Chủ nghĩa cộng sản

Bạn Lan sao lại bức xúc thế. Tớ thấy làm gì đến nỗi toàn bộ.
Tớ thấy các chính sách nhà mình càng mình càng cởi mở, thoáng đạt hơn ngày xưa. Tất nhiên là so sánh với bản thân chúng ta ngày xưa, chứ không so sánh với các nước khác trên thế giới vào thời điểm này (nghe cứ như là nước mình không phải là một phần của thế giới í nhỉ).:-/
Ơn Đảng ơn Chính phủ, chúng ta được đi du học, được nghe CNN, được dùng Internet ....trở về cách đây 15 năm, chắc những điều trên không thể thực hiện được ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.:-s
Một bộ máy thật sự khoa học và hoàn hảo![-o<
 
Hoàng Hiếu Minh đã viết:
Bạn Lan sao lại bức xúc thế. Tớ thấy làm gì đến nỗi toàn bộ.
Tớ thấy các chính sách nhà mình càng mình càng cởi mở, thoáng đạt hơn ngày xưa. Tất nhiên là so sánh với bản thân chúng ta ngày xưa, chứ không so sánh với các nước khác trên thế giới vào thời điểm này (nghe cứ như là nước mình không phải là một phần của thế giới í nhỉ).:-/
Ơn Đảng ơn Chính phủ, chúng ta được đi du học, được nghe CNN, được dùng Internet ....trở về cách đây 15 năm, chắc những điều trên không thể thực hiện được ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.:-s
Một bộ máy thật sự khoa học và hoàn hảo![-o<

Anh nghĩ là em nên tìm đọc về phương pháp phân tích "Diffrence in Differences" trong kinh tế rồi em sẽ biết lập luận của em có sức thuyết phục đến mức nào. Phương pháp này được dùng để phân tích và xem xét sự hiệu quả của một nhân tố nào đấy tác động đến sự thay đổi nói chung như thế nào. Rất đơn giản về mặt lý thuyết nhưng rất hiệu quả. Thầy của anh với một giáo sư khác sáng lập ra phương pháp này B-).
 
Đêm trước đối mới: Imex - “bầu sữa” của đột phá

TT - Sau khi có chủ trương bung ra và cởi trói cho sản xuất của Hội nghị trung ương 6, các địa phương đang “khát” hàng nhập khẩu bắt đầu có một cái “gậy” để phá rào. Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài. Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.

Xuất khẩu ở phao số 0

Cuối năm 1979, TP.HCM gần như bế tắc trong chuyện nhập hàng từ bên ngoài. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt và Chủ tịch UBND TP Mai Chí Thọ loay hoay tìm cách nhập khẩu một số nguyên liệu và nhu yếu phẩm tối cần thiết, nhằm nuôi sống các cơ sở sản xuất của thành phố. Việc đó cũng giống như chuyện chạy gạo của Công ty Lương thực: phải tìm một hình thức phá rào mà không bị huýt còi.

Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài. Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.

Một giải pháp được đề xuất: không dựa vào quốc doanh mà sử dụng hệ thống liên hiệp xã của thành phố. Liên hiệp xã là một tổ chức có tính chất mặt trận, phi chính phủ. Chỉ có hình thức này mới có thể huy động tư nhân.

Chỉ có tư nhân mới có điều kiện bỏ vốn, mua hàng và liên lạc với các doanh gia nước ngoài để trao đổi hàng hóa. Thật ra tư nhân có khả năng làm việc đó chỉ có thể là thương nhân người Hoa. Họ vừa có vốn, vừa có quan hệ với các chân hàng trong nước, lại có quan hệ thân thiết với người Hoa ở Hong Kong, Singapore.

Họ có thể liên lạc, chắp nối để biết có thể đem hàng gì đi trao đổi. Giữa người Hoa với nhau có khi không cần văn bản hợp đồng. Chỉ bằng điện thoại, fax là họ có thể thỏa thuận với nhau.

Phương thức này được xúc tiến từ khoảng đầu năm 1980. Bước đầu liên hiệp xã nhờ các thương nhân người Hoa, liên lạc với Hong Kong, Singapore để hẹn mua một số hàng như sợi thuốc lá, sợi dệt, xăng dầu...

Sau đó, họ đi thu gom các mặt hàng như mực khô, tôm khô, lạc, đỗ, đồ thêu ren, sơn mài... để đổi. Giá cả đều tính ra đôla và trao đổi bằng hiện vật. Làm như vậy là vượt qua được cơ chế giá chỉ đạo của Nhà nước là một trong những cửa ải khắc nghiệt nhất.

Việc trao đổi được tiến hành theo phương pháp trực tiếp: hai bên ngầm điện cho nhau biết, hẹn ngày giờ, gặp nhau tại phao số 0 ngoài khơi trao hàng cho nhau, xong thì ai về nước của mình, không có xuất nhập cảnh gì cả.

Một vị lãnh đạo trung ương “huýt còi” và răn đe cách làm của TP.HCM trái nguyên tắc CNXH. Nhưng nếu nghiêm chỉnh chấp hành thì tất cả bó tay.

Không có sự năng động của cơ sở và sự bảo trợ mạnh tay của lãnh đạo thành phố, khó có thể tháo gỡ được cơn đói hàng nhập khẩu. Nhưng dù năng động và mạnh tay thì trước những rào cản về tư duy và cơ chế kể trên, mọi sự tháo gỡ đều phải đi từng bước một, trong xiết bao gian nan và trở ngại.

Trăm “imex” đua nở

Trong năm 1980, phương thức trao đổi ở phao số 0 đã tiến hành được khoảng hơn một chục chuyến. Những chuyến hàng đó đã góp phần giải quyết nguyên liệu cho Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội, sợi dệt cho Nhà máy dệt Thành Công, nguyên liệu làm bột ngọt cho Nhà máy Vifon...

Lúc này thật ra vẫn chưa có vốn vay của ngân hàng. Cả Ngân hàng Ngoại thương cũng như Ngân hàng Nhà nước đều không dám bỏ tiền cho vay hoặc bảo lãnh cho việc xuất nhập khẩu đó. Vốn hoàn toàn là của tư thương, thực chất là của người Hoa bỏ ra để thu gom những mặt hàng trong nước và trao đổi lấy nguyên liệu phục vụ sản xuất và đời sống.

Từ những kết quả buôn bán ở phao số 0, Thành ủy và UBND TP bắt đầu nghĩ tới việc thành lập liên hiệp xã, một đơn vị chuyên lo công việc xuất nhập khẩu. Tháng 5-1981, công ty đầu tiên được thành lập bởi liên hiệp xã mang tên Direximco (nghĩa đen là công ty xuất nhập khẩu trực dụng, tức là trực tiếp dùng hàng đổi lấy hàng).

Sau thành công của Direximco, hàng loạt “imex” ra đời. Quận 5 đã thành lập một công ty xuất nhập khẩu rất nổi tiếng là Cholimex. Hội Công thương gia thành lập Công ty Phiconimex. Công ty dược phẩm cần nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc thành lập Pharimex...

Như vậy là cùng với Imex Sài Gòn là cơ quan ngoại thương chính thức của thành phố, có chức danh như một tổng công ty, thành phố đã có hàng loạt công ty xuất nhập khẩu thật sự là của địa phương.

Từ trung ương đến các địa phương thời đó, người ta vẫn đồn đại về một câu nhận xét rất nổi tiếng của Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Lê Khắc về những tháo gỡ của TP.HCM: “Bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất là đã thấy sặc mùi Nam Tư rồi!”.

Cholimex làm luôn cả chuyển kiều hối ngầm. Cholimex liên hệ với đại diện Việt kiều yêu nước tại Canada. Cơ sở Việt kiều đó nhận làm “đại lý” cho việc chuyển tiền về nước. Bất cứ Việt kiều nào ở Canada, Mỹ đều có thể gửi tiền cho cơ sở này.

Cơ sở đó báo về cho Cholimex. Cholimex phải chi tiền Việt để trả cho thân nhân của Việt kiều ở trong nước, tỉ giá được tính sát giá thị trường tự do. Như thế là Việt kiều đã giải quyết được việc giúp thân nhân. Cholimex có một số ngoại tệ tương ứng trừ đi khoảng 2-3% phí dịch vụ cho đại lý hải ngoại.

Khi số tiền của nhiều Việt kiều gửi về gộp lại thành một khoản lớn, Cholimex yêu cầu đại lý đó chuyển khoản về Hong Kong hoặc Singapore để trang trải một món hàng nhập khẩu nào đó.

Để cho các hoạt động này được hợp pháp, có tình có lý, các “imex” báo cáo với Nhà nước rằng đó là Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đỡ phát triển sản xuất và xây dựng đất nước.

Về nguyên tắc thì điều đó không trái với những qui định rất ngặt nghèo của cơ chế kế hoạch hóa tập trung: nếu Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đất nước thì được khuyến khích và miễn thuế. Như vậy cái vòng đi và vòng về đã khép kín và trót lọt.

Xét về kim ngạch, con đường kiều hối nguyên liệu không lớn bằng con đường xuất nhập khẩu trực tiếp. Mỗi năm tổng số gửi về chỉ khoảng vài chục triệu USD. Tuy nhiên, để giải quyết những thiếu thốn lúc đó, nó cũng đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những năm “đêm trước” đổi mới.

Trong ba năm từ 1980-1982, hoạt động của các “imex” phát triển mạnh không chỉ ở TP.HCM mà đã lan tỏa ra rất nhiều tỉnh trong cả nước. Nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và ngoài Bắc cũng áp dụng phương thức hoạt động này.

Họ cử những đoàn vào nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của TP.HCM. Đó là trường hợp của Dệt lụa Nam Định, Thuốc lá Bông Sen ở Thanh Hóa. Đặc biệt các tỉnh có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng cũng phát triển rất mạnh những hình thức xuất nhập khẩu địa phương.

Tình hình phát triển tới mức mà các cơ quan quản lý ở cấp trung ương đã thấy rằng phải để mắt tới. Bắt đầu có những ý kiến yêu cầu phải siết chặt lại. Lý do thì có rất nhiều: hiện tượng tranh mua tranh bán đã đẩy giá lên cao.

Việc các địa phương mua vét hàng nông sản, lâm sản làm cho cơ quan ngoại thương của trung ương càng thêm khó khai thác các nguồn hàng để xuất khẩu theo các kênh chính thức. Việc mua bán vòng vo, ngoài kế hoạch đã làm rối loạn hệ thống kế hoạch hóa và cơ chế quản lý kinh tế...

Siết lại nhưng chỉ là hình thức

Ngày 14-9-1982, Bộ Chính trị ra nghị quyết 01 về “công tác của TP.HCM” nhằm uốn nắn những biểu hiện bị coi là “chệch hướng”. Đến tháng 12-1982, Hội nghị trung ương lần 3 (khóa V) ra nghị quyết “về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu năm 1985”. Nội dung chính của nghị quyết này là lập lại kỷ cương trong phân phối lưu thông.

Để thực hiện những tư tưởng trên, một trong những biện pháp quan trọng là dẹp các “imex”, tập hợp tất cả vào Imex trong một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất của mỗi tỉnh. Từ đó, tất cả các “imex” của TP.HCM đều bị giải thể và nhập lại trong một đơn vị gọi là Imexco.

Tại các tỉnh, các cơ quan xuất nhập khẩu cũng được tập trung lại thành một cơ quan duy nhất, gọi là Unimex. Tất cả các tác nghiệp xuất nhập khẩu đều được “thanh lý”, chuyển toàn bộ tài sản và nhân sự vào một đơn vị thống nhất, do Nhà nước quản lý.

Có thể nói nếu xét về mặt tháo gỡ những ách tắc do cơ chế cũ gây ra thì nghị quyết 01 và nghị quyết của Hội nghị trung ương 3 là một bước lùi trên con đường đi tới cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, đó cũng là điều khó tránh khỏi trong thời kỳ đang phải “dò đá qua sông”, vì những năm nửa đầu thập kỷ 1980 vẫn còn là thời kỳ tranh tối tranh sáng, giằng co giữa một bên là cơ chế kế hoạch hóa tập trung và một bên là cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi ý kiến chính thức của trung ương là siết lại, thì ở TP.HCM và nhiều địa phương phần lớn ý kiến lại chưa “thông” với chủ trương đó. Cũng rất may là việc siết lại chỉ mang tính chất hình thức.

Tuy tất cả các tỉnh và thành phố đều chỉ còn một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất, nhưng việc xuất nhập khẩu trong thực tế lại không siết vào được nữa. Sau ba năm bung ra của các “imex”, các cơ sở sản xuất đều đã học được cách tiếp cận với thị trường nước ngoài. Khi các “imex” không còn, họ đã kịp tìm được cách tự tổ chức những mối quan hệ.

Cùng với những thành công kể trên, các “imex” cũng phải trả giá vì chưa có kinh nghiệm thương trường, nhiều cơ sở đã bị thua lỗ, phá sản! Và không ít những giám đốc các “imex” đi tù, có người đã tự tử.

Tất nhiên, các “imex” cũng như phần lớn các cuộc phá rào khác chỉ là biện pháp tình thế để khắc phục nhất thời những ách tắc của cơ chế cũ. Để đi tới nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, còn phải tiếp tục trả giá và cả chặng đường dài cam go nữa.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)
 
Đêm trước đối mới: Nỗi niềm của tôi

TT - Làn sóng “xé rào” đã dâng trào mãnh liệt, cả đến những vùng cấm nhưng hàng rào bao cấp vẫn muốn siết lại. Trong cuộc giằng co đó, những người trong cuộc thật sự thấm thía bao nỗi niềm...

Hành trình của bao miến

Năm 1979 khi tôi đang công tác tại TP.HCM, được nghỉ phép về quê tại Nghĩa Đàn (Nghệ An). Chuyến về quê nghỉ phép năm ấy tôi không bao giờ quên vì suýt nữa tôi đã phải ngồi tù.

Ngày ấy cánh lính chúng tôi mỗi khi có việc (nghỉ phép hoặc công tác) ở các tỉnh phía Bắc phải đi tàu hỏa. Xuống tàu tại ga Vinh, tôi khệ nệ nào balô đồ đạc lỉnh kỉnh, vác bao miến “đặc sản Hố Nai” trên vai đến bến xe khách lấy vé về quê, mặc dù cực khổ nhưng trong lòng rất phấn khởi vì sắp được gặp lại những người thân, đặc biệt là lại có bao miến làm quà.

Khi xe chạy vào địa phận Nghĩa Đàn chưa được 1km thì xuất hiện một trạm gác (thời ngăn sông cấm chợ nhiều trạm gác lắm). Dân địa phương gọi trạm này là trạm Khe Son. Trước tiên là cần barie, được làm bằng nguyên cả cây tre, bổ xuống chắn ngang đầu xe. Chiếc xe dừng hẳn lại, hành khách lục tục xuống xe nhưng đa số vẫn ngồi yên.

Một người đàn ông chừng 40-50 tuổi, chẳng biết là nhân viên thuế hay quản lý thị trường, bước một chân lên cửa xe quát: “Tất cả xuống để kiểm tra hành lý!”. Đến lúc này hành khách mới miễn cưỡng rời ghế xuống xe. Tôi là người rời xe sau cùng. Hai, ba người đàn ông hùng hổ bước lên xe, lục tung mọi đồ đạc hành lý của hành khách, nhiều đồ đạc bị lôi xuống, tôi nhìn thấy có những nồi đất đựng cá nướng của bà con vùng biển mang lên bán cho vùng núi, mỗi nồi chỉ khoảng 3-4kg cá, mà vẫn bị lôi xuống và bị gọi là hàng cấm, có thể bị tịch thu.

Tôi đang ngạc nhiên về điều đó thì nghe tiếng quát của một nhân viên: “Cái bao bố này của ai?”. Tôi chạy lại nói của tôi. Ông ta hỏi tiếp: “Cái gì trong này?”. Tôi trả lời là miến, tôi mang từ trong Nam ra để làm quà cho gia đình. Ông ta khẳng định: “Miến làm bằng gạo, là lương thực, là hàng cấm lưu thông, chỉ có Nhà nước mới được vận chuyển từ tỉnh này qua tỉnh khác, anh đã mang hàng không được phép, chúng tôi lập biên bản tịch thu”.

Tôi giải thích đây là miến chứ không phải gạo, hơn nữa số lượng không nhiều, không phải mục đích buôn bán gì, chỉ làm quà cho gia đình nhưng ông ta cũng không cho, buộc tôi phải đưa xuống trạm để lập biên bản. Tôi nhất quyết không chịu. Ông ta nắm bao bố định kéo xuống.

Tôi giằng lấy bao miến, nhìn thẳng vào mặt ông ta nói rít qua kẽ răng vừa đủ để ông ta nghe: “Nếu ông dám kéo bao này xuống, tôi sẽ bắn vỡ mặt ông” - vừa nói tôi vừa đưa tay móc khẩu K54 (chỉ để ông ta nhìn thấy). Chẳng biết ông ta sợ khẩu K54 hay sợ ánh mắt nảy lửa của tôi lúc đó, chỉ thấy ông ta buông bao miến ra và lặng lẽ bước xuống xe, đi thẳng vào trạm. Tôi thấy ông ta trao đổi gì đó với một người khác (có lẽ là người phụ trách trạm). Rồi không thấy ông ta ra nữa.

Sau khoảng một giờ đồng hồ lục soát, tiếng quát tháo, tiếng năn nỉ van xin, kẻ chạy ra người chạy vô nhốn nháo, cuối cùng xe cũng được phép chạy và bao miến “đặc sản Hố Nai” của tôi cũng về được nơi tôi muốn. Cho đến bây giờ, đã 26 năm trôi qua, nhưng mỗi khi có dịp được ăn miến gà, miến vịt, miến giò heo... tôi lại nhớ bao miến “đặc sản Hố Nai” và cuộc hành trình gian nan của nó.

TRƯƠNG ĐỨC THẮNG
([email protected])


Thoát nhờ “ông Sáu”

Tôi năm nay đã 86 tuổi, thuộc loại “động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, được xếp vào Sách đỏ của Đảng và chính quyền quận”, là chứng nhân của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, và của nhiều thời kỳ lịch sử đương đại ở nước ta và trên thế giới.

Chuyện bao cấp gạo làm tôi nhớ lại một chuyện cũ khá điển hình: hồi đó Bệnh viện Ung thư TP.HCM đang sắp thiếu gạo trầm trọng, chỉ còn đâu hơn một tuần lễ nữa thì có lẽ sẽ phải cho bệnh nhân ăn một bữa cơm, bữa cháo. Chúng tôi xin được một giấy giới thiệu của Văn phòng 2 Bộ Y tế, do thứ trưởng ký, xuống một tỉnh miền Tây mua 3 tấn gạo. Xuống đến nơi, vị chủ tịch UBND tỉnh cầm tờ giấy đọc xong, vứt xuống bàn như một tờ giấy lộn, nhìn mặt tôi nói với giọng hằn học: “Lại gạo, đây có phải là kho gạo của các anh đâu mà cứ xuống nã mãi thế này.

3 tấn à? Đến 3kg cũng không thể bán cho các anh được”. Tôi hết sức lo lắng và thất vọng bàn với anh em đổ ra chợ và vào các làng xóm tìm mua với bất cứ giá nào. Người ta lén lút bán cho chúng tôi nhưng không được bao nhiêu.

Đêm hôm đó, đột nhiên đứa con nhỏ của vị chủ tịch lên cơn sốt cao, co giật. Bà vợ hoảng hốt ra gọi tôi. Tôi vào xem thấy cháu bé bị sốt xuất huyết khá nghiêm trọng, vội gọi điện cho phòng cấp cứu bệnh viện tỉnh và đưa ngay cháu đến để được điều trị kịp thời.

Sáng hôm sau, vị chủ tịch cho mời tôi vào cấp một giấy phép mua ở kho gạo tỉnh, không phải ba tấn mà bốn tấn gạo. Tôi mừng rơn, vội vã thu xếp đi về, chiếc xe tải chở gạo đi trước, tôi đi chiếc xe con áp tải phía sau. Vừa ra khỏi địa phận tỉnh, sang đến tỉnh bên thì bị một toán dân quân, súng ống kè kè, chặn xe lại, xem giấy giới thiệu thấy nói mua ba tấn mà sao lại quá tải thế này, bắt đổ cả xuống để cân lại.

Chuyện còn đang rất lùng nhùng thì anh lái chiếc xe con của tôi, vốn trước kia đã là một trung sĩ lái xe cho một sĩ quan cao cấp trong quân đội Sài Gòn, mở cửa xe bước xuống, nét mặt hầm hầm tiến lại phía đám dân quân, quát to lên: “Bọn bay muốn rục xương hả? Không thấy ông Sáu ngồi trong xe kia ư?”.

Ông Sáu là tôi, ngồi trong xe không biết là Sáu gì, nhưng run quá, nghĩ không khéo đêm nay nằm cho muỗi đốt thê thảm trong trại giam của tỉnh cũng nên. Nhưng may thay, đám dân quân dẹp sang một bên, hất tay cho xe đi. Hú vía. Đi trót lọt về đến TP thì đã gần nửa đêm, phải đợi đến sáng kiểm tra xong mới được vào.

Ngoài những chuyến xe bão táp đi mua gạo đó, tôi cũng đã từng đứng ở bục giảng Trường đại học Y khoa TP.HCM. Có bữa thầy đang giảng bài trên giảng đường thì ở dưới sinh viên vừa đi lĩnh được gạo về đang tấp nập chia khẩu phần, đành phải hoãn bài giảng, vì bệnh gì thì bệnh cũng không bằng cái bệnh đói của những bao tử đang tuổi ăn, tuổi lớn.

Còn biết bao nhiêu chuyện riêng của tôi và gia đình tôi thì cũng như của biết bao nhiêu cán bộ và gia đình cán bộ vào cái thời bao cấp ấy. Gần đây anh Nguyễn Khải, nhà văn, có nói với tôi: “Chúng mình thời ấy cứ như đang sống trong một cơn mê sảng tập thể vậy”.


BS NGÔ VĂN QUỸ
(nguyên phó giám đốc Trung tâm Ung bướu TP.HCM)


Không phá rào?

Sau khi báo Tuổi Trẻ ngày 7-12 đăng bài của tôi về “Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá”, tôi liền nhận được điện thoại của một bạn trẻ chất vấn: “Thành phố thiếu gạo, dân có tiền, nông dân ĐBSCL có gạo bán thì xuống mua là chuyện thường tình. Có gì mà phải ca ngợi những vị lãnh đạo của thành phố là dũng cảm đột phá, là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...?”. Tôi đã trả lời người bạn trẻ. Hôm sau, mấy em học trò của tôi đến khoe đã đọc bài báo đó và cũng hỏi một câu y như thế!

Hóa ra thế hệ trẻ không dễ hình dung nổi những trở ngại về cơ chế và tư duy những năm đó nghiệt ngã đến mức nào!

Thay vì trả lời từng bạn đọc, tôi xin gửi tới báo nội dung trả lời của tôi:

Lúc ấy khuynh hướng của nhiều người, thậm chí của đa số, là không muốn phá rào, mà muốn tìm những định hướng khác như giáo dục tư tưởng, yêu cầu đảng viên phải gương mẫu bán thóc, nhân dân và cán bộ phải chịu đựng gian khổ...

Có một định hướng đã từng được thực thi, mà tôi cùng hàng chục ngàn người đã từng là nạn nhân là: đưa cán bộ công nhân viên chức về nông thôn trồng khoai trồng sắn. Theo chỉ thị số 306-TTg 18-11-1980, các cơ quan xí nghiệp trong cả nước phải thay phiên nhau về nông thôn mượn đất của hợp tác xã để trồng trọt. Đó cũng là lúc người nông dân hợp tác xã đã chán không muốn trồng trọt nữa, sẵn sàng nhường đất cho bất cứ ai muốn xin. Cán bộ công nhân viên buộc phải về những vùng xa xôi 40-50km.

Trường hợp cơ quan tôi thì phải đi từ Hà Nội lên tận Thái Nguyên. Đường sá xa xôi. Tiền xăng, tiền ăn đường còn tốn hơn nhiều so với của cải làm ra. Từ quen cầm bút chuyển sang tay cày tay cuốc. Đã không biết trồng trọt lại không có người trông nom, củ khoai củ sắn bé tí, lại không người chăn nom, trâu bò đến phá...

Cuối cùng tốn vô số thời gian, tiền bạc và công sức mà chẳng được gì. Vậy mà vẫn có vị lãnh đạo nói rằng: “Dù sao thì chúng nó cũng làm ra được củ khoai củ sắn, thêm một chút lương thực cho xã hội, còn hơn là ngồi không ăn hại!”. Hóa ra mất không biết bao nhiêu tiền đào tạo những tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ… để làm việc cày cuốc không bằng một người nông dân!

Vậy mà định hướng đó đã từng một thời được coi là có lập trường vững vàng. Còn sự tháo gỡ theo hướng đột phá như TP.HCM thì đã từng bị không ít người cho là chệch hướng. Thật may, nếu không “chệch hướng” mà cứ đúng hướng đi trồng khoai trồng sắn như kể trên thì không biết đến ngày hôm nay “dân mình ra sao”!

Thiết tưởng đó là một bài học rất có ý nghĩa đối với các bạn trẻ hiện nay, là những người không bao lâu nữa sẽ gánh vác trọng trách lèo lái con thuyền VN đi tiếp vào tương lai.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)
 
Đêm trước đổi mới: Tôi "trắng án"

TT - LTS: Những đột phá, xé rào thời “đêm trước” đổi mới không chỉ bắt đầu từ bức xúc của nông dân, công nhân, doanh nhân; xoay xở của lãnh đạo mà cả sự nhập cuộc của trí thức. GSTS Võ Tòng Xuân vừa gửi về tòa soạn câu chuyện của chính ông.

Sau giải phóng, tôi về Đại học Cần Thơ, tiếp tục công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Viết kịch bản khuyến nông

Đầu năm 1978, tôi tìm đến Đài truyền hình (ĐTH) TP.HCM và ĐTH Cần Thơ bàn thực hiện chương trình khoa học kỹ thuật nông nghiệp mỗi tuần phát hình một lần dài 30 phút. Đây là sự cộng tác hoàn toàn tự nguyện, không ai lấy tiền của ai.

Chương trình được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các anh ĐTH, còn tôi thì lo viết kịch bản kiêm đóng kịch, với các anh Nguyễn Văn Huỳnh, Phạm Văn Kim và một số nông dân tiên tiến. Lúc đó việc đưa khoa học kỹ thuật lên truyền hình cho nông dân học là một cách làm mới, cho nên muốn bảo đảm tính hiệu quả cao của mỗi chương trình tôi phải nhúng tay vào việc từ viết kịch bản theo đúng kỹ thuật khuyến nông - nghĩa là phải thể hiện các thông tin và kiến thức mới để người xem, nhất là nông dân, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ chấp nhận và dễ làm theo. Tôi không dùng chữ nghĩa cao xa, cầu kỳ, mà chỉ dùng những từ ngữ mà nông dân thường dùng, dùng tiếng nói của nông dân để trình bày những kỹ thuật mới cho họ nghe. Dĩ nhiên tôi phải hỏi cho nông dân trả lời theo trình tự logic để người nghe hiểu và chấp nhận.

Chương trình này nhanh chóng đã trở nên một chương trình được khán giả ưa thích không kém các chương trình cải lương!

Để hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình khuyến nông với ĐTH, qua GS Nguyễn Văn Hiệu, viện trưởng Viện Khoa học, tôi đã tranh thủ với GS Edward Cooperman, chủ tịch Hội Các nhà khoa học Mỹ, hợp tác với VN xin một số thiết bị tối cần như máy thu phát video và tủ lạnh -5OC bảo quản tập đoàn giống lúa mà thầy trò nông nghiệp của ĐH Cần Thơ đã sưu tầm.

Có lẽ tôi là người tiếp nhận bộ máy video đầu tiên trong nước vào năm 1981, gồm có bốn đầu máy Betamax, hai đầu máy Umatic và hai máy camera quay video Sony. Tôi nói “đầu tiên” vì lúc đó chưa cơ quan nào trong nước biết dùng loại thiết bị hiện đại này. Khi nhập vào, Hải quan TP.HCM đòi phải có giấy phép của Bộ

Văn hóa - thông tin, và khi xin được giấy phép, hải quan ghi rõ chi tiết từng số máy như là đối với xe gắn máy bây giờ. Về đến Cần Thơ, chúng tôi phải trình với Sở Văn hóa - thông tin, ghi từng số máy và cam kết không sử dụng vào mục đích gì khác hơn là làm chương trình khuyến nông. Lúc ấy, GS Cooperman cũng đem sang VN hai máy vi tính PC hiệu Apple II mới nhất của Mỹ, một cái đặt tại viện của GS Nguyễn Văn Hiệu và một cái tại ĐH Cần Thơ. Nên nhớ là máy PC lúc ấy chỉ có một đĩa cứng 64 Kilobyte mà thôi (không như bây giờ, nhỏ nhất cũng cỡ 10 Gigabyte).

Mô hình “phản động”

Qua chương trình khuyến nông trên truyền hình, tôi đã mạnh dạn giới thiệu mô hình sản xuất tiên tiến trong nông thôn để mau chấm dứt tình trạng chán nản trong nông dân; cũng vì thế mà tôi và các vị lãnh đạo của ĐTH TP.HCM (ông Huỳnh Văn Tiểng), ĐTH Cần Thơ (ông Lưu Thành Tâm) và Ủy ban Phát thanh - truyền hình VN (ông Trần Lâm) suýt bị kỷ luật. Số là trong quá trình nghiên cứu lúa trên khắp ĐBSCL, tôi thấy một trở ngại rất lớn khiến kỹ thuật không vào được với nông dân, đó là chính sách nông nghiệp của Nhà nước đã không khuyến khích người lao động mà còn bắt buộc họ làm việc như cái máy không được suy nghĩ gì cả.

Từ năm 1979 nông dân gần như bị bắt buộc phải vào hợp tác xã (HTX) hoặc tập đoàn sản xuất (TĐSX) nhưng không ra đồng sản xuất, hoặc nếu có sản xuất thì hụ hợ không màng năng suất cao. Gia đình nông dân không đủ ăn mà họ cũng không có dư lúa để bán cho cửa hàng lương thực nhà nước. Ở nhiều địa phương nông dân không có dư lúa bán cho Nhà nước đã phải chịu đo bồ lúa để chứng minh không có lúa dư.

Trong khi đó chúng tôi cộng tác với một số TĐSX - điển hình nhất là TĐSX số 9 ấp Lung Đen, xã Kế An, huyện Kế Sách, Sóc Trăng - theo kiểu “khoán sản phẩm” thì nhà dân đầy lúa mà kho lương thực nhà nước cũng đầy lúa. Nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh 2-9, tổng kết nông nghiệp sau năm năm hòa bình, tôi đã mạnh dạn đưa mô hình TĐSX 9 Lung Đen lên báo Tin Sáng ngày 2-9-1980 và trong chương trình truyền hình hằng tuần của tôi.

Các chuyên viên của ĐTH TP.HCM từ lâu không kiểm duyệt chương trình của tôi vì toàn là nói về kỹ thuật, không có hơi hám gì về chính trị, không dè trong chương trình ngày 2-9-1980 lại có mục “khoán sản phẩm”. Các vị lãnh đạo Ban hợp tác hóa trung ương lập tức gửi công điện khắp các tỉnh, tuyên bố không chấp nhận mô hình “phản động” tôi đã nêu, và yêu cầu ĐTH TP.HCM ngưng phát hình chương trình đi ngược đường lối. Anh Võ Văn Chung - người nông dân Tiền Giang cộng tác rất nhiệt tình với thầy trò nông nghiệp của ĐH Cần Thơ từ 1977 - đã hớt hải đi xe đò sang Cần Thơ ngay hôm sau đó báo cho tôi hay là lãnh đạo tỉnh bảo anh ấy không nên tiếp xúc với tôi nữa vì tôi đã phạm tội với trung ương, và khuyên tôi nên cẩn thận.

Tôi liền báo ngay với ông Phạm Sơn Khai, bí thư Đảng ủy kiêm hiệu trưởng ĐH Cần Thơ bấy giờ. Ông hiệu trưởng trấn an tôi hãy bình tĩnh, để ông tìm hiểu thêm xem trên sẽ bắt tội tôi như thế nào. Trong phiên họp tháng 4-1981, Ban chấp hành T.Ư Đảng đứng trước hai sự chọn lựa: làm hợp tác hóa chính thống thì ra ít lúa hay khoán sản phẩm thì lúa đầy bồ của dân và đầy kho lương thực của Nhà nước.

Đảng đã chọn cách thứ hai, thể hiện trong chỉ thị số 100, mà sau này chúng ta quen gọi là Khoán 100. Ủy ban Phát thanh - truyền hình, ĐTH TP.HCM, ĐTH Cần Thơ và tôi được trắng án.

Phê phán chính sách phá rừng tràm

Từ quyết định lịch sử Khoán 100, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới với những chính sách hợp tình hợp lý hơn. Trong thời gian này tôi tham gia Quốc hội (suốt ba khóa từ năm 1981-1997), đồng thời tham gia các hoạt động tư vấn cho một số viện, trường nông nghiệp quốc tế.

Lần họp Quốc hội đầu tiên của tôi vào tháng 6-1980 đánh dấu một sự thay đổi trong tập quán thảo luận tại hội trường Ba Đình. Bằng những minh chứng khoa học cụ thể, tôi đã phê phán chính sách phá rừng tràm để lập các vùng lúa Tháp Mười, U Minh, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, làm lãng phí ngân sách quốc gia, nhụt chí người lao động (nhất là lao động bất đắc dĩ từ thành thị bị bắt buộc tham gia trồng và gặt lúa, điển hình nhất là ở tỉnh Long An những năm 1978-1980). Trồng lúa không có hiệu quả mà phá hại môi trường sinh thái rừng tràm thiên nhiên.

Sau khi tôi phát biểu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngoắt tôi lại và hỏi tại sao tôi không nói sớm hơn để Nhà nước đỡ lãng phí? Tôi thành thật thưa rằng đây là dịp đầu tiên tôi có cơ hội trình bày, chớ trước đây đâu ai chịu nghe! Sau đó Thủ tướng đã trực tiếp chỉ thị cho Bộ Nông nghiệp (Thứ trưởng Nguyễn Đăng) nhanh chóng sửa sai. Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt trong giờ giải lao cho tôi biết là mặc dù biết mất rừng tràm nhưng áp lực sản xuất lúa bằng mọi giá đã không cho phép ông bảo vệ rừng tràm được.

GSTS VÕ TÒNG XUÂN (Hiệu trưởng Đại học An Giang)
 
Đêm trước đổi mới: Chiến thắng chính mình

TT - Đại hội VI đã cận kề. Những thành trì thủ cựu, do dự, rụt rè bị lấn át. Nắm bắt thời cơ có một không hai, người cầm cờ đổi mới đi đến quyết định kịp thời: viết lại văn kiện Đại hội VI. Một quyết định kịp đón nhận bình minh của đổi mới.

Hội nghị bẻ lái

Gần đến ngày Đại hội VI khai mạc, các cuộc họp thảo luận dự thảo văn kiện vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau buộc trung ương phải đi đến một phiên quan trọng: bàn về những ý kiến khác nhau về báo cáo chính trị Đại hội VI với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”.

Ông Hà Đăng - nguyên ủy viên Trung ương Đảng - nói: cuộc họp đó sau này gọi là Hội nghị ba quan điểm. Tinh thần của hội nghị được quán triệt là thẳng thắn, dũng cảm và không sợ “phạm húy”.

Những cuộc trao đổi, tranh luận sôi nổi cho thấy dự thảo văn kiện dù đã chuẩn bị kỹ nhưng chưa nói được nguyên nhân khủng hoảng và vì vậy không mở được hướng đi mới trước yêu cầu của cuộc sống đang hừng hực khí thế đổi mới. Những cuộc tranh cãi quyết liệt cuối cùng đã bật ra ba quan điểm cần thay đổi.

Một là vấn đề cơ cấu kinh tế. Dự thảo văn kiện lúc ấy vẫn coi công nghiệp nặng là nhiệm vụ then chốt. Nhân tố chính của công nghiệp nặng là cơ khí vì cơ khí sẽ đẻ ra tư liệu sản xuất. Trên nền quan điểm này, hàng loạt dự án đồ sộ như cơ khí Hà Nội, than Cẩm Phả, các nhà máy ximăng... đã hút hầu hết vốn đầu tư của nền kinh tế nhưng hiệu quả rất thấp.

Mười năm qua (1975-1985), chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lý giá, về đổi tiền và bước đi trong việc điều chỉnh giá - lương - tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế. Sai lầm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lý kinh tế năm năm qua (1980-1985).

(Trích Báo cáo chính trị tại Đại hội VI do Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh trình bày ngày 15-12-1986).
GS Lê Văn Viện nói: quan điểm trên rập khuôn mô hình Liên Xô. Nhưng VN khác Liên Xô ở chỗ thời sa hoàng họ đã có một nền công nghiệp nặng hàng trăm năm. Kèm theo đó là hệ thống hạ tầng, con người tương ứng. Với VN, tất cả những cái ấy đều thiếu. Vốn chủ yếu trông vào viện trợ.

Sau giải phóng, viện trợ bị cắt thì mất chỗ dựa. Trong khi đó nông nghiệp hết sức lạc hậu... Hội nghị kết luận đây là quan điểm duy ý chí, đốt cháy thời kỳ quá độ. Chủ trương này phải thay bằng tập trung phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Hai là vấn đề cải tạo XHCN ồ ạt đã “lỡ” làm triệt để và toàn diện. Xóa bỏ tư hữu đã biến mọi thứ thành của chung tưởng rằng công bằng nhưng không ngờ đã triệt tiêu mọi ham muốn làm ăn, buôn bán. Sự phi lý này đã làm bánh xe lịch sử... xì lốp. Lời giải là phải chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.

Ba là vấn đề cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Tất cả mọi kế hoạch lớn nhỏ như đã và đang làm đều dựa vào ý muốn chủ quan và mệnh lệnh hành chính chứ không dựa vào thị trường hay các qui luật kinh tế - xã hội. Cách thức phân phối gạo, thịt, mắm, muối... căn cứ theo lao động chứ không dựa trên thực tế. Động lực lao động chủ yếu dựa vào tinh thần mà bỏ qua động lực vật chất. Nhận định rõ những nhược điểm của cơ chế hiện thời, nhiều người bắt đầu tỉnh ra: phải dựa trên quan hệ thị trường để điều phối những bất hợp lý trên.

Ông Lê Xuân Tùng, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nói: ba quan điểm trên đã thay đổi cơ bản nội dung của dự thảo báo cáo chính trị. Kết thúc cuộc họp đã lóe lên ánh sáng cuối đường. Đặc biệt sau hội nghị này, Đảng đã vượt lên chính mình, dũng cảm thừa nhận những sai lầm. Cơ hội bám rễ những quan điểm bảo thủ lạc hậu lùi bước.

“Lột xác”

Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng, tháng 7-1986, Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời. Chủ tịch Hội đồng nhà nước Trường Chinh đảm nhận luôn chức tổng bí thư. Ông đẩy nhanh hơn yêu cầu nắm bắt thực tiễn, trực tiếp đi nghiên cứu các mô hình “xé rào”.

Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội VI mỗi đêm trở dậy thấy càng thêm xa rời đòi hỏi của cuộc sống. Bù giá vào lương ở Long An, phá chỉ tiêu dệt may ở TP.HCM, mua lúa giá cao ở ĐBSCL... và đặc biệt cuộc cải cách giá - lương - tiền trên toàn quốc đã hợp thành lực đẩy tổng hợp đưa toàn bộ nền kinh tế vào tình thế không thể trở lui.

Giáo sư Lê Văn Viện kể: “Một buổi sáng cuối tháng 9-1986, tôi nhận được tin lập tức theo đoàn cán bộ xuống nhà nghỉ Vạn Hoa - Đồ Sơn (Hải Phòng) họp khẩn cấp với Tổng bí thư Trường Chinh.

Có mặt ở cuộc họp này là toàn bộ tổ biên tập văn kiện Đại hội VI (do ông Hoàng Tùng làm tổ trưởng và ông Đào Duy Tùng làm tổ phó) và một số chuyên viên trong nhóm tư vấn của tổng bí thư. Chính tại đây, ông Trường Chinh tuyên bố: viết lại văn kiện đại hội!”.

Tình thế chuyển ngay lập tức. Ba người “tư duy mới” được bổ sung tổ biên tập là Hà Nghiệp, Trần Đức Nguyên và Lê Văn Viện. Tổng bí thư đích thân giao trọng trách cho tổ văn kiện tổng hợp ý kiến đóng góp và rút lấy tinh thần chung để soạn thảo lại văn kiện cho đại hội đã rất cận kề.

Trong điều kiện khó khăn chung của nền kinh tế, chúng ta đã và đang có nhiều địa phương, ngành và nhất là cơ sở làm ăn năng động, sáng tạo, rút ra được những bài học kinh nghiệm quí báu.

Đó là sức sáng tạo của nhân dân lao động một khi nền dân chủ XHCN được thật sự phát huy, thể hiện trong thực tế chứ không chỉ là khẩu hiệu thì sẽ nảy nở những biện pháp hay, tạo ra sức bật mới. Rất rõ ràng, chúng ta đã nói nhiều nhưng cũng chưa phải đã nói hết về những tiêu cực, hư hỏng.

Đó chính là sự thật cần vạch ra để thấy sâu sắc hơn và quyết tâm khắc phục. Mặt khác cũng phải khẳng định những nhân tố mới đang phát triển từ lao động và cuộc sống đem lại niềm tin mới.

(Trích Báo cáo phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong năm năm 1986 -1990 do Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt trình bày tại Đại hội VI ngày 15-12-1986).
Ông Trần Đức Nguyên còn nhớ ông được giao hệ thống hóa lại ba quan điểm theo tinh thần khẩn trương tối đa để trình Bộ Chính trị thảo luận lần cuối. Nhưng sát đại hội, Bộ Chính trị chủ yếu tập trung chuẩn bị nhân sự nên giao trách nhiệm rà soát văn kiện cho hai vị trưởng lão.

Vừa đi công tác Hà Tây về Hà Nội, ông Nguyên bỗng ngớ người ra khi nghe báo lại có ý kiến yêu cầu sửa mười mấy điểm. Toàn là những điểm quay trở lại tư duy cũ. Ông gọi điện phản ứng ngay với thư ký của bậc trưởng lão chỉ đạo rà soát văn kiện: nếu sửa theo ý các anh thì khác với kết luận của Bộ Chính trị.

Nửa tiếng sau, ông Nguyên nhận được điện thoại trả lời: các anh cứ giữ đúng như kết luận của Bộ Chính trị. Ông Nguyên cười: thế là thoát, không phải phục hồi cái cũ. Chủ trương đổi mới dù đã thống nhất nhưng không dễ được bỏ phiếu cao.

Kết luận ba quan điểm này được xem như linh hồn của văn kiện lần hai. Các chuyên gia tổ biên tập lập tức dựng lại hình hài báo cáo chính trị của Đại hội VI. GS Lê Văn Viện còn nhớ ông phải mang quần áo, tư trang vào ở hẳn khu biệt thự Hồ Tây của Trung ương Đảng viết lại văn kiện.

Mỗi người viết một phần theo chuyên môn của mình. Có ngày ông viết được 5-7 trang, nhưng cũng có ngày chỉ viết được vài dòng. Tâm trạng mọi người rất phấn khích, trao đổi với nhau rất hào hứng. Tuy nhiên, cái khó nhất là cân nhắc câu chữ để số đông chấp nhận. Văn kiện chưa dám nói “kinh tế thị trường” phải lách là “hạch toán kinh doanh XHCN”.

Có tiếng xì xầm những chuyên gia thảo văn kiện đang đi theo con đường CNXH kiểu Nam Tư. Cái mới mặc dù đã được thực tiễn chứng minh, nhưng không ít những người có quyền vẫn phớt lờ, không muốn thừa nhận chỉ vì nó khác với sách vở mà mình đã học.

Thực tế đổi mới đã rõ như ban ngày vẫn khó khăn, trầy trật khi đi vào nghị quyết. Nhưng cuộc sống đã sang trang, không thể cưỡng lại. Ngày văn kiện in ra, mọi người bồi hồi xúc động: xong việc lớn!

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN
 
Đêm trước đổi mới: Uy quyền của lòng dân

TT - Chúng ta có phương thức đổi mới phù hợp với hoàn cảnh, đặc thù đất nước và dân tộc mình. Đó là đổi mới từ thực tiễn đi ngược lên chính sách mà thường gọi là “xé rào”.

Đổi mới trong quan điểm tư tưởng, tư duy từ mỗi con người, đơn vị đến toàn Đảng toàn dân bằng cách tự nhận thức và thuyết phục...

Đổi mới không đổ vỡ

Chúng ta không có một văn bản nào chính thức định hướng, hướng dẫn đổi mới; cũng không có ai tuyên bố đổi mới từ đâu, lúc nào, cách nào... Toàn xã hội chung nỗi bức xúc bởi những khó khăn, thiếu thốn, ngột ngạt... Và từ trong mọi ngõ ngách cuộc sống đều khao khát thay đổi để thoát khỏi những khó khăn hiện tại.

Thế là từ những hợp tác xã nhỏ bé đã tìm ra khoán nông nghiệp, từ một công ty đã mạnh dạn phá bỏ chỉ tiêu, một địa phương âm thầm gạt bỏ cơ chế tem phiếu... hợp thành một cuộc đại cách mạng. Mỗi bước đột phá là thêm một sáng tỏ cho con đường đi tiếp. Mục tiêu mỗi đột phá chưa phải là cơ chế thị trường hay những gì lớn lao mà chỉ là nhằm giải quyết những ách tắc, bất hợp lý của cơ chế cũ.

Và tới một ngày chúng ta cùng đến một bờ bến mới thì vỡ lẽ ra rằng: cơ chế thị trường là cái đã được lịch sử lựa chọn. Đổi mới ở VN là đòi hỏi của đời sống toàn xã hội đưa đến, là loại đường mà cứ đi rồi mới thành đường.

Trong khi ở Liên Xô, Đông Âu, những cuộc lột xác gây biến động dữ dội nên thường đổ máu hoặc gánh chịu những đau đớn, mất mát lớn. Ở Trung Quốc, đó là tổng hợp thực tiễn, chuẩn bị tư tưởng, lý luận từ trên sau đó triệt để áp dụng xuống dưới. Cách riêng của VN là đổi mới từ dưới lên, sinh động và vừa đổi mới vừa chỉnh sửa.

Tức là kết quả cụ thể tinh lọc lấy hạt nhân sau đó lựa chọn áp dụng rộng. Điều này hay ở chỗ không khủng hoảng chính trị, không có sự xung đột giữa các lực lượng xã hội; có kết quả đúng rồi thì mới tiến hành. Tuy nhiên hạn chế ở chỗ: chậm, dò dẫm, thiếu triệt để và rất khó. Khó vì nó cần những yếu tố đặc biệt mới có thể tiến hành.

Trong quá trình đổi mới tư duy, chúng ta có các quan điểm đối lập nhau tạm gọi là bảo thủ và đổi mới. Những sự khác nhau không giải quyết bằng phân cực, chia rẽ, đối lập mà chờ đợi và thuyết phục, rồi từng bước khắc phục những khác biệt.

Và như vậy sự tháo gỡ, thay đổi không gây đổ vỡ; năng động không làm hỗn loạn; trái qui định nhưng không mất tính tổ chức. Đổi mới chín dần trong nhận thức có thể sớm hơn ở chỗ này, người này và chậm hơn ở chỗ khác, người khác. Thậm chí ngay trong một người mặt này hăng hái cải cách, mặt khác bảo thủ, nguyên tắc... Có lúc chính người lập ra hàng rào thì sau này lại đồng thuận đi phá hàng rào.

Những người “cầm còi” nào còn khư khư với cơ chế cũ và gây ách tắc cho việc tháo gỡ thì chính họ lại bị “huýt còi”. Nhưng đây không phải là sự thanh trừng nặng nề mà rất nhẹ nhàng, thường là thuyên chuyển công tác, tức là chỉ giao “còi” cho người khác mà thôi.

Những mũi đột phá ở VN rất đặc biệt vì không trực diện “tuyên chiến” với chính sách, chủ trương mà thường lách qua một cách tinh tế, tự nhiên. Nếu chính sách là bức tường thành thâm nghiêm cũ kỹ thì mũi đột phá không phải trọng pháo để bắn phá mà nó chỉ là những mũi dao, bay như đồ nghề thợ xây lách qua từng kẽ gạch. Đến một lúc những mũi dao, bay này có thể tháo dỡ cả một bức tường mà không gây đổ nát, kinh động. Thậm chí còn bảo quản được nhiều chất liệu dùng cho công trình mới.

Chúng ta đã lựa chọn một con đường vòng khá dài và tốn kém, mà ban đầu chúng ta vững tin rằng đó là con đường thẳng, ngắn nhất, dễ đi nhất và đi nhanh nhất. Còn cái xa lộ thông thường của qui luật lịch sử thì đã từng bị ngộ nhận là con đường vòng nguy hiểm, đầy tai họa và khổ đau, cần và có thể bỏ qua nó, nên đã đặt ở đó nhiều loại biển cấm và biển báo “nguy hiểm”.

Đổi mới là một cuộc đại uốn nắn lộ trình, tìm lại được xa lộ của qui luật, từ đó cỗ xe của chúng ta đi thênh thang, nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Còn các cuộc đột phá chính là việc nhổ dần những biển cấm và biển báo sai qui luật, để đưa chúng ta về xa lộ.

Bản thân việc đi nhổ những chiếc biển báo “nguy hiểm” hẳn cũng là việc nguy hiểm. Thật thú vị là hầu hết những người đi đầu trong các mũi đột phá quan trọng đều từng là những chiến sĩ cách mạng kiên trung trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng. Đó là Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Hơn... đã bao năm lăn lộn trong máu lửa kháng chiến chống Mỹ.

Những con người như thế khó ai có thể nghi ngờ lập trường, phẩm chất của họ. Nói đúng hơn là rất khó “bắt tội” chống CNXH của họ. Vì vậy họ tồn tại và họ có điều kiện để vận động, thuyết phục... Sự nghiệp cách mạng và kháng chiến đã cho những hiệp sĩ ấy tấm “áo giáp” để đột phá cho cả những khó khăn ở thời bình.

Nói đến bài học của đột phá kinh tế thời bao cấp, tôi rất tâm đắc với đánh giá của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt, đó là chúng ta hãy cẩn thận khi phân biệt ranh giới giữa đột phá, sáng tạo và sự chệch hướng. Trước đây, chính những thái độ do dự, đề phòng đã trở thành lực cản của nhiều nhân tố mới.

Những thái độ đó đã nhân danh tính Đảng, chủ nghĩa xã hội qui cho cái mới là chệch hướng. Nhưng cuối cùng những điều tưởng là chệch hướng ấy lại là đúng. Cái giá chúng ta phải trả ở đây là: đất nước mất thêm hàng chục năm thử thách, xã hội mất đi cơ hội phát triển, bánh xe lịch sử lỡ mất cuộc đua... một cách xót xa.

Câu chuyện muôn đời

VN tuy đã trải qua nhiều cuộc cải tạo XHCN mạnh tay nhưng nền kinh tế tự do như chợ búa, quán xá, các cơ sở sản xuất tư nhân, hệ thống tư thương xưa gọi là phe phẩy vẫn luôn tồn tại bên cạnh nền kinh tế quốc doanh.

Nó được ví như cái bướu lạc đà. Tuy nó “chia bớt” nguồn dinh dưỡng từ cơ thể kinh tế XHCN để tồn tại nhưng khi quốc doanh gặp khó khăn như thiếu hàng hóa, đói nguyên liệu, không mua không bán được... thì cái bướu đó lại nuôi sống cơ thể xã hội. Đây cũng là lý do góp phần giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội ở các nước Đông Âu bị khủng hoảng trầm trọng, còn ở VN thì nhẹ nhàng hơn.

Bên cạnh đó phải nhớ rằng kể từ sau năm 1975 chúng ta đã có một nửa đất nước là xứ sở của nền kinh tế thị trường. Gần như toàn bộ miền Nam không chỉ kế thừa nền kinh tế thị trường trước đó mà còn được tiếp sức từ nguồn lực nước ngoài và Việt kiều với khoảng vài trăm triệu USD mỗi năm.

Tôi gọi điều này là “quyền uy của lòng dân”. Thật ra đó vẫn là câu chuyện muôn đời của hai chữ “vì dân”. Đất nước trải qua bao nhiêu gian nan, bi thương bởi chiến tranh. Đến khi hòa bình, thống nhất ai cũng thấy rằng tất cả mọi người trên đất nước này đều xứng đáng, đều rất cần một cuộc sống no ấm, đủ đầy hơn bao giờ hết.

Vậy nên khi đời sống quá thiếu thốn, khủng hoảng ngày một trầm trọng thì những người nắm công quyền cũng không nỡ thực hiện cải tạo một cách triệt để đến mức cắt bằng hết sinh kế của dân. Chẳng lẽ anh cán bộ có thể bắt một bà má (như bà má nào đó đã từng nuôi giấu anh) về tội bà đem con gà, nải chuối hay ống gạo đi bán?...

Mặt khác, ai cũng nhớ rằng mới đây thôi khi cán bộ và quần chúng, Đảng và dân luôn sát cánh bên nhau chia ngọt sẻ bùi, nhân dân không ngại hi sinh bất cứ thứ gì cho CNXH, thì nay làm sao có thể đẩy nhau vào thế đối địch, xử cạn tàu ráo máng với nhau được.

Văn kiện Đại hội VI chuẩn bị trong một thời gian dài tốn nhiều công sức, tiền của nhưng khi thấy không phù hợp, dù thời điểm đại hội đã cận kề thì vẫn phải sửa lại gần như toàn bộ. Nếu thiếu sự quyết đoán đó chúng ta chưa được như hôm nay. Nếu như quyết định sớm hơn thì nay khoảng cách của VN với các con rồng châu Á không phải là lớn và có lẽ ta không thua các nước mạnh trong khu vực.

Trước đây ta có thể “nhờ” hiện tượng xé rào để khám phá chính mình. Nhưng nay nếu ta tham dự sân chơi chung thì ở tầm vĩ mô ta phải nhìn xa trông rộng, dựa vào sức mạnh tổng thể để khai thác thế giới, loại bỏ sự khác biệt về thế hệ và quá khứ cũng như những nghi kỵ, bè phái. Tính Đảng hay CNXH xét cho cùng cũng chính là vì sự giàu mạnh của đất nước, vì những gì mà nhân dân đồng tình.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)
QUANG THIỆN ghi
 
Hy vọng mọi người đọc những bài này sẽ hiểu được sự không hiệu quả của 1 nền KT quốc doanh, và con đường thay đổi và tiến bộ là tự do hóa thị trường.
 
Hy vọng mọi người đọc những bài này sẽ hiểu được sự không hiệu quả của 1 nền KT quốc doanh, và con đường thay đổi và tiến bộ là tự do hóa thị trường.

Ai cũng hiểu cả rồi bạn ạ.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Ai cũng hiểu cả rồi bạn ạ

Mình nói vậy bởi vì có rất nhiều người chưa hiểu, mình kô hề có ý muốn châm chích hay gì cả, nếu các bạn có cảm giác đó, thì mình thành thật xin lỗi về cách nói của mình. Cám ơn.
 
Ô, có gì đâu, ý của mình chỉ nằm gọn trong nghĩa đen của nó thôi. Bạn suy nghĩ nhiều mà làm gì...

Mình nói vậy bởi vì có rất nhiều người chưa hiểu


Ở VN hầu hết mọi người đều hiểu họ đang sống như thế nào, chế độ tốt-xấu ra sao, ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống mưu sinh của mình. Nhưng hầu hết họ không dám nói, không dám đưa ra những chính kiến của mình để góp ý ( theo cách nào đó ) chống lại cái xấu cái lạc hậu, tư tưởng bảo thủ của các vị lãnh đạo.

Ở Việt Nam để ra được một bài báo đến tay người dân thì phải qua hàng loạt các cửa ải kiểm duyệt, nhất lại là bài báo mang đậm chất chính trị thì nó càng được "chăm sóc" kĩ đến từng câu chữ, Việc loạt bài báo này ra đời cho thấy một bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức của người dân, trong nhận thức của toàn xã hội nói chung và trong bộ máy lãnh đạo nói riêng.

Xét một cách toàn diện, CNXH ở VN không còn mang nặng giáo điều, bảo thủ hay cái gì đó tương tự mà mọi người hay nói nữa mà giờ đây người VN đã bắt đầu biết nhìn nhận hơn đến quyền lợi của bản thân, các vị lãnh đạo đã trẻ hơn trong cách nghĩ, âu vẫn còn nhiều bất cập nhưng đây là một bước tiến cần trân trọng.

Việc ra đời của loạt báo trên còn chứng minh một điều, người dân VN đã coi thời kỳ đen tối đó là lịch sử và dám nhìn nhận lịch sử dưới con mắt khách quan, do vậy những con người trẻ tuổi đang là mầm non nước nhà thì không nên nhìn nhận loạt bài này như là một bằng chứng sống về CNXH ở VN để mà thất vọng, để mà kêu ca, để mà oán trách ( hay nói xa hơn là để chống phá) về một nước Việt Nam mà hãy coi đó là một bài học cần tham khảo và rút kinh nghiệm cho mình sau này. Lịch sử là lịch sử còn hiện tại là hiện tại
 
--Nhìn lại lịch sử thì có thể rút ra 1 bài học là: "Không nên lí tưởng hóa tất cả mọi thứ, kể cả thứ mà mình biết là tốt đẹp". Đúng là cái gì cũng phải đi vào thực tế.

--Việc loạt bài này được đăng thể hiện là việc kiểm duyệt cũng dần dần thoáng hơn rồi. Ít ra thì cũng đáng mừng 1 tí =D>
 
Nhìn lại lịch sử thì có thể rút ra 1 bài học là: "Không nên lí tưởng hóa tất cả mọi thứ, kể cả thứ mà mình biết là tốt đẹp". Đúng là cái gì cũng phải đi vào thực tế.

Mình hết sức tán thành.

Việc ra đời của loạt báo trên còn chứng minh một điều, người dân VN đã coi thời kỳ đen tối đó là lịch sử và dám nhìn nhận lịch sử dưới con mắt khách quan, do vậy những con người trẻ tuổi đang là mầm non nước nhà thì không nên nhìn nhận loạt bài này như là một bằng chứng sống về CNXH ở VN để mà thất vọng, để mà kêu ca, để mà oán trách ( hay nói xa hơn là để chống phá) về một nước Việt Nam mà hãy coi đó là một bài học cần tham khảo và rút kinh nghiệm cho mình sau này. Lịch sử là lịch sử còn hiện tại là hiện tại

Mình rất đồng ý.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên