp nhập ngoại, thứ mà tiền thuế đánh vào nó gần bằng tiền xe. Có những người mỗi buổi chiều tan sở lại sà vào những quán bia ồn ào thoả sức hét những tiếng “dzô” hòng làm cho cái cuộc đời tẻ nhạt của mình sôi động lên một chút. Rồi có những bà nội trợ dành thời gian rảnh rỗi của mình trong những siêu thị rộng mênh mông mua đủ những thứ linh tinh với một ước muốn tột cùng là làm vơi đi cái ví chật ních tiền và làm chật thêm ngôi nhà còn trống vắng tình cảm của mình. Nhưng cũng có những bà gánh hàng rong mặt mũi in dấu nắng sương bôn ba khắp các hang cùng ngõ hẻm để rồi mỗi tối quẩy hàng về sung sướng với dăm ba chục ngàn bạc lẻ. Thông cảm với nỗi vất vả của họ, Nhà nước ta chuẩn bị cấm cái nghề đen bạc ấy với ước muốn đem lại cho những con người ấy một cuộc sống nhàn hạ hơn. Rồi lại có những anh phu hồ với đôi dép cao su rách nát và quần áo lếch thếch tối tối lại ngồi bên nhau trong chiếc lán rách chuyện trò rôm rả, cái cảnh sống đầm ấm của họ khiến những người dân thị thành phải chạnh lòng vì gia đình mình cả ngày chẳng mấy khi nói với nhau được một câu tử tế. Thôi thì còn vô khối những thân phận khác trong cái thủ đô ngót ngàn năm này nhưng trong số đó có một chuyện đời đặc biệt hơn cả, một sinh vật kì lạ rơi vào lòng thành phố, một anh nhà văn trẻ mà tôi sắp kể cho các bạn đây.
Anh nhà văn của chúng ta luôn xuất hiện với một chiếc áo sơ mi trắng đã dần chuyển sang màu cháo lòng sơ vin bên trong chiếc quần đen. Và tuỳ vào mức độ trang nghiêm của cái nơi mà anh đặt chân đến, bạn sẽ thấy hoặc anh xỏ đôi tổ ong nứt nẻ, đôi dép quai hậu sờn bạc, hay đôi giày da bóng lộn được anh tự tay đánh xi. Thường thì anh đi đôi dép quai hậu. Phải nói thật là trang phục của anh rất hợp mốt nếu như anh sống trong những năm đầu thập kỉ chín mươi của thế kỉ trước. Thế nhưng anh không hề lấy làm phiền lòng với hành trang nghèo nàn mà anh mang trên người. Anh tự hào mình có những ưu điểm làm lu mờ mọi khuyết điểm của mình. Anh có một khuôn mặt sáng sủa với những đường nét hài hoà cân đối tôn lên cái vẻ nam tính của anh. Cứ mỗi khi đi qua một chiếc gương anh lại dừng lại một lúc để ngắm nhìn cái gương mặt mà anh cho rằng bất cứ người con gái nào cũng bị nó hấp dẫn, và họ chỉ ra vẻ dửng dưng để cố che giấu những nhịp tim loạn xạ của mình mà thôi. Không, không phải khuôn mặt mà sự tự tin chính là ưu điểm lớn nhất của anh. Anh đặt mình cao hơn những con người tầm thường chúng ta một bậc. Tư tưởng của anh lớn lao vượt qua hết thảy bọn họ, những người suốt đời chỉ quẩn quanh với mong muốn được nếm những món ăn ngon và mặc những quần áo đẹp. Anh chỉ thừa nhận mình thua kém các bậc vĩ nhân nhưng anh hãy còn nhiều thời gian để bắt kịp họ. Đó chỉ là vài nét phác hoạ sơ sài về nhân vật đặc biệt của chúng ta và thật là thiếu sót nếu không nhắc đến cái hoàn cảnh đã tạo nên thân phận ấy. Thời niên thiếu của anh gắn với thành Nam, nơi sản sinh ra không biết bao nhiêu văn nhân tài ba xứ Bắc Kì như Tú Xương hay Nguyễn Bính, nhưng cũng là một miền đất nghèo nàn trì trệ mà nỗi buồn bã chán chường hằn cả lên kiến trúc nơi đây. Bức tượng Hưng Đạo đại vương đứng bên hồ Vị Xuyên uy nghiêm, hùng dũng là thế nhưng cứ đến buổi chiều tà khi mặt trời núp bóng sau nóc nhà thờ lớn, những quầng sáng nhạt đỏ vảng vất trên bầu trời lại phản chiếu ánh buồn xa xăm trên khuôn mặt Đức Thánh Trần. Anh nhà văn trẻ để ý thấy nét buồn của pho tượng đôi khi giống nét buồn trên khuôn mặt mẹ anh. Mẹ anh thuở thanh xuân vốn là người đẹp nổi tiếng thành Nam, gia đình có thế, lại thêm tài thi phú, bao tài tử hào kiệt theo đuổi nhưng cuối cùng bà lại lấy một người lính hết sức bình thường là cha anh. Cha anh say sưa tối ngày để mặc mẹ anh vất vả gánh vác gia đình với nghề giáo viên lương ba cọc ba đồng. Tuy vất vả là thế nhưng mẹ anh chẳng bao giờ nhận một đồng tiền nào của phụ huynh. Bởi thế những dịp hai mươi tháng mười một người ta ý tứ đem những chai rượu đến tặng để bà chịu nhận mà đem bán lấy tiền trang trải cho gia đình. Nỗi vất vả không khiến nhan sắc của bà tàn phai nhưng lại khiến người thiếu nữ sôi nổi ngày nào trở nên trầm lắng và tâm hồn bỗng khép cửa với thi ca. Dẫu sao người mẹ đã truyền cho anh nhà văn trẻ cái nét tài hoa của bà. Mười tám tuổi, anh rời quê hương để tới với thủ đô ngàn năm văn hiến khi nhận được giấy báo trúng tuyển vào khoa Luật đại học quốc gia. Sự đời thật oái oăm, một chàng trai với tâm hồn phóng khoáng, đầy thi vị lại phải gò mình trong những bộ luật khô khan và trong một căn phòng trọ hai mươi mét vuông cùng một người nữa. Nhưng có sống trong sự tù túng của hoàn cảnh, người ta mới thấy tâm hồn mình trở nên bay bổng. Ngày ngày, sau khi vật lộn với những Nghị định, nghị quyết, văn bản luật mà đến cái tên cũng chỉ là những kí tự và những con số vô cảm, anh nhà văn trẻ lại sống với những trang viết của mình. Anh ngồi trên giường, văn nằm trên chiếc ghế nhựa, và tâm hồn thỉnh thoảng dạo chơi quanh cái tương lai tươi sáng của một văn sĩ nổi tiếng. Mỗi khi viết xong một truyện ngắn anh lại lọc cọc đạp xe đến toà soạn một tờ báo đem gửi. Sau khi cô biên tập viên hào hứng chỉ ra những từ ngữ cần phải lược bỏ, những chi tiết cần phải thêm vào thì truyện của anh nhà văn trẻ được đăng với nội dung hoàn toàn xa lạ với cái bản gốc của nó. Nhưng điều đó thì có gì quan trọng, điều quan trọng là truyện của anh được đăng! Tổng cộng anh được đăng ba truyện trên hai tờ báo mà sự xuất hiện của chúng trên những sạp báo chẳng được mấy người để ý. Mỗi lần như thế anh nhận được nhuận bút một trăm ngàn, một số tiền nhỏ nhưng đem lại một niềm tin mãnh liệt vào thành công trong nghiệp văn của anh. Ôi chàng trai trẻ với những mộng mơ hoài bão, anh đẹp hơn bất kì chàng công tử nhà giàu ăn diện bảnh bao nào!
