Bảng xếp hạng của UNDP về thành tích công nghệ

Lưu Đức Hiệp
(luuduchiep)

New Member
Bảng xếp hạng của UNDP về thành tích công nghệ

Trong Báo cáo Phát triển Con người năm 2001 của UNDP có đư­a ra Chỉ số Thành tích Công nghệ (Technology Achievement Index - TAI), với mục đích đánh giá thành tích của một nước trong việc sáng tạo, truyền bá công nghệ và xây dựng cơ sở kỹ năng con người. Chỉ số này phản ánh năng lực của một nước tham gia vào đổi mới công nghệ trong kỷ nguyên nối mạng. Chỉ số tổng hợp này đánh giá các thành tích, chứ không phải tiềm năng, nỗ lực hay đầu vào của các nước. Chỉ số này không chú trọng đến việc nước đó có dẫn đầu về phát triển công nghệ toàn cầu hay không, mà chỉ chú trọng tìm hiểu xem nước đó đã thực hiện tốt như­ thế nào việc sáng tạo và sử dụng công nghệ về tổng thể.

Thành tích công nghệ của một nước thường rất lớn và phức tạp hơn những cái mà một chỉ số nào đó nắm bắt được. Không thể phản ánh được đầy đủ quy mô của các công nghệ, từ nông nghiệp cho đến y học, chế tạo. Khó có thể đánh giá được nhiều khía cạnh của việc sáng tạo, truyền bá công nghệ và kỹ năng con người và nếu có thể đánh giá được thì cũng cần có đầy đủ các số liệu đáng tin cậy và phản ánh trung thực các khía cạnh đó.

TAI là một chỉ số tổng hợp được đư­a ra để nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách xác định các chiến lược công nghệ trong một kỷ nguyên nối mạng hiện nay. Chỉ số này cho phép các nước nhận thức rõ được vị trí tương đối của mình nh­ư thế nào so với các nước khác và định hướng cho các nhà hoạch định chính sách có một cái nhìn mới về thành tích công nghệ của nước mình để hoạch định cho tương lai.

TAI tập trung vào bốn khía cạnh phản ánh năng lực công nghệ của một nước, đóng vai trò quan trọng trong việc gặt hái được những lợi ích trong kỷ nguyên nối mạng, cụ thể nh­ sau:

. Sáng tạo công nghệ. Không phải tất cả các nước đều có vị trí dẫn đầu tưrong sự nghiệp phát triển công nghệ toàn cầu, như­ng năng lực đổi mới liên quan đến tất cả các nước và cấu thành ở mức cao nhất năng lực công nghệ. Nền kinh tế toàn cầu đã mang lại những phần thưởng lớn cho các nước đi đầu và nước tạo ra đổi mới công nghệ. Tất cả các nước đều cần phải có năng lực đổi mới, bởi vì khả năng đổi mới trong sử dụng công nghệ không thể phát triển đầy đủ được nếu không có khả năng sáng tạo, đặc biệt là trong việc làm thích nghi các sản phẩm và quy trình mới với các điều kiện địa phương.

Phổ biến đổi mới hiện tại. Tất cả các nước đều phải áp dụng đổi mới để nắm bắt được những ích lợi từ các cơ hội trong kỷ nguyên nối mạng. Điều này được đánh giá bằng sự phổ biến của mạng Internet và bằng tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao và trung trong tổng sản lượng xuất khẩu.

Phổ biến đổi mới cũ. Việc tham gia vào kỷ nguyên nối mạng đòi hỏi phải truyền bá những đổi mới đã thực hiện trước đây. Mặc dù, đôi khi có thể tạo được b­ớc nhảy vọt, nh­ưng sự tiến bộ công nghệ là một quá trình tích luỹ và sự truyền bá các đổi mới cũ hơn là cần thiết cho việc áp dụng các đổi mới sau này. Ở đây, sử dụng hai chỉ số đặc biệt quan trọng, đó là điện và điện thoại. Đây là hai yếu tố cần để sử dụng các công nghệ mới hơn và cũng là đầu vào liên quan đến đa số các hoạt động của con người.

Kỹ năng con người. Một tập hợp tới hạn các kỹ năng không thể thiếu đối với tính năng động công nghệ. Cả hai phía - người sáng tạo và người sử dụng công nghệ đều cần có kỹ năng. Các công nghệ ngày nay đòi hỏi khả năng thích nghi, tức là các kỹ năng làm chủ được luồng đổi mới liên tục xảy ra. Cơ sở của kỹ năng đó là trình độ giáo dục cơ bản để phát triển các kỹ năng nhận thức và các kỹ năng về khoa học và toán học.

Bảng xếp hạng theo chỉ số TAI đã xem xét 72 quốc gia có các dữ liệu đầy đủ và đáng tin cậy. Đối với các nước còn lại, có thể vì thiếu số liệu hoặc số liệu không đáp ứng được nên TAI không thể đánh giá. Các quốc gia trong bảng xếp hạng được chia ra thành bốn nhóm với giá trị TAI biến thiên từ mức cao nhất 0,744 (như­ của Phần Lan) đến mức thấp nhất 0,066 (Mozambique). Bốn nhóm bao gồm:

Các nước dẫn đầu (Leaders) với giá trị TAI cao hơn 0,5. Đứng đầu là các nước Phần Lan, Mỹ, Thuỵ Điển và Nhật Bản. Nhóm các nước này chiếm vị trí dẫn đầu về sáng tạo, phổ biến công nghệ và xây dựng kỹ năng;

Các nước dẫn đầu về tiềm năng (Potential Leaders) với giá trị TAI từ 0,35 đến 0,49. Hầu hết các nước thuộc nhóm này đều đã đầu tư­ vào kỹ năng con người ở mức cao và phổ biến các công nghệ cũ một cách rộng rãi, như­ng ít sáng tạo. Trình độ kỹ năng của nhóm các nước này có thể so sánh được với nhóm các nước dẫn đầu;

Các nước thích nghi năng động (Dynamic adopters) với giá trị TAI từ 0,20 đến 0,34. Các nước này rất năng động trong việc sử dụng các công nghệ mới. Nhóm này chủ yếu là các nước đang phát triển có trình độ kỹ năng con người cao hơn đáng kể so với nhóm thứ t­ư. Đáng chú ý là các nước Braxin, Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Nam Phi và Tuynidi. Nhiều trong số các nước này có các ngành công nghiệp công nghệ cao quan trọng và các trung tâm công nghệ, như­ng sự truyền bá công nghệ cũ vẫn còn chậm và không hoàn chỉnh.

Các nước nằm bên lề (Marginalized) với TAI thấp hơn 0,20. Ở các nước này, sự truyền bá công nghệ và xây dựng kỹ năng đều tiến triển chậm chạp. Phần lớn dân số đều không được hưởng các lợi ích từ sự truyền bá công nghệ cũ.

Bảng xếp hạng các nước

Các bác muốn xem kĩ hơn thì vào web;
http://www.vista.gov.vn/bantin/new4/2003/So10/1.htm
 
Back
Bên trên