Bình Chí Phèo

Lưu Công Thành
(congthanh)

Điều hành viên
Chí Phèo - hiện thân bản ngã Việt *)

Đỗ Ngọc Yên

Từ trước tới nay, con người luôn tìm kiếm những mẫu người lý tưởng bằng xương, bằng thịt, tồn tại trong đời sống thực để ký thác những giá trị tâm linh tiềm ẩn, những xung lực tâm lý sâu sắc, mà với những hoạt động thường nhật của nó không thể nào dung nạp được. Nhưng con người luôn thất bại. Thay vì điều đó, nó đã sáng tạo ra các hình tượng chính trị, tôn giáo, đạo đức, văn học nghệ thuật... để thoả mãn cuồng vọng của mình. Trong các loại hình tượng trên chỉ có hình tượng văn học nghệ thuật, do tính chất đặc thù của loại hình hoạt động sáng tạo này, cùng với hình thức phản ảnh của nó luôn gắn liền với các biểu tượng cảm tính, các dạng thức và hành vi mang tính trực giác về con người, sự vật nên nó tồn tại trong bản thể người đích thực của nó như chính những con người bằng xương bằng thịt, có thể sờ mó được, còn những hình tượng thuộc các loại hình tư duy khác thường là những định đề có sẵn và mang tính áp đặt. Đấy chính là những nét phân biệt về bản chất của văn học nghệ thuật và các hoạt động tinh thần khác.

Đương nhiên, do sự chế ngự của các điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội và văn hoá, nên ngay cả các hình tượng văn học nghệ thuật cũng thường bị các hình thức khoa học, tôn giáo, chính trị hoặc đạo đức làm cho nó lu mờ và méo mó đi. Không phải bất cứ dân tộc nào, thời đại nào cũng sản sinh được những hình tượng văn học nghệ thuật mang nội dung của mẫu người lý tưởng theo đúng nghĩa của nó, mặc dù các nỗ lực cá nhân và các tài năng không bao giờ thiếu. Điều đó được cắt nghĩa bởi chính các nhu cầu kinh tế, chính trị, lịch sử và xã hội khách quan trước mắt luôn đặt bản thân con người trên tư thế bệ phóng sẵn sàng lao lên phía trước để khẳng định sự tồn tại của chính mình. Song trạng thái bệ phóng cũng không thể nào tồn tại vĩnh cửu. Có nghĩa là con người không thể cứ lao lên phía trước mãi được. Vì trạng thái bệ phóng cũng chỉ là một trong trăm nghìn cách tồn tại khác nhau của con người trong thế giới vô cùng vô tận. Hoá ra sự tồn tại vĩnh hằng của con người và vũ trụ là sự đã xen, kết nối, hoà tan các trạng thái vận động thẳng tiến lên phía trước, giật lùi về phía sau, sang phải, sang trái, xoay tròn quanh mình và cả đứng im nữa.

Với quan điểm đó, chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, Chí Phèo là một hình tượng văn học đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã Việt.

Nếu so sánh với các hình tượng văn học trước đó, Chí Phèo không giống các hình tượng tướng lĩnh, các hiệp sĩ, các anh hùng hảo hán theo kiểu Lục Vân Tiên hay Từ Hải trong văn học cổ; các nho sĩ, thư sinh trong truyện nôm khuyết danh; hay các cậu ấm cô chiêu trong dòng văn học những năm đầu thế kỷ. Tất cả các hình tượng trên là sự minh họa cho những mẫu người sống theo những tôn chỉ chính trị và đạo đức Nho giáo. Hay nói đúng hơn họ là những phương tiện để chở cái đạo theo quan niệm của nhà Nho.

Trong văn học đương đại Chí Phèo càng xa lạ với hình tượng những người cán bộ kháng chiến, cán bộ phong trào trong Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa; những người chiến sĩ "năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm,mưa dầm, cơm vắt; máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn"... Chí Phèo cũng không sống như một Dáng đứng Việt Nam, mà chỉ là một con người lừng lững đi giữa cuộc đời, không mong cầu, không oán trách luôn luôn say mềm trong cái bản ngã vô can của chính mình.

Đương nhiên tất cả các hình tuợng về những mẫu người lý tưởng trên đều đáng để cho chúng ta trân trọng và khâm phục một thời. Họ là những con người của một thời sống có mục đích, có lý tưởng, dù đó là lý tuởng chính trị, đạo đức hay tôn giáo. Họ dám xả thân cho một cái gì đó mà họ tin là có thật. Họ không cần giữ lại gì cho riêng mình, ngay cả một tấm hình, một dòng địa chỉ. Thực chất những con người bằng xương bằng thịt đó đã trở thành những hình tượng văn học phi ngã một thời. Họ đã sống cho người mà không sống cho mình (for it not for me!)

Nhưng lịch sử càng lùi xa thì những mẫu người đó ngày càng trở nên xa lạ hơn với chính bản thân chủ thể sáng tạo ra nó. Ngay cả những người vừa rút chân ra khỏi cuộc chiến, đại bộ phận đã không thể sống theo gương những vị chúa phi tôn giáo của thời chiến được. Họ buộc phải đem các vị lên bàn thờ hay cho vào viện bảo tàng vái ba vái để đi tìm đường cứu mình. Cứu nước là nhiệm vụ chung của cả cộng đồng, dân tộc. Còn cứu mình dường như là việc riêng của mỗi người. Có thể nói những mẫu người chiến đấu vì lý tưởng chung đã một thời ăn sâu vào máu thịt mỗi cá nhân và cả cộng đồng người Việt như cơm ăn, nước uống, thì nay nó chỉ được nhắc đến xuân thu nhị kỳ trong các dịp kỷ niệm, hoặc trong các trang sách học trò như những giáo điều tôn giáo. Cuộc sống bao giờ cũng khôn ngoan và láu cá hơn những điều người ta huyễn hoặc ra để áp đặt cho kẻ khác.

Vậy là, cả những người ngoài cuộc, những người trong cuộc, và cả những kẻ sinh sau đẻ muộn đã nhanh chóng tự tạo cho mình cách tồn tại riêng khi cuộc sống đã có những bàn giao lịch sử của nó. Thực ra, những kẻ chỉ biết sống theo những giáo lý áp đặt từ bên ngoài chỉ có một cách ứng xử duy nhất là tiến lên phía trước, tử vì đạo. Từ đời này sang đời khác nó trở thành lẽ phải thông thường trong nhận thức của người đời. "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" đích thị đấy là một lẽ phải thông thường và đã trở thành truyền thống đạo đức của người Việt mỗi khi đất nước có giặc giã. Và lẽ đương nhiên là những người có công trong đánh giặc nhanh chóng được đề cao như một mẫu người lý tưởng sống xả thân vì mọi người. Nhưng những mẫu người loại này thực chất chỉ là sự biểu hiện của nhận thức chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo. Họ không xa lạ mấy với những kẻ bầy tôi trong các học thuyết Nho giáo, những con chiên ngoan đạo trong giáo lý Thiên chúa giáo. Mới nghe qua, biết qua tưởng là một cái gì đó rất cao siêu, nhưng thực chất nó rất sơ lược, giản đơn và một chiều. Dường như nó được treo lơ lửng đâu đó giống như chúa Giê-su bị đóng đinh trên giá câu rút. Và cần phải thấy rằng những hình tượng chính trị, tôn giáo, đạo đức thực chất chỉ là những hình ảnh minh hoạ một cách thô thiển cho các học thuyết tư tưởng mang đầy tính chất chủ quan và áp đặt. Nó không thể nào đạt tới độ sâu và sự đa chiều của một bản ngã Chí Phèo. Hay nói đúng hơn chúng không thể tồn tại trên mảnh đất riêng của mình được, vì thế văn học nghệ thuật là mảnh đất màu mỡ để người ta gieo cấy những hình tượng trên.

Theo tôi, chỉ có Chí Phèo mới đích thực là hình tượng văn học theo đúng nội dung, bản chất của khái niệm. Bản thân hắn ta không mang trong mình bất cứ một định đề tôn giáo, chính trị, đạo đức nào có sẵn. Trước hết hắn ta tồn tại như bất cứ một sự vật nào. Mọi hành vi của Chí Phèo dù lúc tỉnh hay lúc say, dù ở nhà mình, ở ngoài miếu, khi đi mua rượu chịu hay là đến xin đểu cha con Lý Cường... cũng chỉ là cái cách tồn tại của một Chí Phèo làng Vũ Đại - Việt Nam. Hắn ta chưa bao giờ biết mình sinh ra để làm gì và có thực sự đang tồn tại trên thế gian này hay không. Câu tuyên ngôn cuối cùng của Chí Phèo ở nhà Bá Kiến trước lúc hắn rút dao ra đâm chết lão Bá để rồi tự đưa mình về cõi vĩnh hằng của chúng sinh là "Tao cần lương thiện!" Thực ra Chí Phèo chưa bao giờ là kẻ ác, ngay cả khi hắn đi cướp giật hay xin đểu. Một người như Chí Phèo chẳng thể nào ác với ai được. Hắn ta không có mưu đồ hại người thì làm sao có thể làm được điều ác. Cái ác chỉ có thể có ở những kẻ mạnh tiền của, quyền lực và mưu mẹo. Những thứ đó Chí Phèo chưa bao giờ có. Sự trớ trêu của cuộc đời là người lương thiện đến như Chí Phèo lại luôn bị ám ảnh mình là kẻ bất lương. Còn những kẻ bất lương như gia đình lão Bá lại luôn nghĩ mình là người lương thiện, và luôn lấy làm đắc chí, hãnh diện về điều đó, mỗi khi họ cầm những đồng tiền bẩn thỉu do những mánh lới thâm độc hay cướp giật trắng trợn của dân nghèo mà có, dúi vào tay Chí Phèo như là của bố thí. Do đó hắn mới đòi lương thiện ở lão Bá. Nỗi ám ảnh của Chí Phèo là một đối trọng tất yếu của cơ sở kinh tế xã hội, các thiết chế chính trị và đạo đức đương thời. Nếu những kẻ như gia đình lão Bá là người thì những người như Chí Phèo là con giun, con dế và ngược lại. Nhưng dù là giun dế, sâu mọt hay là người thì trước hết vẫn phải tồn tại. Cuộc chiến giữa một bên là Năm Thọ, Binh Chức và Chí Phèo và bên kia là những Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng và cha con nhà lão Bá Kiến, không đơn giản chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp như các nhà nghiên cứu trước đây thường nghĩ, mà theo tôi trước hết đó là cuộc vật lộn sinh tồn. Tính chất của cuộc vật lộn này gay gắt, quyết liệt và sâu sắc hơn nhiều những cuộc đấu tranh vì các quyền lợi chính trị, kinh tế và đạo đức. Trong cuộc chiến sinh tồn chưa hẳn kẻ có nhiều tiền của, quyền lực và lắm mưu mẹo lúc nào cũng thắng. Rõ ràng Chí Phèo luôn dồn cha con Bá Kiến vào thế chân tường, mặc dù thế và lực của họ luôn tỏ ra mạnh hơn hẳn. Họ luôn phải xuống thang từng bước để cuối cùng lão Bá nhận lấy cái chết giản đơn như là sự kết thúc tấn bi hài kịch của một loại thú hình nhân. Chí Phèo chống lại Bá Kiến không vì những cái mà trước đây người ta vẫn cho rằng hắn là một công dân đang thực hiện nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm lật đổ tầng lớp thống trị xã hội.

Không! Cần tiền uống rượu thì lão Bá đã cho, cần ruộng vườn nhà cửa thì cũng đã có. Các nhu cầu về kinh tế vật chất với hắn như vậy xem ra là đã thoả mãn. Vậy Chí Phèo còn cần gì nữa? Một mụ đàn bà để thực hiện hành vi tính dục mang tính sinh tồn nòi giống ư? Thì đã có Thị Nở đấy thôi! Cái duy nhất mà Chí Phèo cần là lương thiện.

Nhưng nếu lương thiện chỉ là những quan hệ giao hòa với đồng loại thì Chí Phèo đâu có thiếu. Hắn không chỉ đối xử tử tế với Thị Nở mà còn đem lại hạnh phúc cho thị để đến khi hắn chết đi thị vẫn thầm biết ơn là mình đang mang trong người một hòn máu của Chí Phèo. Hắn cũng không phải là kẻ luôn gây sự với những người dân lành chỉ biết làm lụng kiếm ăn, sinh sống.

Vậy cái lương thiện mà Chí Phèo đòi ở đây là gì? Công bằng xã hội ư? Chắc chắn là không! Vì Chí Phèo không có mảy may một chút ý thức xã hội nào cả, thì làm sao hắn có thể đứng ra đòi công bằng cho xã hội. Và như thế Chí Phèo cũng chưa bao có ý thức được rằng mình cần phải đấu tranh chống lại giai cấp thống trị như nhiều nhà nghiên cứu trước đây vẫn khẳng định điều này như một chân lý vĩnh hằng. Cũng cần phải nói rằng cách tiếp cận văn học theo kiểu xã hội học dung tục, đem các thước đo chính trị, đạo đức để thẩm địmh giá trị hình tượng nghệ thuật, cố tình bằng mọi cách để chứng minh cho các định đề tư tưởng và đạo đức có sẵn đã từng làm cho các hình tượng văn học trở nên méo mó, mất hẳn tính nhân bản của nó - cái làm nên giá trị đích thực và sâu sắc của hình tượng văn học. Chính kết quả những phương pháp nghiên cứu này đã làm cho bao thế hệ công chúng, đặc biệt là các cháu học sinh đã hiểu sai hình tượng, tác phẩm văn học và tác giả... hiện rất còn rất phổ biến ở nước ta từ trước đến nay. Đã từ lâu người ta quy cho Chí Phèo đủ mọi thói hư tật xấu và kể cả những cái hay cái tốt mà hắn ta không hề có hoặc chí ít bản thân hình tuợng Chí Phèo của Nam Cao cũng không hề nói lên điều đó. Chẳng hạn, nhiều nhà nghiên cứu đã qui cho Chí Phèo là kẻ vô chính phủ, là hạng người dưới đáy xã hội, là kẻ méo mó về nhân cách, suốt đời lúc nào cũng say khướt... Hay Chí Phèo là kẻ đại diện cho những người nông dân thời kỳ trước cách mạng tháng Tám dám đứng lên đấu tranh chống lại Bá Kiến - kẻ đại diện cho giai cấp thống trị, v.v... Nhũng suy nghĩ như vậy thực chất là sự suy diễn và áp đặt vô lối. Chí Phèo không phải là kẻ vô chính phủ. Hắn không chống lại xã hội cũng không chống lại giai cấp thống trị. Dưới con mặt của hắn, xã hội chỉ là một đám hỗn mang không có trên, không có dưới, không có trật tự kỷ cương, không có đúng, sai, phải, trái.... không có kẻ thống trị cũng không có kẻ bị trị, mà chỉ có các sinh thể đang tồn tại. Một người như Chí Phèo không cha, không mẹ, không người thân thích, không được giáo dục, học hành từ khi sinh ra cho đến lúc chết, làm sao có thể hiểu được bất công và công bằng. Và hắn cũng không thể nào hiểu nổi cái khốn khổ, khốn nạn của mình và của người là do đâu. Thực ra Chí Phèo chưa bao giờ để tâm đến việc đó. Hắn chỉ đòi làm một con người đích thực, theo đúng nghĩa của nó. Hắn chưa hề sống theo một tôn chỉ đạo đức chính trị hay tôn giáo nào. Khát thì uống. Uống rượu cũng chẳng sướng gì hơn uống nước lã. Rượu làm cho hắn say. Say thì chửi. Chửi chán rồi ngủ. Rồi làm tình với Thị Nở. Và cuối cùng là đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

Chính Bá Kiến cho hắn tiền để uống rượu mới là mưu đồ của những kẻ bốn đời làm lý trưởng như y. Thực ra đấy là cách giết người của những kẻ ác tâm, nhiều tiền của, quyền lực và mưu chước nhưng lại không ý thức nổi bản ngã của chính mình. Chí Phèo đâu có nghĩ được rằng cần phải chống lại Bá Kiến như những kẻ thống trị hắn, làm cho hắn khổ. Kể cả ý thức về sự sướng-khổ, hạnh phúc-bất hạnh... cũng là những cái sau này người ta áp đặt cho hắn. Từ khi sinh ra cho đến lúc lìa khỏi cõi đời này, Chí Phèo luôn sống theo cái mình muốn - tức là sống theo bản năng tồn tại của chính hắn. Cái khổ của Chí Phèo không phải là thiếu các nhu cầu về vật chất và tinh thần như những con người bình thường, mà chính là cái khổ của kiếp người, của chúng sinh trên thế gian này.

Thử làm một phép so sánh giữa Chí Phèo và Bá Kiến xem ai sướng, khổ hơn ai. Giữa hai sinh thể này không có sự sướng-khổ, hay-dở, hạnh phúc-bất hạnh, mà chỉ có sự biểu hiện khác nhau của các quan niệm về vấn đề này mà thôi. Là người sinh ra trong một gia đình bốn đời làm Lý trưởng như cha con Bá Kiến, cả làng xã, huyện phủ ai cũng kiềng mặt, chỉ trừ có Chí Phèo. Nhưng thử hỏi mấy ai tôn trọng quý mến họ. Là một người lương thiện điều đầu tiên cần phải biết là không nên ăn thịt đồng loại. Vì qui luật sinh tồn ăn miếng phải trả miếng không bằng cách nay thì bằng cách khác. Cái chết của Bá Kiến chứng tỏ hắn không đáng làm người, mà chỉ đáng làm một con vật mà thôi. Bá Kiến chết như một con chó bị cắt tiết không hơn không kém. Hỏi như vậy là sướng hay khổ ? Còn Chí Phèo cảm thấy mình không là con người hay chí ít cũng là không được làm người, nên hắn đã tự hoá thân làm kiếp khác thì có gì là khó và khổ đâu.

Cái khổ của Chí Phèo không phải là ở kinh tế hay đạo đức, mà chính là sự dằn vặt của bản thể tồn tại trong tư cách Một con người cuả hắn. Những mặc cảm về thân phận làm người luôn ám ảnh hắn. Một sự ám ảnh chìm sâu trong vô thức. Uống rượu, ăn vạ, làm tình, giết người và tự giết mình là một chuỗi kết nối các hành động vô thức. Chí Phèo ăn vạ không để đòi quyền lợi; uống không để thưởng thức rượu ngon; Cuộc làm tình mây mưa với Thị Nở dưới ánh trăng suông, ngoài vườn chuối không một cái gì ngăn cản nổi bản tính người của hắn, đến mức những tàu chuối non cũng hứng tình giẫy lên đành đạch, thì hắn ta mới mơ hồ cảm thấy mình là một con người đang tồn tại đích thực mà thôi, chứ không hề để tìm kiếm một người con sau này nối nghiệp cha của hắn, và càng không phải để cải tạo cái xã hội ruỗng nát và đầy rẫy thối tha đã tồn tại từ bao đời nay, cũng không để chứng tỏ hắn và Thị yêu nhau, mà chỉ đơn thuần là hắn cần phải làm như vậy. Cuối cùng hành động giết Bá Kiến đối với hắn không nhằm mục đích trả thù cho gia đình, dòng họ, bởi vì hắn làm gì có những thứ đó; hay chống lại sự bất công đòi quyền bình đẳng xã hội, đòi tiền bạc, quyền lực. Chẳng qua bản ngã tồn tại của Chí Phèo bị dồn nén tích tụ trong vô thức đến mức hắn không thể làm khác được. Chính hành động ấy là con đường tất yếu khách quan đưa Chí Phèo đi giật lùi để trở về cái bản ngã vô can của hắn. Cần phải thấy rằng, nếu người nào đó có ý thức về các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo thì chắc chắn không thể nào có sức mạnh hành động như Chí Phèo. Đối với hắn không thể có một thế lực nào ngăn cản con đường khẳng định bản ngã của chính mình. Con đường rong ruổi đến cõi tự do tuyệt đối của Chí Phèo chỉ là một quá trình giải stress, mà tiền kiếp đã ký thác vào thực thể người của hắn. Chí Phèo không phải là kẻ đại diện cho một đẳng cấp xã hội nào. Hắn ta chỉ là một sứ giả khoác trên mình bức thông điệp về thân phận làm một con người.

Trong văn học thế giới hình tượng Hamlet của Shakespeare, chàng công tử nước Anh khi biết rõ người chú là kẻ giết cha mình để lấy mẹ, luôn dằn vặt và đau khổ. Chàng luôn tự căn vặn To be or not to be. Nhưng đấy là sự dằn vặt về ý thức danh dự, lớp hào quang mà giới quí tộc Anh thời bấy giờ đã khoác lên người chàng. Sự dằn vặt của Hamlet để tìm kiếm các giá trị đạo đức và chính trị đương thời, hơn là các giá trị nhân bản. Đấy là những vấn đề nhận thức các quan hệ xã hội, chứ không phải là vấn đề bản thể tồn tại của cái cá nhân tạo lập nên các quan hệ đó. Hamlet đã cho diễn lại vở kịch để nhận chân chính xác thủ phạm, rồi tìm cách trả thù cho cha chàng. Việc làm này không hề nhằm mục đích bảo vệ bản ngã của anh ta, mà là sự bảo tồn danh dự cho dòng họ, cho giới quí tộc nước Anh thời Phục hưng. Sự cảnh báo cuối cùng của Hamlet là loài người hãy hòai nghi tất cả. Đúng là như vậy. Trong thực trạng của Hamlet lúc bấy giờ cần phải hoài nghi các định chế chính trị, tôn giáo và đạo đức phong kiến trung đại đã bộc lộ một cách đầy đủ tính chất phi ngã của nó. Âu đấy cũng là sự mong cầu mang ý nghĩa đạo đức hoặc cùng lắm cũng chỉ mang ý nghĩa nhận thức luận mà thôi.

Còn Chí Phèo không mưu chước, không mong cầu, đòi hỏi về đạo đức, danh dự cá nhân, gia đình, dòng họ. Hoàn toàn khác với Hamlet, người luôn luôn trăn trở về cái chết của cha mình như là một sự oan ức, trái với lẽ phải thông thường, một sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Còn Chí Phèo dằn vặt, trăn trở để được tồn tại như một sinh thể đích thực, chưa hề biết đến bất kỳ một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo nào cả. Hắn ta không căn vặn về việc không có cha mẹ, người thân, thậm chí cả miếng ăn để nuôi sống cái xác thịt đang lù lù ra đấy, hắn ta không hề bận tâm. Đói thì ăn. Khát thì uống. Uống đến chán, đến say, còn thì vứt bỏ, hết thì đi xin, không cần lo toan định liệu, không biết quá khứ, không cần tương lai, chỉ có hôm nay mới là hiện hữu. Thế thì hắn cần gì cái thứ đạo đức, nhân cách giả tạo do các người bày đặt ra. Hắn làm gì có danh dự và phẩm giá để dằn vặt và đau khổ như những chàng công tử phong kiến. Ngay cả việc giản đơn là đi đúng đường thì giường như đối với Chí Phèo xem ra cũng là một cái gì đó xa vời, nằm ngoài ý thức của hắn. Kết cục hắn định đi đến nhà bà cô để tìm Thị Nở, kẻ duy nhất có thể làm thức dậy bản tính người trong hắn, thì bóng ma vô thức đã ám ảnh đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Hành động đâm chết Bá Kiến của hắn là vô thức hay nói cách khác đấy chính sự bừng tỉnh, một bước nhảy vĩ đại từ thế giới của cái vô thức sang thế giới của cái ý thức - ý thức về bản ngã tồn tại của chính mình. Chỉ có hành vi ấy mới trả lại cho Chí Phèo cái vốn có của hắn, hay đúng hơn hắn mới chính là hắn. Bá làm gì có thù oán cá nhân với Chí Phèo, thậm chí lão Bá còn có thể là bố đẻ ra Chí Phèo như một số người đã nghĩ. Y kiến này là khả lý. Chí Phèo cũng không hề ý thức được lão Bá là kẻ bóc lột và đày ải hắn. Vậy là hành động giết người và tự giết mình của hắn là sự giải toả khát vọng làm người đã dồn nén, tích tụ trong bản năng vô thức của hắn từ bao đời nay mà chưa thực hiện được!

Thị Nở cũng là một thực thể tồn tại đồng đẳng về mặt phẩm chất với Chí Phèo. Hai thực thể này cộng sinh với nhau đã làm bật dậy cái nhân bé xíu như một tín hiệu vô ngôn, khiến người đời có thể nhận ra họ là những thực thể đang tồn tại trên thế gian này. Đối với họ làm gì có tình yêu theo quan niệm của chúng ta bây giờ. Ngay cả sự ân ái, để rồi cuối cùng Chí Phèo ký thác giọt máu của mình vào Thị Nở cũng chỉ là một hành vi bộc lộ bản năng sinh tồn trong vô thức của hắn, chứ không hề bộc lộ những khía cạnh tâm lý và đạo đức như người ta vẫn tưởng.

Thực chất những biểu hiện của quá trình bộc lộ tâm lý, tính cách của họ, mà độc giả đã nhận được lại là phần gia vị thêm vào món cháo triết học mà chỉ có thiên tài của Nam Cao mới tạo dựng nên được. Toàn bộ tác phẩm, ngoài những câu chửi và những câu đòi lão Bá cho lương thiện, còn có một vài câu Chí Phèo nói với Thị Nở sau cái đêm thực hiện hành vi sinh tồn của hắn. Chính nhờ những câu nói ấy mà công chúng mới đón nhận được một Chí Phèo bằng xương bằng thịt, vừa gần gũi, vừa xa lạ ở cái làng Vũ Đại - Việt Nam này. Nhưng cách tỏ tình ấy xem ra không phù hợp với logic phát triển nội tại của bản ngã Chí Phèo. Vì sức mạnh cuả hắn chính là vô ngôn.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiến tới cõi vĩnh hằng bằng con đường tu luyện từ hữu ngôn đến vô ngôn, đấy là sự tu luyện của trí tuệ, có ý thức rõ ràng về bản ngã, song con đường dẫn Thích Ca Mâu Ni đến Niết Bàn thật cao siêu và gian truân vất vả. Nhưng âu đấy cũng chỉ là một trong trăm nghìn con đường để tiến tới bản ngã. Và cách đi lùi để trở về bản ngã của Chí Phèo cũng là một con đường đắc dụng và độc đáo. Chí Phèo là người Việt Nam duy nhất trên thế gian này có thể đi lùi để trở về bản ngã. Xét cho cùng trong vũ trụ vô thường, thì tiến hay lùi cũng chỉ là các qui ước đầy tính chủ quan của con người. Những thước đo giá trị ấy là đúng, nhưng chỉ có thể áp dụng đối với những người bình thường. Còn đối với bản thể vũ trụ nó hoàn toàn vô nghiã. Nếu lấy con người hiện hữu làm mốc giới và bản thân con người hiện hữu ấy đã chứa sẵn phôi của bản thể vũ trụ, thì sự đạt tới bản ngã xét cho cùng chỉ là Một. Nếu có sự phân biệt nào đấy thì chỉ là các dạng thức và quá trình khác nhau tiến tới bản ngã mà thôi. Con đường đạt tới cõi vĩnh hằng của Phật Thích Ca Mâu Ni không giống Chí Phèo, nhưng không vì thế mà con đường của Chí Phèo là bất khả dụng, hoặc giả là con đường này đắc địa hơn con đường kia, hay một con đường thì trơn tru, sáng sủa, còn con đường kia thì gồ ghề, u tối. Mọi con đường tiến tới bản ngã đều phải vượt qua những lẽ phải thông thường, vượt qua sự ràng buộc của các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức và tôn giáo; rũ bỏ tất thảy những nhiễu nhương thường nhật. Thích Ca Mâu Ni đạt tới cõi vĩnh hằng là sự thắng lợi cuả ý chí tôn giáo, mang nặng tính chất răn đe và nêu gương đạo đức cho người khác. Còn Chí Phèo đạt tới sự thắng lợi của bản ngã tự nhiên lại mang tính chất cảnh báo về giới hạn của hai trạng thái: Tồn tại và ý thức về sự tồn tại đó. Cũng vì thế nó mang tính chất phổ quát, có giá trị triết học sâu sắc. Chúng ta biết rằng hình tượng tôn giáo, chính trị và đạo đức dù là viên mãn đến mấy cũng chỉ đạt đến sự thức tỉnh của ý thức về Chân - Thiện - Mỹ. Hay nói chính xác hơn nó cũng chỉ đạt đến sự ý thức về bản ngã. Còn hình tượng văn học viên mãn là đạt đến bản ngã. Về khía cạnh này hình tượng văn học sâu sắc và đa chiều hơn các loại hình tuợng khác, do tính chất đặc thù của phương thức tư duy nghệ thuật qui định cùng với năng lực thụ cảm đặc biệt của nhà nghệ sỹ thông qua những trải nghiệm cá nhân: ý thức và vô thức; lắng đọng tự nhiên trong anh ta, tạo nên tính chất đa tầng của hình tượng nghệ thuật mà không thể bóc tách được bằng thước đo giá trị cuả chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo.

Như vậy, trong trò chơi ú tim săn tìm bản ngã, Chí Phèo là hình tượng duy nhất trong văn học Việt Nam đã làm được một việc phi thường là đi lùi để tự trở về với bản ngã chính mình. Cuối cùng cái lương thie^.n mà Chí Phèo đòi chính là bản ngã đích thực, cái luôn tiềm ẩn và thường trực trong vô thức của hắn ta.

8 /1998

Đỗ Ngọc Yên



-----------

*) Tác giả Đỗ Ngọc Yên, sinh 1950, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp 1977, biên tập Tạp chí Triết học từ 1979-1988, từ 1988-1990 đi lao động ở CHDC Đức, 1991 đến nay về nước làm ở: Viện Goethe, Tạp chí Tính dục học lâm sàng, Tạp chí Nguồn Sáng và nay làm biên tập viên báo Sức khoẻ và Đời sống. Làm thơ, viết lý luận phê bình. Có bài tin trên các báo chí hải ngoại như Văn Học (Mỹ), Việt (Úc). Bài " Chí Phèo - hiện thân bản ngã Việt" in trên Văn Học số tháng 8-1997, in lại trên tạp chí Sông Hương (Việt Nam) số tháng 6-1998. Tác phẩm: "Văn chương- những cuộc truy tìm"; 350 trang, NXB Văn Học 2001.
 
Tản mạn về Nam Cao và Chí Phèo

Bùi Đình Thắng


Không có một hình tượng văn học tồn tại như một giá trị tự thân, ở bên trong tác phẩm văn học, và vì vậy, không có câu hỏi đích thực hay không.

Hình tượng văn học tồn tại bên ngoài tác phẩm, trong ý thức và cảm nhận của người đọc, bên trong hệ thống giá trị văn hoá mà mỗi cá nhân nắm giữ. Mỗi tác phẩm văn học, giống như một trạm truyền tin, truyền đi những tín hiệu để rồi chúng hội nhập nơi người đọc, tái tạo và hình thành nên những hình tượng, giống nhau hay khác nhau, trong những hệ qui chiếu khác nhau. Ở nơi người này là anh hùng, nơi người kia là một tên tội phạm, ở nơi người thứ ba, là một tha nhân bị bóng đè, nát bẹp dưới sức nặng ngàn cân của tầng tầng lớp lớp những giá trị, những son phấn, những ẩn ức của cả một nền văn hoá.

Người làm văn học, lý luận phê bình văn học là người biện giải hệ qui chiếu của mình, phổ quát nó nơi người đọc khác. Cho dẫu rằng công việc ấy là thành công, tùy thuộc vào tài nghệ, hệ qui chiếu ấy lan truyền trong không gian và thời gian không hoàn toàn nguyên vẹn. Nó có thể lớn lên, sinh sôi nảy nở, có thể gầy mòn, mất mát và tơi tả. Bản sao của những nhân vật văn học, vì thế mà cứ lan truyền đi mãi, chúng có thể lớn lên, sinh ra hay chết đi trong những tâm hồn, những thế hệ khác nhau, cứ thế, như những đợt sóng. Làm sao có thể khác.

Ai biết tác giả đã chủ định chính xác những gì khi xây dựng một hình tượng? Mà điều đó đâu có hề chi khi chính anh ta, đọc lại tác phẩm của mình lúc bình minh, cũng có thể chết đi những ý nghĩ ban đầu hay sinh thành ra những điều mới mẻ tinh khôi không ngờ tới. Đứa con tinh thần, vì thế, độc lập từ khi nó sinh ra, thuộc về một thế giới khác, như những viên đạn bắn ra bên ngoài nòng súng. Chúng có thể là những viên đạn thối hay trở thành một viên bộc phá mà sức giật tiêu hủy luôn người đã sản sinh ra nó.

Nam Cao, một ngày đẹp trời, cũng đã sinh ra Chí Phèo trong làng Vũ Đại. Có thể không bao giờ có một ai như Chí Phèo, không bao giờ có một làng như làng Vũ Đại. Có hề chi, ta tìm thấy trong đó những cái giống mình, những cái mình không có. Ta gửi gắm vào trong đó những cảm nhận, những ẩn ức, những ước mơ và khát vọng. Ta rút ra những hình tượng, những hình tượng làm thông điệp chung, trong những tiếp xúc giao hoà với thế giới.

Ừ, thì viên đạn đã bắn đi, nó có đường đi riêng của mình, nhưng không phải Nam Cao không biết mình hướng nòng súng về phương nào? Ừ thì Chí Phèo đã đái vào miếu thờ, đã chửi cả làng Vũ đại, nhưng ai biết Nam cao đã nghĩ gì khi vén quần anh Chí lên, ai đã biết Nam cao chủ định gì khi rạch nát khuôn mặt Chí Phèo trong những lần ăn vạ, ai đã biết Nam Cao căm thù hay tức giận như thế nào khi cho anh cắt cổ Bá Kiến. Thậm chí, ngay cả điều đó giờ đây cũng không còn quan trọng nữa, chúng ta đã sắp sẵn, nơi viên đạn rơi xuống, một thùng thuốc nổ.

Martin Eden, trong tiểu thuyết cùng tên của Jack London, cũng đã tranh đấu với cuộc đời, với xã hội, rồi hoài nghi và phủ nhận các giá trị đạo đức giả trá của xã hội (mỉa mai thay, hình như chính vì có chúng mà xã hội đã tồn tại cho đến nay, ít ra là theo cái cách mà chúng hiện hữu hôm nay) và cuối cùng cũng tự hủy, chìm dần trong dòng nước trắng đục của đại dương. Nhưng M. Eden đã làm điều đó một cách chân chính, đàng hoàng và trong sáng. Như một con người.

Nam Cao, hèn hơn, làm điều đó qua ống quần của một thằng say rượu, qua bộ mặt và cuộc đời của một gã khốn cùng không cha không mẹ. Có thể những lo sợ, có thật và không có thật xuất phát từ bộ máy kiểm duyệt - nhà nước và văn hoá, có thật và không có thật - đã khiến Nam Cao phải làm như vậy chăng? Mà có thật Nam Cao làm như vậy không? Điều đó có hề chi. Chỉ biết rằng hình tượng Chí Phèo đã sống, đã tồn tại, dung tục hoá trong đời, cho đến một ngày.

Giờ đây, trên vai anh là bản ngã dân tộc, là hiện thân của những khát vọng vô thức tiềm ẩn bị kìm nén, là sự tự khẳng định mình bằng tư cách của một bản lĩnh tự do....

Thế ra suốt hơn nửa thế kỷ qua, tất cả đã bị lừa, đã bị chơi khăm. Suốt hơn nửa thế kỷ qua, đã bị lừa vì một nỗi lo sợ kiểm duyệt của đầu thế kỷ, đã chỉ chăm chăm nhìn vào giai cấp, tầng lớp, bần nông-địa chủ... mà quên đi cái chiều sâu văn hoá mà anh Chí đã còng lưng gánh vác. Đã bị lừa. Và thay vì phải chuẩn bị sẵn một thùng pháo hoa, người ta chôn ở đó một thùng C4. Không phải Chí Phèo đi lùi để tìm lại bản ngã của mình, mà chúng ta đi lùi để khám phá ra chiều sâu văn hoá dân tộc trong hình tượng văn học của một anh giáo cũ đầu thế kỷ. Chúng ta đi lùi để tìm về bản ngã của dân tộc. Hay chính cái bản ngã ấy lạc đường, nay đuổi theo chúng ta, níu áo mà đòi cái nợ tha phương? Có hề chi, ngay cả điều vừa mới khám phá ra ngày hôm nay, cũng có thể trở thành một tín điều lừa đảo lớn lao sau 50, 70 năm nữa. Trong cuộc lên đồng của vô thức, trong cơn say của chữ nghĩa và sự ám thị mộng du mang tư cách thiền sư, ta có thể lôi một con quỉ từ tám tầng địa ngục để đánh bóng dưới ánh mặt trời. Ai chấp kẻ say? Làng Vũ đại không chấp, chỉ khoái trá nhấm nháp sự sung sướng ngấm ngầm khi quan sát cuộc chiến đấu của kẻ chết thay. Càng ngẫm càng cay.
 
Chí Phèo trong tham luận của tác giả Đỗ Ngọc Yên

Bùi Đình Thắng


Đọc bài “Chí Phèo-Hiện thân của bản ngã Việt” của anh Đỗ Ngọc Yên, mà thấy Diễn đàn im ắng quá, tôi có mấy băn khoăn nhỏ muốn được mang lên hỏi anh ĐNY và các anh chị. Đây không phải là phản biện, chỉ là những băn khoăn của một người đọc.

Thứ nhất: Trong câu kết luận của phần mở đầu: “ Với quan điểm đó, chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt nam, Chí Phèo là một hình tượng văn học đích thực.”

Thứ hai: “Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã Việt.”

Tôi cố gắng đọc lại phần mở đầu và cả bài, nhưng không thể tìm thấy ở chỗ nào tác giả định nghĩa một cách rõ ràng thế nào là một “hình tượng văn học Đích Thực”, và thế nào là “bản ngã Việt”.

Từ xưa đến giờ tôi vẫn nghĩ hình tượng văn học là hình tượng văn học chứ chưa bao giờ tự hỏi nó có là đích thực hay không đích thực. Nếu như tôi hiểu đúng quan điểm của tác giả trong hai đoạn văn mở đầu, hình tượng văn học đích thực phải “mang nội dung của mẫu người lý tưởng theo đúng nghĩa của nó”. Và mẫu người lý tưởng đúng nghĩa là phải được “ký thác những giá trị tâm linh tiềm ẩn, những xung lực tâm lý sâu sắc”, không bị bất cứ “các hình thức khoa học, tôn giáo, chính trị hoặc đạo đức” làm cho nó lu mờ và méo mó. Đến đay thì không có vấn đề gì, tôi chỉ còn băn khoăn ở mấy chữ “hình thức khoa học, [hình thức] chính trị, [hình thức] tôn giáo, [hình thức] đạo đức?!“ Chữ “hình thức” ở đây chỉ cái gì, nó làm “lu mờ” và “méo mó” hình tượng mẫu người lý tưởng ra sao? Đã là lý tưởng là phải có những tiêu chí của sự lý tưởng ấy. Ở đây, các tiêu chí của lý tưởng không làm cho một người đọc quen với ngôn ngữ kỹ thuật như tôi được thỏa mãn.

Hãy cứ thử tạm chấp nhận là tiêu chí lý tưởng là “không bị ảnh hưởng của bất cứ các “hình thức” khoa học, chính trị, tôn giáo, đạo đức nào cả. Vậy diện mạo còn lại của nó ra sao? Đến đây tôi có cảm tưởng như mình đang cởi áo cho ma, cứ cởi hết áo của ma đi thì sẽ được con ma, và tôi chẳng còn thấy gì.

Có lẽ tôi hiểu đúng như vậy nên trong câu kết luận của phần mở, tác giả cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là hình tượng văn học đích thực.

Tôi xin chuyển sang mối băn khoăn thứ hai: “Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã Việt.”

Khi đọc đến đoạn tác giả cho rằng “Bản thân hắn ta không mang trong mình bất cứ một định đề tôn giáo, chính trị, đạo đức nào có sẵn” thì tôi cảm thấy phân vân lắm. Trong cách hiểu của tôi thì Con Người là một sinh vật xã hội. Vì là một sinh vật xã hội, nó mang theo trong mình tất cả những định đề tôn giáo, chính trị, đạo đức có sẵn trong xã hội đó. Cho dù là định đề đó không khi nào được Chí Phèo thể hiện trong suốt tác phẩm (bởi có lúc nào hắn tỉnh đâu cơ chứ) thì câu nói cuối cùng của CP vẫn phản ánh các định đề của thời kỳ “tiền lưu manh” hoá. Trước khi chết, Chí Phèo đòi được trở thành người lương thiện. Vậy Chí phèo có biết khái niệm lương thiện không? Chắc hẳn là có. Cái khái niệm đó có phải là do Chí Phèo cao hứng mà nghĩ ra không? Chắc chắn là không. Trước khi thốt ra câu nói đó, Hẳn Chí Phèo đã mơ thấy, đã nghĩ đến thế nào là lương thiện, đó là chồng cày vợ cấy, ươm tơ kéo vải... đó là khát vọng, là ước mơ của nhiều nông dân nghèo không có gia đình, là viễn ảnh bến mơ của một kẻ lang thang. Làm sao có thể tách cái khái niệm lương thiện đó ra khỏi xã hội, ra khỏi những ước mơ, những khát vọng, những tiêu chuẩn đạo đức của xã hội được.

Chí Phèo bản chất không phải là ác, nhưng khi tỉnh rượu, hắn ý thức được sự không lương thiện của mình, được tội nghiệt của mình chiếu theo các giá trị đạo đức mà hắn cảm nhận. Cuộc gặp gỡ với thị Nở như một tiếng sét giữa trời quang, kéo hắn về với ý thức đã từng hiện hữu của hắn. Không phải cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, mà tình yêu sẽ cứu chuộc thế giới.

Tác giả viết: “Hắn chỉ đòi làm một con người đích thực, theo đúng nghĩa của nó. “ Thế nào là làm một con người đích thực, thế nào là đúng nghĩa một con người đích thực. Nếu như trước khi chết, Chí Phèo không là người đích thực thì tác giả đã gián tiếp đồng ý rằng Chí Phèo là một sinh vật vô ngã.

Sau đó: “Cuối cùng cái lương thiện mà Chí Phèo đòi chính là bản ngã đích thực, cái luôn tiềm ẩn và thường trực trong vô thức của anh ta.”

Như vậy thì cái bản ngã Việt mà tác giả ĐNY đề cập đến là một khái niệm lương thiện vu vơ ấy ư? Tôi vẫn chưa hình dung nổi bản ngã Việt ấy đâu. Và bây giờ câu hỏi của tôi là có tồn tại một bản ngã Việt thật sự không? Hình dáng nó thế nào?

Bản thân tôi, từ sau khi đọc lại Chí Phèo lần đầu tiên sau khi tốt nghiệp phổ thông, luôn cho rằng Chí Phèo là một nhân vật phi tính cách. Và chính cái điều đó làm cho tác phẩm trở thành có một không hai: một tác phẩm mà nhân vật chính không có tính cách, một tác phẩm mà nhân vật chính làm thành một cái nền cho cái nền của nhân vật chính nổi bật lên. Chí Phèo, luôn luôn say rượu, là một nhân vật vô ngã. Đọc Chí Phèo, không nên đọc Chí Phèo mà đọc xã hội chung quanh anh ta. Nếu như bình văn mà chỉ chăm chăm nhằm vào nhân vật chính để phân tích thì rất có thể bị Nam Cao chơi khăm trong tác phẩm Chí Phèo.

Vài chi tiết liên quan đến tiểu tiết mà tôi không thể bỏ qua, mặc dù rất muốn. Trong bản văn tôi được đọc, Chí Phèo nói: “Tao muốn làm người lương thiện” (Không giống như anh ĐNY trích: “Tao cần lương thiện”. Hai câu này tuy có thể hiểu giống nhau nhưng ý nghĩa khác nhau xa). Đoạn tiếp theo, tác giả viết: “Nhưng nếu lương thiện chỉ là những quan hệ giao hòa với đồng loại thì Chí Phèo đâu có thiếụ Hắn không chỉ đối xử tử tế với Thị Nở mà còn đem lại hạnh phúc cho thị để đến khi hắn chết đi thị vẫn thầm biết ơn là mình đang mang trong người một hòn máu của Chí Phèọ Hắn cũng không phải là kẻ luôn gây sự với những người dân lành chỉ biết làm lụng kiếm ăn, sinh sống.

Tôi cho rằng tác giả suy diễn chủ quan khi cho rằng thị nở thầm biết ơn Chí Phèo vì hòn máu của Chí Phèo, nguyên bản là: “Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng: - Nói dại, nếu miÀnh chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?" Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua ... “

Không có bất cứ một cái gì có thể gợi cho người đọc biết là Thị Nở có con với Chí Phèo và “biết ơn” vì cái sự ấy.

Còn về chuyện Chí Phèo có phải là kẻ luôn gây sự với dân làng Vũ Đại không thì tôi không trích hết nổi vì dẫn chứng nhiều quá: “Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.”

Lẽ ra tôi sẽ chỉ để bụng những suy nghĩ của mình thôi, nhưng đây là một diễn đàn tự do, những điều tôi thắc mắc mà không hỏi thì không ngủ yên. Vả lại, đem một quan điểm tiếp cận một bản văn để chê trách những cái nhìn xã hội hoá dung tục khác cũng lại làm cho tôi không cảm thấy yên ổn.

Cuối cùng, tôi cũng rất đồng ý với anh Huy Trần khi cho rằng câu nói “Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?" của Chí Phèo đã làm giảm cái hay của đoạn kết đi ít nhiều.
 
Back
Bên trên