Một người với tâm hồn thi vị như thế hẳn là phải đa tình. Nhưng chuyện tình duyên của anh lại có nhiều trắc trở. Anh luôn mơ về một thiếu nữ Hà thành đoan trang, dịu dàng, tài hoa với một tâm hồn phong phú nhạy cảm. Bằng trái tim nồng nhiệt và sự táo bạo của mình, anh sẽ đem lại cho nàng tình yêu đẹp nhất, lung linh nhất, tinh khiết nhất. Con tim anh không ngừng thổn thức nghĩ về nàng. Nàng đặt chân vào cả những giấc mơ của anh, khuôn mặt không thấy rõ, chỉ có dáng hình nàng lộ ra những đường cong duyên dáng. Nhưng vẻ đẹp của nàng cũng không làm anh quên đi thực tế là anh không thể đến được với nàng, ít ra là trong một hai năm tới. Đối với anh trước mắt chỉ có sự nghiệp, tình phí là một thứ gì đó quá đắt đối với một kẻ hầu như chẳng có gì như anh. Thử nghĩ mà xem, hàng tuần anh sẽ mất bốn mươi ngàn đưa nàng đi xem phim(đấy là nếu không xem vào buổi tối hay cuối tuần), rồi vài chục ngàn đưa nàng đi ăn chè hay đi uống trà sữa. Một khoản tình phí nữa xuất hiện không định kì nhưng có phần nặng nề hơn cả là khoản tặng quà hay hoa trong ngày sinh nhật hay những ngày lễ cho phái nữ mà qua mỗi năm số ngày như thế lại tăng lên theo cấp số nhân. Tính sơ sơ một tháng anh cũng phải mất ngót bốn trăm ngàn để nuôi tình yêu của mình. Đó là một sự xa xỉ mà anh không được phép. Dù sao thì mơ về nàng cũng không mất tiền nên anh vẫn tiếp tục mơ…
Thế rồi một ngày kia, hình ảnh cô thiếu nữ Hà Thành bỗng dưng bị xao nhãng khi anh nhận được một bức thư từ toà soạn. Bức thư đã gây cho anh những rung động lạ kì. Một cô gái Tuyên Quang đã gửi thư bày tỏ niềm hâm mộ sau khi đọc truyện ngắn của anh và xin được làm quen. Như vậy ít nhất trên đời đã có một người đồng cảm với anh. Anh bắt đầu mơ mộng. “Cô gái này liệu trông thế nào nhỉ?”. Anh mường tượng ra một khuôn mặt thanh tú, ngây thơ, thánh thiện của một cô sơn nữ. Nghĩ đến câu “Chè Thái, gái Tuyên” làm khuôn mặt cô trong trí tưởng tượng của anh dần mang vẻ đẹp sánh với nàng Tây Thi. Anh lập tức hồi đáp với những lời lẽ đứng đắn mà nồng nhiệt, trong lòng đầy hi vọng về một điều kì diệu. Anh tự hỏi liệu có phải định mệnh đã sắp xếp cho anh cuộc gặp gỡ này, liệu có phải đây là điểm khởi đầu của một thiên tình sử tuyệt đẹp mà anh đóng vai nhân vật chính. Hai người xa cách đến với nhau từ những bức thư, mối tình của anh và cô sẽ còn đẹp hơn mối tình trong “Cô tiểu thư nông dân” của Puskin. Vài ngày sau, bức thư tiếp theo của cô lại củng cố trong anh những mơ mộng yêu thương. Mặc dù bức thư mắc đầy lỗi chính tả nhưng điều đó không làm lung lay ý nghĩ của anh rằng tâm hồn cô đẹp như bông sen trên mặt nước hồ. Anh viết một bức thư lại chứa đầy những tâm sự chân thành và bày tỏ mong ước được xem ảnh của cô. Bức thư tiếp theo được gửi đến và đó cũng là bức thư cuối cùng trong thiên tình sử của anh nhà văn. Những bức ảnh gửi kèm trong phong bì là nguyên nhân của dấu chấm hết nghiệt ngã ấy. Niềm hi vọng, chờ mong bỗng chốc biến thành nỗi thất vọng. Những tấm ảnh chụp một cô gái luôn xuất hiện với nụ cười gượng gạo dính trên khuôn mặt bèn bẹt và dáng dấp thì trông quá đỗi quê kệch. Hình ảnh người thiếu nữ Hà Thành lại bừng hiện lên trong tâm trí anh…
Một lần khác, anh nhà văn trẻ bỗng nhận được một tin nhắn lạ: “Anh gì đẹp trai ơi, anh đã có người yêu chưa?”
Anh đáp lại:
- Chưa có. Nhưng em là ai vậy?
- Một người con gái đang cô đơn.
Suốt tối hôm đó, anh và cô gái bí ẩn nhắn tin cho nhau với lời lẽ đùa cợt, tán tỉnh. Cuối cùng cô gái cũng tiết lộ tên mình. Lại một lần nữa anh thất vọng. Thì ra là một trong hai cô gái mới đến trọ cùng khu anh hôm trước. Cô có khuôn mặt sắc cạnh trông hơi ác nhưng điểm khiến anh nhà văn trẻ của chúng ta xếp cô vào hạng mục những cô gái cần tránh tiếp xúc là chất giọng Thanh Hoá rất nặng của cô. Cái cách cô đọc chữ “vũ” thành chữ “vú” khiến anh rùng mình. Anh hối hận vì đã phung phí cả chục tin nhắn cho cô. Đêm hôm ấy, anh mơ thấy cô trong một cơn ác mộng.
Hai lần thất vọng ấy không làm cho anh nhà văn trẻ thôi mộng mơ về một mối tình đẹp như trong những tiểu thuyết anh đã đọc. Kết cục mối tình ấy có thể là một đám cưới hay một cuộc chia ly nhưng chắc chắn là nó phải đầy thi vị. Tình yêu của anh sẽ đem lại cho người con gái anh yêu một hạnh phúc ngỡ ngàng như chàng thuyền trưởng của chiếc tàu với những “cánh buồm đỏ thắm”, hay sẽ cất lên một khúc ca bi tráng kì vĩ của định mệnh như mối tình giữa cô “thiếu nữ đánh cờ vây” Trung Hoa với chàng sĩ quan điệp viên Nhật Bản? Tình yêu ấy sẽ chứa những khao khát và hi sinh như mối tình trong “kí ức của một geisha” hay sẽ muộn màng và đầy những ích kỉ như tình yêu của nàng Scarlett O’Hara dành cho Rhett?
Anh nhà văn trẻ thường lên thư viện trường mình đọc sách văn học. Anh tìm thấy trong những trang sách những lối viết văn phong phú và độc đáo của các bậc thầy, những câu chuyện làm giàu thêm tâm hồn anh. Và một ngày kia, anh đã tìm thấy ở thư viện một người con gái… cho câu chuyện tình của anh…
Ngay từ lần đầu tiên bước vào ánh mắt của anh, cô đã gieo vào lòng chàng văn nhân thành Nam những xúc động sâu sắc. Cô ăn mặc giản dị, chỉ quần bò và áo sơ mi trắng, nhưng vẫn toát ra một nét duyên thầm của người con gái. Khuôn mặt cô nhẹ nhàng, đôi mắt thông minh, giàu sức sống đằng sau cặp kính cận. Hàm răng cô đẹp và đều như hạt bắp khiến chàng trai nào cũng muốn ngắm cô cười. Cô đến ngồi ở chiếc bàn ngay trước anh. Cô làm anh quên mất cuốn sách trong tay mình. Dường như cô mới chính là cuốn sách anh đang đọc. Anh lắng nghe từng hơi thở của cô, chăm chú theo dõi mỗi khi cô đưa tay vuốt mái tóc dài ép thẳng.
Tối hôm ấy, sau khi kết thúc công việc làm gia sư của mình, dù mệt mỏi vì phải đánh vật với thằng nhóc dốt đặc không biết tiếp thu, anh vẫn hăm hở lao vào viết một truyện ngắn trong đó hai nhân vật chính là anh và cô gái anh gặp ở thư viện. Anh nghĩ cô gái đeo kính có cặp mắt thông minh ấy hẳn là một cô gái Hà Nội dù cô có một vẻ đẹp hơi khác so với hình ảnh người con gái trong mơ của anh. Cô có vẻ cởi mở, thông minh, giàu sức sống chứ không mang vẻ dịu dàng, cổ kính của người thiếu nữ Hà Thành trong bức tranh “thiếu nữ bên hoa huệ”. Trí tưởng tượng của anh tiếp tục bay bổng. Những niềm mơ mộng khiến anh quên đi cái đói. Buổi tối anh chưa nhét cái gì vào bụng còn bữa trưa của anh chỉ là một bát mì bò thịt thì ít mà nước thì nhiều.
“Từ cái nhìn đầu tiên anh biết rằng cô chính là người con gái dành cho anh. Định mệnh đã sắp xếp cuộc gặp gỡ ấy. Cô ngước mắt nhìn anh. Có cái gì đó thân thuộc. Dường như cô đã gặp anh từ kiếp trước… ”
Từ hôm đó, cô gái đeo kính hay lên thư viện. Hầu như ngày nào cô cũng lên đây để học bài và đọc sách. Một hôm, cô ngồi cùng bàn với anh. Lúc ấy anh đang đọc quyển truyện ngắn của Jack London. Anh để ý thấy cô đang mải miết làm bài tiếng Anh, trước mặt là cuốn sách về những cụm động từ trong tiếng Anh. Khi cô giở quyển sách sang trang thì chiếc bút của cô rơi xuống đất lăn về phía chân anh. Anh nhặt chiếc bút trao cho cô bằng một phản xạ hết sức tự nhiên.
- Cám ơn anh.
Lời cảm ơn của cô khiến anh xúc động đến nỗi những lời văn của anh đúng lúc cần dùng thì lại biến đi đâu mất. Giọng cô cũng bình thường thôi nhưng anh nghe như tiếng đàn của nàng Kiều nỉ non. Bình thường anh tự tin là thế mà lúc này đầu óc anh rối loạn lạ thường. Cuối cùng anh chỉ nở một nụ cười để đáp lại vì mọi câu nói lúc này đều trở nên sáo rỗng. Rồi anh tiếp tục quay lại với Jack London và thầm tiếc vì bỏ lỡ cơ hội gợi chuyện với cô gái đeo kính. Chợt cô quay sang nói với anh:
- Anh đang đọc Jack London à. Em cũng thích truyện của ông lắm.
- Ừ đọc truyện của ông thấy cuộc sống mới quí giá làm sao. “Tiếng gọi nơi hoang dã” quả là một kiệt tác.
- Em lại rất thích câu chuyện một con người và một con sói đua tranh để giành lấy sự sống. Đúng là khi cận kề cái chết, người ta mới khát khao sự sống hơn lúc nào hết.
- Đúng thế. Phải đứng trước những thử thách khắc nghiệt, tầm vóc con người ta trở nên lớn lao hơn, vĩ đại hơn.
- Nhưng những con người ấy hầu như chỉ còn trong những trang sách đúng không anh? Càng ngày càng ít người như thế.
Anh và cô cứ thế chuyện trò tâm đầu ý hợp. Anh thầm cảm ơn Jack London đã đưa cô đến với anh. Tối hôm ấy, hình ảnh cô đọng mãi trong tâm trí anh. Anh viết tiếp truyện tình của hai người.
“Dưới ánh trăng, hai người bỗng gặp lại nhau. Tiếng sáo trúc đã dẫn họ đến hồ nước nơi năm xưa họ đã hẹn ước với nhau…ngày ấy cũng lâu rồi…cũng một đêm trăng khuyết như hôm nay của ba trăm năm về trước”
Ba ngày tiếp theo đối với anh như ba ngày trên thiên đường. Được trò chuyện cùng cô trong thư viện, được khám phá tâm hồn của cô quả là một cuộc phiêu lưu kì thú chẳng khác nào Từ Thức lạc vào cõi tiên. Lúc ấy, mọi nỗi vất vả thiệt thòi của anh như bay biến. Đôi mắt cô tự lúc nào đã nhốt tâm hồn anh vào trong đó. Tới ngày thứ tư, anh đến thư viện với lòng hăm hở. Anh sẽ mời cô đi dự buổi dạ hội ở trường ngoại thương cuối tuần sau. Anh đã mua hai vé, mỗi chiếc giá hai mươi ngàn. Anh sắp tiêu hết số tiền còn lại của anh. Chắc chắn anh sẽ phải sống bằng tiền vay mượn đến cuối tháng nhưng cứ nghĩ đến việc sánh bước cùng cô trong đêm, anh lại quên phắt cái tương lai u ám của mình.
“Tiếng sáo trúc nâng ánh trăng vàng bay bổng trong làn gió nhẹ vi vu nhắc hai người nhớ lại buổi hẹn ước ba trăm năm trước. Hai người bước đến nắm tay nhau lòng vẫn chưa nguôi xúc động…”
Suốt buổi hôm ấy, anh cứ trì hoãn mãi lời mời với cô. Hai người vẫn ngồi bên nhau đọc tiểu thuyết và học tiếng Anh, thỉnh thoảng trò chuyện với nhau. Anh định bụng đến lúc về sẽ hỏi cô. Lúc về hai người cùng nhau ra cổng trường. Khi anh đã thu được hết can đảm để chìa chiếc vé ra thì cô bỗng nói:
- Anh ra hàng phô tô giúp em cái này được không?
Tất nhiên là anh đồng ý. Anh ra hàng phô tô gần đó nhưng đông người quá, nên anh phải chạy ra hàng phô tô tít bên kia đường. Anh chạy như bay mong trở lại càng sớm càng tốt để đưa chiếc vé mời cô. Nhưng đến lúc quay trở lại anh thấy cô đang đứng với một chàng trai cao to, tóc hung vàng, tai đeo khuyên, môi trề và cái mũi thì chẳng có vẻ gì ăn nhập với khuôn mặt.
- A cám ơn anh. Giới thiệu với anh đây là người yêu của em.
Anh đưa cho cô những gì cô cần, bắt tay kẻ tình địch rồi quay lưng từ biệt. Anh chợt nhận ra đôi dép quai hậu của mình đã đứt quai, có lẽ vì anh chạy nhanh quá nên chiếc dép sờn cũ không chịu đựng được thêm. Anh ngao ngán lầm bầm:
“Đúng là không nên yêu!”
Rồi anh cầm đôi vé xé vụn, lòng day dứt về số tình phí bỏ ra mà chả thu lại được gì.
Tối hôm đó anh viết phần kết câu chuyện:
“Anh từ bỏ người mình yêu để sống với văn chương…”
The end
Chỉnh sửa lần cuối: