Cần mạnh dạn thay đổi!

Lưu Công Thành
(congthanh)

Điều hành viên
Vì sao cần tôn trọng quá khứ?

Tôn Ngũ Viên


Cách chúng ta nhìn nhận quá khứ chính là cách chúng ta lựa chọn tương lai

Trước khi bày tỏ quan điểm về một số vấn đề trong bài phỏng vấn GS Nguyễn Huệ Chi của anh Đào Tuấn, tôi xin phân trần một chút. Tôi không sinh ra ở đất Thăng Long. Nhưng kể cũng đã hơn mười năm sống ở đất này. Mười năm có ý nghĩa quyết định tới văn hoá, tính cách và lối sống con người tôi. Tôi đã tự coi mình như một người thấm đậm cốt cách văn hoá Thăng Long.

Định nghĩa về văn hoá cực kì đa dạng. Nhưng khi đã gọi là "cốt cách" thì đấy chắc chắn không phải chỉ là những bài văn, bài thơ, hay thú vui ẩm thực. Nó cũng không phải chỉ là Hồ Gươm, Hồ Tây và vv... Tôi coi đó là cách tạo ra, nhào nặn con người, không phải trong hình thức sinh học mà trong hình thức tinh thần (trí tuệ, tâm lý, lối sống...) của nó. Con người không phải trong hình thức tĩnh tại mà là trong hình thức phát triển mang tính lịch sử. Nếu chúng ta nhận ra rằng nền văn hoá Thăng Long trong thời đại công nghiệp hoá ngày nay vẫn tạo ra những con người như của thời đại nông nghiệp vài thập kỷ trước thì chúng ta hãy thú nhận một điều: đó là nền văn hoá chết rồi. Vì vậy, giá trị của một nền văn hoá còn có ý nghĩa ở khả năng thích ứng một cách liên tục của nó. Nhiều khi, một nền văn hoá tiềm ẩn ngay trong lòng nó khả năng cải biến. Chúng ta chưa đánh giá một cách nghiêm túc khả năng cải biến, một cách có hệ thống chứ không phải mảnh đoạn, trong nền văn hoá Thăng Long xưa và nay. Do đó, hãy thận trọng khi ca ngợi nó. Có thể con người ta có một tâm lý là ca ngợi cộng đồng mình sống như là cách để ca ngợi bản thân, nhất là khi ta chưa tìm thấy lý do thuyết phục để ca ngợi cá nhân mình. Tất nhiên, không ai phủ nhận được rằng văn hoá Thăng Long chính là nền tảng của văn hoá Đại Việt. Nhưng kể từ khi các chúa Nguyễn khai phá dải đất phương Nam thì thực tế đã có một nhánh phát triển độc lập tương đối. Sự khác biệt tương đối này đã có những thời kỳ có cơ hội phát triển. Điển hình là trong thời kỳ chia cắt hai miền Nam Bắc về ý thức hệ. Và sự khác biệt ấy cũng được dung túng trong thời kỳ Pháp thuộc. Đấy là lý do cho sự năng động khác nhau của hai miền sau ngày mở cửa, đặc biệt là của hai thành phố lớn với tư cách là trung tâm của mỗi miền: Hà nội và Sài gòn. Có thể chúng ta không cần phải nhắc thêm một lần nữa rằng Sài gòn đã phát triển nhanh và mạnh hơn hẳn như thế nào so với đất Thăng Long ngay cả khi chúng tồn tại trong cùng một điều kiện chính trị, và gần như nhau về phương diện xã hội hay kinh tế trong gần 28 năm qua. Giờ đây, Sài gòn không chỉ là trung tâm kinh tế số 1 của cả nước mà nó cũng có địa vị tương tự cả về nghệ thuật và khoa học. Có thể Hà nội vẫn là nơi số 1 đào tạo nên những nhân tài trong những lĩnh vực đó nhưng chính thành phố Sài gòn mới là nơi thu hút, rèn dũa, phát triển, và sử dụng họ. Điều kỳ lạ là bất chấp những thành quả khác hẳn nhau đó, nhiều người vẫn coi Thăng Long là một cái gì đó cao quý, mang ý nghĩa biểu tượng của văn hoá Việt, trong thời kỳ lịch sử này. "Sài gòn ồn ào quá. Nó không thanh bình như Hà nội. Phải đến Hà nội thì mới biết thế nào, hiểu thế nào là Việt Nam". Đôi khi người ta trích dẫn cả những ông Tây bà đầm ra để tự huyễn hoặc mình. Nhưng chúng ta đâu muốn biết rằng họ thích nhìn Hà nội trong con mắt khảo cổ. Còn chúng ta, chúng ta có nghĩa vụ, với chính mình và với lịch sử, nhìn nền văn hoá của mình trong quan điểm phát triển. Cũng có thể hiểu được những thành phần nào đang cố níu kéo sự tôn vinh văn hoá Thăng Long hiện tại. Đấy là những lực lượng của quá khứ, mà địa vị của họ lệ thuộc vào quá khứ, hoặc là những kẻ thiển cận, kiểu như anh em GS Nguyễn Huệ Chi. Tất nhiên, tôi không định nói rằng tất cả các lực lượng của quá khứ đều như thế, chẳng hạn cách nhìn rất tích cực của nhà thơ Lê Đạt. Tôi xin được làm rõ hơn. Sự "nhôm nhoam" của văn hoá Thăng Long ảnh hưởng nặng nề đến sự nhôm nhoam của văn hoá Việt nói chung, chẳng hạn. Tôi không thể tưởng tượng được rằng các GS của chúng ta lại ca ngợi nó, khi so sánh với Trung Quốc. Trần Dần: "Tự do là vi phạm chứ không tuân theo tất yếu" Chúng ta có thứ tự do gì trong sự nhôm nhoam? Ngày trước, chúng ta có thể cuốc nhát to nhát bé cũng không ảnh hưởng đáng kể đến năng suất cây lúa. Nhưng ở thời đại công nghiệp, sản xuất hàng loạt này, một chai Coca Cola có đuôi con thạch sùng trong đó sẽ ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ hàng triệu chai Coca Cola. Ngay với hệ thống máy tính mà chúng ta đang sử dụng, nếu hệ thống các font chữ cũng "nhôm nhoam" thì chúng ta có thể hình dung được sự bất tiện đến thế nào. Nền văn minh nông nghiệp và công nghiệp không chỉ khác nhau về số lượng mà cả về tốc độ. Sự nhôm nhoam trong hệ thống giao thông dựa trên đôi chân hay những chiếc xe kéo có thể không có những hậu quả đáng kể. Nhưng với những phương tiện cơ giới, hậu quả sẽ tàn khốc. Chúng ta có để ý rằng hơn 13.000 người chết vì tai nạn giao thông trong năm qua trên đất nước này, lớn hơn bất kỳ số người chết của cuộc chiến tranh nào trong năm! Chúng ta đang sống trong sự thanh bình hay chúng ta đang chết một cách lặng lẽ? Chúng ta còn có nguy cơ chết trên đường phố không phải chỉ vì tai nạn giao thông mà vì bụi, chết dần chết mòn. Nó xuất phát từ một sự nhôm nhoam khác, sự nhôm nhoam trong xây dựng, tư hay công. Gần như 100% dân Hà nội có vấn đề về đường hô hấp, không chỉ vì thời tiết mà chủ yếu vì bụi. Nếu bạn là một Việt kiều hoặc đi du học lâu ngày về Hà nội, tôi cá rằng bạn sẽ phải lăn ra ốm khoảng một tuần trở lên bởi hệ thống hô hấp của bạn chưa kịp "thích ứng" với bụi.

Nhân đây tôi cũng xin nói thêm về nguồn gốc của sự nhôm nhoam. Đấy là di sản của sự tồn tại và phát triển dựa vào các công xã, được "hiện đại hoá" dưới hình thức làng xã, tồn tại khá độc lập với nhau và độc lập đáng kể với nhà nước trung ương phong kiến của nước Việt. Người Việt có câu: "phép vua thua lệ làng", là một sự thể hiện sống động nhất. Cùng với nền sản xuất tiểu nông, sự tồn tại tách biệt của hệ thống làng xã đã tạo ra một hệ thống xã hội manh mún, tồn tại và phát triển một cách tự phát, rời rạc. Về sau, các nhà nghiên cứu lịch sử của chúng ta lấy đó làm điều tự hào: một kết cấu "đặc sắc" của nền văn hoá Việt, cho phép những đặc thù của nó vẫn tồn tại dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc. Nhưng tôi cho rằng đấy chỉ là niềm tự hào của sự tồn tại đơn thuần. Nhìn trên quan điểm phát triển, đấy là một bi kịch lịch sử. Xã hội chúng ta phải tổ chức theo kiểu dạng đó đã tạo ra một sự ngăn cách to lớn giữa hệ thống nhà nước quan liêu và nền tảng xã hội, nói theo ngôn ngữ hiện đại là xã hội dân sự. Vì nền tảng xã hội ấy mới chỉ trải qua giai đoạn công xã nông thôn và còn bị chia cắt nên chưa có sự năng động tự thân mà cần đến những cú hích, hoặc là cú hích từ trên xuống, hoặc là cú hích từ bên ngoài vào, để phát triển. Do đó, nhà nước có một ý nghĩa lịch sử quan trọng. Áp lực từ bên ngoài cũng rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Trong bài trả lời phỏng vấn mở màn cho trang YoHanoi, GS Nguyễn Huệ Chi đã nhầm to khi nói rằng ở Trung Quốc, người ta cần phải trả một cái giá rất đắt là cuộc cách mạng văn hoá để thanh toán sự nhôm nhoam ấy. Chế độ phong kiến tập quyền từ thời Tần Thủy Hoàng đã thanh toán về cơ bản sự nhôm nhoam ấy rồi. Chính chế độ phong kiến tập quyền, sau đó được sự trợ giúp của Nho giáo, đã tạo ra tính kỉ luật đến mức khắc nghiệt của các xã hội Đông Á có ảnh hưởng của Nho giáo, trừ Việt Nam. Chúng ta có thể chứng kiến điều này đã được các nước công nghiệp mới ở Đông Á tận dụng để phát triển như thế nào. Cách mạng văn hoá, trái lại, đã phá vỡ phần nào tính kỉ luật truyền thống của xã hội Trung Quốc. Cuộc tàn phá ấy mang một ý nghĩa lịch sử khác: nó giúp các cư dân Trung Hoa khám phá ra sức mạnh của số đông, trở nên tự tin, mạnh mẽ và năng động hơn so với các cư dân Đông Á khác. Giờ đây, người Hàn Quốc, Đài Loan, và cả Nhật Bản đang phải giải quyết vấn đề ấy theo cách khác để có thể tiếp tục phát triển. Với Hàn Quốc và Đài Loan, vấn đề chưa trầm trọng, nhưng với người Nhật, vấn đề là rất trầm trọng, bởi họ đã để nó tồn tại quá lâu. Ngoài vấn đề về kinh tế chính trị (tôi có bàn đến vấn đề này trong tác phẩm mới xuất bản mang tựa đề: "Toàn cầu hoá -nghịch lý của thế giới tư bản chủ nghĩa"), còn có vấn đề về văn hoá, mà ít nhất một thế hệ mới thay đổi được. Sau 10 năm khủng hoảng, tôi liệu rằng nước Nhật cần ít nhất 20 năm nữa để thoát hẳn tình trạng đình trệ hiện nay. Có lẽ tôi đã lạc vấn đề mất rồi, nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng trước hết chúng ta phải học tính kỉ luật để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, và phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định thì mới là lúc thật sự cần đến sự giải phóng cá nhân như một giá trị phổ biến. Nhưng sự giải phóng, sự tự do cá nhân không có nghĩa là sự nhôm nhoam. Và để thanh toán sự nhôm nhoam chúng ta không đến mức phải trả giá như trong cuộc cách mạng văn hoá, dù chắc chắn là chúng ta phải trả giá.

Sự bình lặng là một khía cạnh khác. Tôi đã nói đến tốc độ của các phương tiện cơ giới trong nền văn minh công nghiệp. Tốc độ của sản xuất cũng như thế. Nó cuốn theo các hoạt động sống và giải trí. Tôi có một anh bạn, trong lần đi làm ở một doanh nghiệp nước ngoài sau khi được tuyển dụng, anh ta bị sa thải ngay trong ngày làm việc đầu tiên vì đã mời vị sếp ngoại của anh ta đi ăn. Không phải sếp của anh ta là kẻ vô ơn. Ông ta phát hiện ra tập quán ăn trưa rất... Hà thành của anh bạn tôi và nói rằng nếu ăn uống như thế thì sẽ không thể làm việc cho công ty này được! Nền văn minh công nghiệp là như thế, sự hội nhập là như thế! Nó phải hối hả chứ không thể bình lặng. Có thể, một số ít cần vượt lên trên sự hối hả ấy bằng sự bình lặng để định hướng cho sự hối hả, nhưng chúng ta không được phép định hướng cho cả một dân tộc theo cách như thế...

Lịch sử vẫn đang thay đổi. Văn hoá Thăng Long của chúng ta cũng phải thay đổi theo. Không được phép trở thành nô lệ của quá khứ, cả trong nhận thức lẫn hành động. Nếu chúng ta làm nô lệ của quá khứ, tương lai - các thế hệ con cháu chúng ta - cũng sẽ chỉ trở thành nô lệ của chúng ta. Đấy phải chăng là điều vĩ đại của một nền văn hoá, của một dân tộc?

Cuối cùng, tôi muốn nói rằng mình là người biết trân trọng những giá trị đích thực của dân tộc, của văn hoá Thăng Long. Tôi muốn sử dụng một lời chúc rất Việt, mà tôi chưa thấy có một lời chúc nào ngắn gọn mà hàm chứa nhiều như thế: Chúc một năm mới tốt lành!

Hà nội Tết Quý Mùi
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên