Bàn về thi đại học

Đỗ Huyền My
(Sagittarius)

Điều hành viên
Tuyển sinh đại học 2002: Những con số biết nói

Bài viết của GS Phạm Duy Hiển
(Nguyên Viện phó Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, kiêm Viện trưởng Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt), email: [email protected])

h1.gif


Lần đầu tiên toàn bộ điểm thi tuyển sinh ĐH-CĐ đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tôi không thấy bị sốc như một số hàng tít trên báo chí. Chuyện chất lượng học sinh ta quá thấp không cần phải đợi đến kết quả tuyển sinh vừa qua mới rõ. Nhưng tôi lại bị lôi cuốn bởi cái hình phân bố điểm tuyển sinh (các quả trám đỏ trên hình thứ nhất). Nó trơn tru như một đồ thị toán học. Một quy luật thống kê nào đó đằng sau lượng thông tin đồ sộ từ 824.413 thí sinh, lúc ẩn lúc hiện, như trêu chọc tính tò mò. Từ đây ta có thể nhận ra cái chân dung đích thực về chất lượng học sinh, thầy giáo, cách học, cách dạy, v.v... để làm xuất phát điểm cho một cuộc cải cách giáo dục nghiêm túc. Kể cũng oan khi ai đó đã trút hết bực bội lên những người thiết kế lần tuyển sinh này. Họ đã có công lần đầu tiên đưa ra một lượng thông tin đồ sộ và chân thật để từ đó chúng ta có thể tự nhận biết mình là ai.

Nhưng điểm tuyển sinh, cho dù đã được sơ bộ tập hợp lại thành một hình phân bố, vẫn chỉ là những thông tin hay dữ liệu thô. Chúng chưa được mô tả theo ngôn ngữ thống kê học, chưa chỉ ra những quy luật chi phối chất lượng học sinh trong toàn quốc. Thông tin chưa phải là tri thức mà chỉ nằm ở nấc thang dưới cùng của "tháp tri thức". Thông tin có thể lưu trữ và truyền tải từ máy tính này sang máy khác, nhưng không ai có thể nhét tất cả lượng thông tin từ hơn 800.000 thí sinh đó vào bộ óc của mình. Thế cho nên để nói lên tâm trạng nhức nhối về kết quả tuyển sinh báo chí đành phải theo phương pháp liệt kê, nào là có đến 275.987 thí sinh đạt từ 5 điểm trở xuống (41,2%), 21.479 thí sinh chỉ đạt trung bình mỗi môn nửa điểm, 125 thí sinh không đạt điểm nào chung cho cả ba môn v.v… Tuy những con số đó có gây ấn tượng, nhưng cứ liệt kê mãi như thế thì đến bao giờ mới mô tả hết các kết quả tuyển sinh? Vì thế để có một bức tranh tổng quát, rồi từ đó tiến lên hoạch định chính sách, trước hết phải xử lý thông tin, "tóm tắt" chúng lại thành một số quy luật, nhằm dễ dàng truyền tải vào bộ óc con người, mà vẫn phản ánh tương đối đầy đủ toàn bộ lượng thông tin đồ sộ đó. Thí dụ để mô tả kết quả tuyển sinh ta chỉ cần tìm một hàm phân bố điểm thi P(x, a, b), trong đó x là điểm thi, a và b là hai thông số diễn tả dáng dấp của hàm phân bố đó. Như vậy điểm thi của 824.413 thí sinh được thu gọn lại thành ba thông tin "bậc cao hơn": P là hàm gì, a và b bằng bao nhiêu?

Trong phiếu đăng ký tuyển sinh chắc chắn còn có nhiều thông tin khác, nhờ đó người ta có thể giải đoán liệu điểm thi cao hay thấp có liên quan gì đến các đặc điểm của thí sinh như địa phương, nghề nghiệp, thu nhập của bố mẹ, tình trạng sức khoẻ, nam hay nữ, nguyện vọng ngành học v.v... Một số kỹ thuật thống kê học sẽ giúp ta làm việc đó. Nếu năm nào các kết quả tuyển sinh cũng đều được tập hợp và xử lý theo một quy trình nhất quán như thế ta sẽ dễ dàng theo dõi quá trình phát triển của giáo dục, đề xuất các chủ trương chính sách thích hợp và đánh giá tác động của chúng.

Lấy mẫu đại diện (sampling) cho cả cộng đồng (population) để đưa ra các dữ liệu thô, mô tả chúng và tìm ra các quy luật chi phối cộng đồng là nhiệm vụ của thống kê học, một khoa học chưa được phát triển mấy ở nứơc ta và đôi khi được hiểu đồng nghĩa với công tác thống kê, nghĩa là ghi lại thành bảng số liệu và thực hiện một vài phép tính đơn giản trên các số liệu ấy. Thật ra, thống kê học được dịch ra từ chữ statistics, bắt nguồn từ chữ state là quốc gia, nên ngay từ đầu nó đồng nghĩa với khoa học quản lý nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường tự do yếu tố ngẫu nhiên cá thể chi phối các hoạt động kinh doanh tiêu thụ và hành vi con người khiến cho các quy luật kinh tế xã hội mang tính xác suất thống kê. Các quy luật đó không chính xác tuyệt đối như diện tích hình chữ nhật bằng tích số của hai cạnh, mà chỉ có độ tin cậy nhất định, tuy nhiên cũng đủ tin cậy để từ đó có thể cân nhắc ra quyết định. Đặc điểm này khác hẳn với nền kinh tế tập trung bao cấp ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà khoa học thống kê hầu như không có đất dụng võ, nhất là trong các lãnh vực kinh tế và xã hội nhân văn. Do vậy mới có những quyết định duy ý chí.

Khoa học thống kê ngày nay cũng được áp dụng rộng rãi trong hầu hết các ngành khoa học tự nhiên với sự phổ cập của máy tính có khả năng lưu trữ và xử lý những lượng thông tin lớn. Thế kỷ 20 đã chứng kiến một tiến trình thay đổi rất thú vị trong phương pháp nghiên cứu khoa học. Ngay đầu thế kỷ một số học thuyết lớn về cấu trúc vật chất ra đời bằng những công thức rất tổng quát nhưng lại cực kỳ đơn giản và chính xác, như công thức nổi tiếng của Einstein liên hệ năng lượng (E), khối lượng (m) và vận tốc ánh sáng, E = mc2. Nhưng đã lâu rồi các công thức như thế hoàn toàn vắng bóng. Càng về cuối thế kỷ các công thức giải tích trong vật lý học càng có xu hướng phức tạp hơn, nhưng lại kém tổng quát và chính xác hơn. Có những công thức đăng trên tạp chí khoa học dài đến nửa trang nhưng chỉ gần đúng. Trong khi đó các kỹ thuật mô hình mô phỏng trên máy tính và phương pháp thống kê học ngày càng chiếm ưu thế trong việc cung cấp những tri thức mới.

Trở lại bài toán điểm tuyển sinh để minh hoạ phần nào những ý trên. Được biết các đề thi năm nay có dụng ý nhắm vào đối tượng trung bình, theo sát sách giáo khoa. Do đó, chúng ta ắt phải chờ đợi một hình phân bố có dáng dấp như đường cong chính giữa ở hình thứ hai: số đông thí sinh sẽ tập trung quanh điểm 14-16, ít thí sinh có điểm quá thấp hoặc gần điểm tối đa (30). Nếu đề thi quá dễ (như một số người nhận xét), chắc hẳn hình phân bố phải giống đường cong bên phải: điểm của đa số thí sinh sẽ xô về phía tay phải và trải dài về phía tay trái, số đông thí sinh đạt được điểm cao hơn 15. Trên thực tế, cả hai trường hợp trên đã không xảy ra. Kết quả tuyển sinh giống như đường cong "quá khó": tuyệt đại đa số thí sinh có điểm thi thấp hơn 15, đường phân bố xô về phía tay trái và trải dài về phía tay phải.

Tôi đã thử tìm cách làm khớp (fitting) kết quả tuyển sinh với một số hàm phân bố thống kê phổ dụng dùng phần mềm SPSS thì thấy có bốn phương án hay nhất theo thứ tự tăng dần như sau 1) làm khớp bằng một hàm lognormal, 2) bằng hai hàm lognormal theo tỷ lệ 56% và 44%, 3) bằng một hàm Weibull, 4) bằng hai hàm Weibull theo tỷ lệ 45% và 55%. Phương án cuối cùng chẳng những tốt nhất mà còn tốt hơn hẳn ba phương án kia. Nếu lấy tổng bình phương các sai lệch giữa điểm thi với công thức toán học để làm căn cứ đánh giá kết quả làm khớp thì phương án thứ tư tốt hơn phương án thứ ba 30 lần, phương án thứ hai 40 lần và phương án thứ nhất 700 lần. Cộng hai hàm ấy lại theo tỷ lệ 45%-55% ta có đường làm khớp (đậm nét) nằm khít với các kết quả tuyển sinh, đặc biệt là ở vùng đuôi từ 6 điểm trở lên. E rằng có thể làm phiền một số độc giả nên tôi không viết tường minh các biểu thức toán học ra đây. Chỉ muốn giới thiệu Weibull là nhà vật lý Thuỵ điển, ông tìm ra công thức này để mô tả phân bố thống kê ứng lực đứt gãy trong các phép thử vật liệu. Sau này người ta còn dùng hàm Weibull để mô tả phân bố thời gian sống sót của các bênh nhân ung thư, phân bố hàm lượng các chất gây ô nhiễm khí quyển v.v... Ưu điểm của hàm Weibull là nó uyển chuyển, có thể mô tả các phân bố có dạng rất khác nhau.

Máy tính đã giúp tôi tin rằng chúng ta có hai tốp thí sinh, trình độ nói chung khác hẳn nhau: tốp thứ nhất chiếm 45,5% (375108) với điểm trung bình là 4,9/30 điểm. Tốp thứ hai chiếm 54,5% (449305), nói chung là khá hơn, nhưng cũng chỉ với điểm trung bình là 11,3/30 điểm, vẫn còn thấp hơn so với dự kiến của những người ra đề. Vậy hai tốp đó là những ai? Thành thị và Nông thôn chăng, hay là Nam và Nữ, miền Nam và miền Bắc, khoa học Tự nhiên và Xã hội, nguyện vọng ưu tiên thi vào các trường khó và trường dễ v.v... Trong phiếu tuyển sinh ắt hẳn phải có các đặc điểm đó. Và máy tính lại giúp chúng ta tiếp tục giải mã. Nếu các phương án trên không thấy ứng nghiệm thì có khi điểm thấp hơn chính là thuộc tốp các cô cậu quen lối học tủ. Hoặc một cách lý giải nào khác nữa.

Trên đây chỉ là một trong rất nhiều thí dụ ứng dụng kỹ thuật thống kê. Được biết kỳ tuyển sinh này chẳng những đã tiết kiệm rất nhiều tiền của mà còn mang lại hiệu quả lớn nhờ ứng dụng thành công công nghệ thông tin. Mong sao lượng thông tin đồ sộ đó được khai thác triệt để để ngành giáo dục sớm có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục còn quá thấp kém hiện nay.

h2.gif


Bộ Giáo dục và Đào tạo
 
Máy tính đã giúp tôi tin rằng chúng ta có hai tốp thí sinh, trình độ nói chung khác hẳn nhau... Vậy hai tốp đó là những ai? Thành thị và Nông thôn chăng, hay là Nam và Nữ, miền Nam và miền Bắc, khoa học Tự nhiên và Xã hội, nguyện vọng ưu tiên thi vào các trường khó và trường dễ v.v...
Thêm một vài câu hỏi nữa: Nếu giải thích được nguyên nhân của tình trạng này rồi thì bước tiếp theo là làm gì?
a) Giữ nguyên khoảng cách đó và đầu tư đào tạo mỗi nhóm theo các hướng khác nhau
b) Tìm cách thu hẹp khoảng cách đó
c) Không làm gì cả
d) Cách khác???
 
Đây là một ý kiến:

Phải là một nền giáo dục đại học phân tầng

GS.TSKH Bành Tiến Long

Để giáo dục đại học (GDĐH) VN khẳng định trên trường quốc tế chúng ta phải chuẩn bị gì? GDĐH VN phát triển theo hướng nào, cần điều kiện gì?... Theo ý kiến cá nhân của tôi, không nên so sánh một cách tuyệt đối GDĐH VN với thế giới bởi vì nền GDĐH thế giới cũng rất đa dạng và bản thân các nước có nền GDĐH tiên tiến cũng vẫn phải tiếp tục đổi mới, vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn. GDĐH VN cơ bản cũng hoàn thành nhiệm vụ cung cấp nguồn nhân lực khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế - xã hội VN hiện nay. Tuy nhiên so với GDĐH của nhiều nước trên thế giới, chúng ta còn một khoảng cách khá xa từ cấu trúc tổ chức ĐH, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, quản lý ĐH, đội ngũ cán bộ giảng viên, cơ sở vật chất, hoạt động quốc tế...

Để GDĐH VN khẳng định trên trường quốc tế, chúng ta có rất nhiều việc phải làm, làm quyết liệt và còn phải lâu dài. Chúng ta phải kiên quyết thay đổi lại cấu trúc trong các trường ĐH. Việc này thuộc quyền chủ động của các hiệu trưởng. Phải đổi mới cơ bản cơ chế quản lý từ bộ đến trường, nhất là quản lý đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin. Xin nêu một ví dụ nhỏ: Hiện nay, ở nhiều trường ĐH, một SV muốn biết điểm năm học của mình phải mất rất nhiều thời gian mà vẫn không có ngay kết quả hoặc kết quả không chính xác. Phải đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, việc này ở đâu cũng nhận thức được nhưng làm thì kém hiệu quả. Phải xây dựng hệ thống đảm bảo và kiểm định chất lượng. Đặc biệt là phải làm sao để tăng cường nguồn lực tài chính cho các trường bởi vì nguồn lực tài chính của các trường quá nhỏ bé. Ngoài ra còn một loạt các vấn đề khác như: xây dựng đội ngũ, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, với giới công nghiệp và doanh nghiệp...

Tôi cho rằng GDĐH VN trước hết phải thích ứng với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội VN. Trong xu thế toàn cầu và hội nhập, nước ta muốn phát triển nhanh thì phải dựa vào nền tảng phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, đó là giải pháp để ngăn chặn nguy cơ tụt hậu mà ai cũng biết.

Về cấu trúc hệ thống GDĐH, phải thống nhất với cấu trúc nền GDĐH các nước phát triển. Làm sao cấu trúc hệ thống đó phải đảm bảo linh hoạt và hiệu quả bởi vì sự vật thay đổi rất nhanh, nếu chúng ta cứ "tinh hoa" cả hệ thống thì không còn phù hợp với xu thế thời đại.

GDĐH của ta trong đào tạo nguồn nhân lực cũng phải "mở". Nghĩa là tìm mọi cách để mọi người có cơ hội bình đẳng vào học ĐH. Nhưng muốn làm được việc này, trước hết phải chấn chỉnh kỷ cương công tác quản lý đào tạo: từ thi cử, kiểm tra, chất lượng và điều kiện làm việc của người dạy, người học...

GDĐH VN đã đến lúc phải phân tầng. Có thể chia làm ba loại hình sau:

Loại thứ nhất: Phải đào tạo 5 –10% nguồn nhân lực tinh hoa (chất lượng cao, tài năng). Đây là lực lượng lao động tạo nguồn để đào tạo nhân tài và đóng vai trò chủ đạo trong cuộc đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ của tất cả lĩnh vực. Số này mỗi năm dù có khoán quĩ lương hay không thì Nhà nước, các trường Đại học ít nhất cũng phải dành gấp đôi nguồn tài chính cho một SV đào tạo loại hình này so với đầu tư trung bình cho một sinh viên thông thường. Mỗi năm chúng ta cần đào tạo được 10.000 SV hệ này và Nhà nước phải hỗ trợ thêm cho các trường tham gia đào tạo khoảng 50 tỷ đồng. Hiệu quả rất lớn mà mình lại tự chi phí cho mình, thông qua việc đầu tư cho công tác đào tạo chất lượng cao nâng cao điều kiện học tập, nghiên cứu tại một số trường ĐH mũi nhọn, trọng điểm. Trong khi đó việc gửi cán bộ đi đào tạo nước ngoài rất cần thiết nhưng phải chi đến 100 tỉ đồng/năm mà cũng chỉ được 300 – 400 người/năm và phải trả tiền học phí rất lớn cho các cơ sở đào tạo nước ngoài.

Các chương trình đào tạo cử nhân tài năng, kỹ sư chất lượng cao hay nói cách khác là đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao là động lực để nền GDĐH VN phát triển bền vững (xin lưu ý không phải là đào tạo trình độ cao, mà là chất lượng cao!). Vì vậy, các trường ĐH cần phải xây dựng chương trình này bằng nội lực hoặc bằng sự hỗ trợ của nước ngoài. Vụ Đại học sẽ đề xuất cơ chế và đề nghị các trường có đủ điều kiện và đăng ký để đào tạo hệ này. Đồng thời đề nghị Nhà nước dành ngân sách cho việc này. Thiếu hệ đào tạo tài năng, chất lượng cao thì nguồn đào tạo nhân tài cho đất nước sẽ bị hạn chế và rất khó khăn, đặc biệt là trong xu hướng GDĐH của VN cũng như xu hướng chung của thế giới đang hướng đến GDĐH đại chúng và GDĐH đại chúng cũng là xu hướng tất yếu.

Loại thứ hai: là đào tạo khoảng 50 – 60% nguồn nhân lực để làm việc và góp phần sáng tạo ra việc làm. Số này đều phải kết hợp tốt giữa lý thuyết và thực tiễn. Đây là nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong cả nước.

Loại thứ ba: chiếm 25 – 30% chủ yếu để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực theo đặc điểm ngành nghề, vùng, miền, địa phương. Loại hình này sẽ thích ứng tình huống cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tuỳ theo từng thời kỳ qui mô cụ thể.

Để thực hiện được hướng phát triển GDĐH kể trên phải xây dựng thành đề án chi tiết, sau khi được phép về chủ trương, phải kiên quyết trong khâu tổ chức và có kế hoạch ngân sách. Thật ra mỗi năm chỉ dành 50 tỷ đồng để đào tạo nhân lực khoa học công nghệ tinh hoa, đào tạo nguồn cho nhân tài và làm nòng cốt cho GDĐH…. thì cũng chỉ là một khoản đầu tư khiêm tốn và hợp lý.

Tuổi Trẻ 30/3/2003
 
Đỗ Huyền My đã viết:
Tuyển sinh đại học 2002: Những con số biết nói

Bài viết của GS Phạm Duy Hiển
(Nguyên Viện phó Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, kiêm Viện trưởng Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt), email: [email protected])

Máy tính đã giúp tôi tin rằng chúng ta có hai tốp thí sinh, trình độ nói chung khác hẳn nhau: tốp thứ nhất chiếm 45,5% (375108) với điểm trung bình là 4,9/30 điểm. Tốp thứ hai chiếm 54,5% (449305), nói chung là khá hơn, nhưng cũng chỉ với điểm trung bình là 11,3/30 điểm, vẫn còn thấp hơn so với dự kiến của những người ra đề. Vậy hai tốp đó là những ai? Thành thị và Nông thôn chăng, hay là Nam và Nữ, miền Nam và miền Bắc, khoa học Tự nhiên và Xã hội, nguyện vọng ưu tiên thi vào các trường khó và trường dễ v.v... Trong phiếu tuyển sinh ắt hẳn phải có các đặc điểm đó. Và máy tính lại giúp chúng ta tiếp tục giải mã. Nếu các phương án trên không thấy ứng nghiệm thì có khi điểm thấp hơn chính là thuộc tốp các cô cậu quen lối học tủ. Hoặc một cách lý giải nào khác nữa.

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bài viết rất thú vị (cảm ơn My :) ), nhưng đến đoạn viết đậm thì hỏng về nguyên tắc của statistics mất rồi.

Đáng ra nên nghiên cứu thêm phần viết nghiêng trước khi đăng báo.
 
Đỗ Quốc Anh đã viết:
đến đoạn viết đậm thì hỏng về nguyên tắc của statistics mất rồi... Đáng ra nên nghiên cứu thêm phần viết nghiêng trước khi đăng báo.
Anh nói cụ thể hơn được không ạ? Ở đây có nhiều người mắt cận :p
 
Nói ngắn gọn thì khi đưa ra một kết luận thống kê (thống kê cổ điển) phải dựa vào một phép thử (test). Kết quả test sẽ là Có hoặc Không. Nội dung phép thử phải được thiết kế trước (trên lý thuyết). Ví dụ : thử giữa 1 phân bố tổng của 2 phân bố Weibull , so với một phân bố lognormal. Ở đây không có phép thử nào được đưa ra (so sánh ở đoạn trên bằng trực giác thôi, không đảm bảo gì). Tác giả nói ".. giúp tôi tin rằng ...", nhưng là tin so với cái gì khác? Về nguyên lý thống kê thì như thế không được đưa ra kết luận gì. Đấy là mặt lý thuyết.

Về thực nghiệm, do phân bố học sinh rất đa dạng nên sai số nhiều hơn nhiều cũng không sao. Như thế, ngay cả khi đưa ra phép thử giữa tổng 2 phân bố Weibull (con số 45% - 55% cũng rất mơ hồ và tùy tiện) với hàm lognormal, thì phép thử đó cũng không có ý nghĩa thực tế. Nói cách khác nữa, nếu muốn cùng một lúc xác định một phân bố đủ sát thực và các tham số của phân bố thì sẽ gặp vấn đề nhận dạng tham số (identification) trong thực nghiệm : 2 phân bố cơ bản khác nhau (ví dụ tuyên bố 1 nhóm hay 2 nhóm học sinh), nhưng hình dáng rất giống nhau. Về thực nghiệm, như vậy cũng không có hướng đi.

Bài viết chỉ nên nhận xét dưới cái khía cạnh miêu tả (descriptive) của nó. Việc xét tách thành hai nhóm cần những phân tích sâu hơn dựa trên đoạn viết nghiêng " Vậy hai tốp đó là ai? ..." Nếu nhận dạng được hai tốp, đưa vào phép thử xem thực sự các yếu tố phân biệt có đóng vai trò quan trọng không, rồi mới đưa ra kết luận, thì mới theo đúng các nguyên lý thống kê và tiêu chuẩn thực nghiệm.

Một cách thân thiện mà nói, tác giả đã để ngỏ những phần công việc vất vả cho các thế hệ sau, và đưa ra những phán đoán trực giác tuyệt vời của mình. Nghiêm khắc hơn, có thể nói tác giả tùy tiện sử dụng SPSS không theo nguyên tắc, và rút ra một kết luận giữa dòng, thiếu cơ sở. Thậm chí có thể nói tác giả tiên nghiệm mô hình giáo dục đang bị phân hóa nhị phân, và cố tìm một ví dụ thực tế, cho dù rất méo mó, để minh họa cho mô hình đó. Ở đây, cách đặt câu hỏi mới là quan trọng nhất.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bây giờ thì sáng hơn nhiều rồi, cảm ơn anh Quốc Anh đã chỉ rõ :)
Phải nhận thấy rằng bài viết này có nhiều hạn chế, và rằng những hậu quả do lỗi kỹ thuật trong việc xử lý dữ liệu gây ra là không nhỏ.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách công bằng, những vấn đề mà tác giả đề cập đến không hoàn toàn không có cơ sở, và câu hỏi đưa ra cũng rất đáng suy nghĩ.
Việc thẩm định độ chính xác của những nhận định GS Hiển đưa ra không khó, nếu như ta có thể tập hợp được tương đối đầy đủ những dữ liệu thô về background và điểm số của các thí sinh. Những con số này thì không chạy đi đâu được. Việc phân tích các dữ liệu ấy để tìm ra nguyên nhân của sự phân bố không đồng đều (supposedly) cũng không quá phức tạp, nếu như làm một cách khoa học & nghiêm túc.
Điều đáng bàn là những "phán đoán trực giác" của tác giả về sự phân hóa trong giáo dục. Theo em thì sự phân bố không đồng đều trong kết quả giáo dục là hiện thực dễ thấy trong thực tế, hoàn toàn có thể chứng minh được bằng một vài con số đơn giản. Việc phân tích cụ thể sự phân bố đó như thế nào và nguyên nhân do đâu thì đã nói ở phía trên rồi. Các nguyên nhân chủ yếu thì có thể dự đoán trước được, chỉ cần con số kiểm nghiệm lại nữa là xong thôi, mà em đồ rằng việc kiểm nghiệm lại cũng khó có khả năng phủ định những giả thuyết ban đầu lắm.
Như vậy, điểm mấu chốt ở đây là tìm được nguyên nhân rồi thì để làm gì? Cái này xin mời các bác các em trên này cho ý kiến ạ :)
 
Nói chung cả 2 bài viết đều có một đặc điểm là muốn gán toán học vào cho nó có tính chất khoa học, phần sau thì không muốn bình luận :)
 
Đỗ Huyền My đã viết:
Việc phân tích cụ thể sự phân bố đó như thế nào và nguyên nhân do đâu thì đã nói ở phía trên rồi. Các nguyên nhân chủ yếu thì có thể dự đoán trước được, chỉ cần con số kiểm nghiệm lại nữa là xong thôi, mà em đồ rằng việc kiểm nghiệm lại cũng khó có khả năng phủ định những giả thuyết ban đầu lắm.
Như vậy, điểm mấu chốt ở đây là tìm được nguyên nhân rồi thì để làm gì? Cái này xin mời các bác các em trên này cho ý kiến ạ :)

Đồng ý với My là trên lý thuyết các nguyên nhân đưa ra cũng có cơ sở (trừ nguyên nhân học tủ, tác giả chưa đưa ra cơ sở nào thì phải). Nhưng việc kiểm nghiệm xem có phân hóa không, và phân hóa vì nguyên nhân gì thì không dễ dàng và kết quả không hiển nhiên.

Điều này ảnh hưởng quan trọng đến câu hỏi "để làm gì". Nếu muốn thay đổi, mà chỉ thay đổi nguyên nhân trung gian thì sẽ không có hiệu quả gì. Việc tìm ra nguyên nhân căn bản không dễ. Ví dụ, có thể trung bình học sinh họ Tôn Thất, Hà Huy được điểm cao hơn trung bình nhiều, những học sinh họ Pằng, Chíu được điểm thấp hơn. Nhưng đấy không phải là nguyên nhân, mà nguyên nhân [nhiều khả năng] là các gia đình họ như thế có truyền thống và điều kiện hơn/kém mức trung bình.

Hơn nữa, hình như điểm số còn phụ thuộc vào đề bài nữa? Anh không biết tất cả có thi cùng đề không. Nếu không thì nên phân chia theo đề bài trước khi làm gì tiếp.
 
Cứ tưởng vào bài này toàn gặp dân 12 thôi chứ,các cô chú khác cũng quan tâm chuyện thi cử của chúng cháu bây giờ thế nhỉ
 
Đỗ Quốc Anh đã viết:
việc kiểm nghiệm xem có phân hóa không, và phân hóa vì nguyên nhân gì... ảnh hưởng quan trọng đến câu hỏi "để làm gì"
- Tại sao lại ảnh hưởng?
- Ảnh hưởng như thế nào?
Anh Quốc Anh có thể giải thích thêm được không ạ? ;)
 
Đỗ Quốc Anh đã viết:
Hơn nữa, hình như điểm số còn phụ thuộc vào đề bài nữa? Anh không biết tất cả có thi cùng đề không.
Đúng là điểm số có phụ thuộc vào đề bài.
Từ năm 2002 thí sinh thi vào tất cả các trường đại học đều dùng chung một đề.
Liệu nội dung đề thi chung đấy có ảnh hưởng nhiều đến sự phân hóa không nhỉ?
 
Trưng cầu ý kiến về giáo dục đại học

Ngày 9/4, Bộ GD&ĐT thông báo mời các nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý và những ai quan tâm đến lĩnh vực giáo dục viết bài tham dự hội thảo "Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam - Hội nhập và thách thức", dự kiến tổ chức vào cuối tháng 11 năm nay.

Nội dung các bài viết cần tập trung vào 3 nhóm chuyên đề chính: những vấn đề chung về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam và hội nhập quốc tế; chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học; mối liên kết giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và sử dụng.

Người tham dự gửi bản tóm tắt và báo cáo toàn văn cho ông Phạm Xuân Thanh, Trưởng phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại học - 49 Đại Cồ Việt, Hà Nội. Điện thoại: (04)8683361, fax (04)8683359, e-mail: [email protected].

Cùng ngày, Bộ GD&ĐT đã ban hành quyết định sửa đổi, bổ sung quy chế tuyển sinh sau đại học. Điểm a khoản 3 Điều 5 của quy chế được sửa đổi như sau: Về văn bằng, người dự thi đào tạo thạc sĩ các chuyên ngành này phải có bằng tốt nghiệp đại học học chính quy, chuyên tu hoặc tại chức; đã qua chương trình bổ túc kiến thức của chuyên ngành dự thi. Chương trình bổ túc kiến thức này do cơ sở đào tạo quy định. Khoản 2 Điều 8, bỏ cụm từ "dưới 40 tuổi".

Theo VNExpress
 
Có thể nào yêu cầu bỏ môn Lịch sử Đảng và chủ nghĩa xã hội khoa học không nhỉ? Triết học thì vẫn hay, nên học, nhưng 2 môn trên mà bỏ thì nhiều chú vỗ tay lắm đấy.
To Bác QA: bác giảng kỹ cái đoạn metric cái nhé. Em là em dốt nhứt cái đấy, đang lo cong đuôi lên đi học lại, chả biết ông nào với thằng nào cả. Đau thế cơ chứ.
Hê hê, viết xong mới nhớ là QA có thi đại học quái đâu mà biết đề khó với dễ, phải ko bác QA? Thi đại học theo kiểu đề mới thì chắc phải dễ hơn ngày xưa chứ nhỉ, toàn kiến thức cơ bản bám sát chương trình học. Ngày xưa đi thi, tui viết hết 7 trang lý thuyết (học gạo) nhưng mà thấy phần bài tập làm vẫn ngon lành.
Công nhận là năm vừa rồi thi đại học vui thật, điểm lèo phèo làm các bác trên Bộ mắt trắng dã. Các trường hết khoe thành tích :). Tuy nhiên các bạn đang học 12 cũng phải tự hỏi là tại sao mà kém thế? Chắc tại câu hỏi không giống trong sách hay là không có mẫu hướng dẫn trước? Nếu mà tự tin là mình nắm vững kiến thức cơ bản và có thể làm cả phần nâng cao (cái này trong mấy quyển bộ đề cũ nhiều lắm) thì chả có gì phải sợ nữa cả. Vấn đề là chuẩn bị tâm lý và sức khỏe mà bước vào phòng thi thôi.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tốt nhất là các anh chị nên truyền đạt kinh nghiệm của người đi trước đi ạ;)(để lớp đàn em này còn học hỏi kinh nghiệm chứ nhỉ;))
 
Công tác tuyển sinh

Công văn số 1603 /ĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác tuyển sinh năm 2003.
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số : 1603 /ĐH
V/v Công tác tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2003

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2003


Kính gửi:

Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng
Các Học viện, các trường Đại học, Cao đẳng
Các Sở Giáo dục và Đào tạo
Tiếp tục quán triệt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phan Văn Khải và Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm về " Đề án tổng thể đổi mới công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng", dựa trên kết quả đánh giá những mặt được và chưa được của kỳ thi tuyển sinh 2002, nhằm tiếp tục thực hiện tốt giải pháp "3 chung" (thi chung đợt, dùng chung đề, sử dụng chung kết quả thi để xét tuyển), phấn đấu đưa công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng đi vào nề nếp, ổn đinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường, các Sở về phương hướng nhiệm vụ công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2003 như sau:

I. Về quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng

Nhằm thể chế hoá giải pháp "3 chung": thi chung đợt, dùng chung đề, sử dụng chung kết quả thi, phù hợp với Đề án cải tiến tuyển sinh giai đoạn2002-2007, để đưa công tác tuyển sinh ĐH, CĐ đi vào nề nếp ổn định, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mới Quy chế tuyển sinh hệ chính quy các trường ĐH, CĐ.

So với quy chế cũ, quy chế mới có những thay đổi cơ bản sau đây:

- Bổ sung thêm một số quy định về việc ra đề thi dùng chung cho các trường ĐH và chức năng nhiệm vụ Ban Đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của các trường ĐH, CĐ.

- Quy định về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng coi thi liên trường tại các cụm thi.

- Sửa đổi một số quy định cho phù hợp với việc sử dụng chung kết quả thi như đăng ký nguyện vọng dự thi và xét tuyển, quy trình xác định điểm trúng tuyển đối với các trường tổ chức thi và các trường không tổ chức thi tuyển sinh.

- Thống nhất mức điểm chênh lệch giữa các khu vực và đối tượng ưu tiên.

- Sửa đổi quy định về mức điểm thưởng.

- Thay đổi một số quy định có tính chất kỹ thuật nhưu môn thi các khối năng khiếu, một số vấn đề về xử lý kết quả chấm thi...

Quy chế mới là công cụ pháp lý quan trọng của công tác tuyển sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các trường đại học, cao đẳng, các Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức nghiên cứu quán triệt kỹ đến từng cán bộ tham gia công tác tuyển sinh.

II. Về quy mô tuyển sinh, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội

1. Nhằm từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối giữa quy mô đào tạo và điều kiện đảm bảo chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh năm 2003 của các trường theo hướng:

- Ưu tiên phân bổ chỉ tiêu cho các trường ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long,Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc và Tây Bắc, hai Đại học Quốc gia, các Đại học Huế, Đà Nẵng, Thái Nguyên.

- Tăng đáng kể chỉ tiêu cử tuyển và chỉ tiêu dự bị đại học.

2. Chỉ tiêu đào tạo theo hợp đồng giữa các trường với các địa phương hoặc các ngành và chỉ tiêu đào tạo đối với các trường được mở lớp đào tạo đặt tại các trường đại học khác được ghi trong tổng chỉ tiêu tuyển sinh của từng trường. Việc tuyển sinh để đào tạo theo hai hình thức nói trên phải được tiến hành đúng quy chế, không tổ chức thi riêng mà phải thi cùng với đợt thi hệ chính quy của từng trường hoặc căn cứ kết quả thi tuyển sinh năm 2003 theo đề thi chung để xét tuyển.

Việc đào tạo giáo viên theo hợp đồng giữa các trường đại học sư phạm và cao đẳng sư phạm với các địa phương chỉ thực hiện đối với một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Bắc, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và Tây nguyên.

III. Việc đăng ký dự thi (ĐKDT) và đăng ký xét tuyển (ĐKXT)

1. Thí sinh dự thi vào trường nào thì nộp hồ sơ ĐKDT cho trường đó qua Sở GD&ĐT, trước ngày 21/3/2003.

Hồ sơ ĐKDT gồm: 1 túi đựng hồ sơ và hai phiếu có đánh số 1, 2 có dấu quốc huy mầu đỏ của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Mỗi thí sinh được đăng ký 3 nguyện vọng: Nguyện vọng 1 (NV1) và nguyện vọng 2 (NV2): được ghi ngay trong hồ sơ đăng ký dự thi. Nguyện vọng 3 (NV3): Sau khi các trường tuyển xong NV1, NV2 và công bố điều kiện xét tuyển NV3, nếu có nguyện vọng thì từ 25/8 đến 15/9/2003 những thí sinh không trúng tuyển NV1, NV2 nộp hồ sơ trúng tuyển cho một trong những trường có cùng khối khi, trong vùng tuyển quy định và có chỉ tiêu xét tuyển.

Hồ sơ ĐKXT gồm một Giấy chứng nhận kết quả thi có đóng dấu đỏ của trường tổ chức thi (theo mẫu quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) và 1 phong bì đã dán sẵn tem và ghi rõ họ tên, địa chỉ của thí sinh.

Thí sinh nộp hồ sơ ĐKXT không phải nộp lệ phí xét tuyển. Chỉ những thí sinh trúng tuyển, khi đến trường nhập học mới phải nộp lệ phí xét tuyển.

Các trường không trực tiếp nhận hồ sơ ĐKXT của thí sinh.

IV. Về đợt thi

Trong toàn quốc, vẫn tổ chức 2 đợt thi đại học và 1 đợt thi cao đẳng:

Ngày 4/7 và 5/7/2003 thi đại học khối A
Ngày 9/7 và 10/7/2003 thi đại học khối B, C, D
Ngày 16/7 đến 19/7/2003 thi cao đẳng.
Thời gian thi các môn năng khiếu theo qui định của trường.

V. Về đề thi

- Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức ra đề thi chung cho các trường đại học theo phương pháp tự luận. Phương pháp thi trắc nghiệm cần chuẩn bị kỹ, làm từng bước, thí điểm ở bậc phổ thông trước và nếu chuẩn bị tốt thì có thể bắt đầu áp dụng đối với kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng từ năm 2005.

Một số trường cao đẳng lấy kết quả kỳ thi tuyển sinh đại học để xét tuyển còn các trường cao đẳng khác tổ chức riêng kỳ thi tuyển sinh thì vẫn thi vào đợt 3 và tự ra đề thi như năm 2002.

- Nội dung đề thi về cơ bản như năm 2002 nhưng sẽ điều chỉnh để đề thi không quá dài, nội dung kiến thức giới hạn trong chương trình THPT, chủ yếu ở lớp 12.

VI. Coi thi và chấm thi

1. Về cơ bản vẫn giữ như năm trước, nhưng tổ chức thêm cụm thi tại Quy Nhơn.

a) Cụm thi tại thành phố Vinh dành cho thí sinh thi vào Trường Đại học Vinh và các thí sinh có hộ khẩu thường trú tại 4 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực Hà Nội (các thí sinh thuộc diện này không thi tại các trường ở Hà Nội mà thi ngay tại TP Vinh). Cụm thi này do Trường ĐH Vinh chủ trì phối hợp với các trường đại học liên quan tổ chức thi.

b) Cụm thi tại Thành phố Cần Thơ dành cho thí sinh vào Trường ĐH Cần Thơ và các thí sinh có hộ khẩu thường trú tại các tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực TP Hồ Chí Minh (các thí sinh thuộc diện này không thi tại các trường ở TP Hồ Chí Minh mà thi ngay tại TP Cần Thơ). Cụm thi này do Trường Đại học Cần Thơ chủ trì phối hợp với các trường đại học liên quan tổ chức thi.

c) Cụm thi tại Thành phố Quy Nhơn dành cho thí sinh thi vào Trường Đại học Sư phạm Qui Nhơn và các thí sinh có hộ khẩu thường trú tại các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Ngãi, Quảng Nam có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực Hà Nội và TP Hồ Chí Minh (các thí sinh thuộc diện này không thi tại các trường ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh mà thi ngay tại Quy Nhơn). Cụm thi này do Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn chủ trì phối hợp với các trường đại học liên quan tổ chức thi.

d) Riêng thí sinh của các tỉnh nói tại mục a, b, c, nếu đăng ký dự thi vào các trường hoặc các ngành năng khiếu sau đây vẫn phải đến trường đại học, cao đẳng để dự thi.

- Các trường ĐH, CĐ thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, khối Thể dục thể thao, Nghệ thuật, Mỹ thuật, Nhạc, Hoạ, Sân khấu điện ảnh và Trường ĐH Kiến trúc TP Hồ Chí Minh.

- Các ngành Kiến trúc của Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, Trường ĐH Xây dựng; ngành Văn hoá quần chúng của Trường ĐH Văn hoá; ngành Báo chí của Phân viện Báo chí - Tuyên truyền; các ngành năng khiếu của các trường ĐH, CĐ khối sư phạm.

- Các trường ĐH Vinh, Cần Thơ, Quy Nhơn phối hợp với các Sở GD&ĐT địa phương tổ chức tốt việc sao in đề, coi thi tại 3 cụm đó.

Các trường có thí sinh dự thi ở 3 cụm nói trên chỉ cần cử đại diện đến 3 cụm thi để tham gia Hội đồng coi thi liên trường và phối hợp với Thanh tra Bộ giám sát kỳ thi, sau đó nhận bài thi của thí sinh mang về trường chấm.

Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có quyết định thành lập Hội đồng coi thi liên trường tại các cụm thi và chỉ đạo các trường ĐH Vinh, ĐH Cần Thơ, ĐHSP Quy Nhơn phối hợp chặt chẽ với các trường ở khu vực Hà Nội và TP Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch chi tiết tổ chức tốt kỳ thi, phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các trường, kể cả việc sử dụng lệ phí tuyển sinh một cách hợp lý.

2. Tiếp tục thực hiện quy trình chấm hai lần độc lập. Chỉ các môn năng khiếu và ngoại ngữ được nhân hệ số nhưng phải thông báo công khai trước khi chấm thi và trong phiếu báo điểm thi chỉ ghi kết quả thi chưa nhân hệ số.

VII. Về xử lý kết quả thi và xét tuyển

1. Tiếp tục tuyển thẳng học sinh đạt giải quốc tế, quốc gia và cộng điểm cho học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông loại giỏi.
2. Thống nhất mức điểm chênh lệch giữa các đối tượng và khu vực ưu tiên là 1 điểm.
3. Đối với các trường tổ chức thi tuyển sinh theo đề thi riêng, chỉ tuyển thí sinh đã dự thi vào trường mình trừ những trường có ngành năng khiếu, các môn văn hoá thi theo đề chung, nhưng các môn năng khiếu không tổ chức thi thì được xét tuyển thí sinh đã dự thi năng khiếu từ các trường khác.

VIII. Về nhập số liệu và sử dụng công nghệ thông tin trong tuyển sinh

Theo đúng lịch công tác tuyển sinh năm 2003, từ ngày 8/4 đến 14/4/2003, các Sở Giáo dục và Đào tạo truyền số liệu ĐKDT của thí sinh đến Bộ, Trường và từ Bộ truyền đến các trường. Ngoài việc truyền số liệu ĐKDT qua mạng, các Sở và trường có thể gửi báo cáo nhanh và nhận những thông tin cần thiết phục vụ tuyển sinh từ Bộ. Đối với các Sở và các trường năm trước chưa mở hộp thư điện tử, năm nay nhất thiết phải có.

Khâu nhập số liệu từ hồ sơ ĐKDT vào máy tính tại các Sở phải tuyệt đối chính xác. Sau khi nhập số liệu vào máy tính, nhất thiết phải tổ chức kiểm dò kỹ trước khi in và truyền số liệu qua mạng. Các trường căn cứ vào số liệu của các Sở và Bộ truyền để chuẩn bị thực hiện các khâu tiếp theo của công tác tuyển sinh.

Để thuận tiện cho việc tổng hợp, phân tích số liệu tuyển sinh toàn quốc, các Sở, các trường phải thực hiện đúng phần mềm tuyển sinh ĐH, CĐ do Bộ quy định, in các biểu mẫu đúng quy cách như: thống kê số liệu thí sinh ĐKDT, số thí sinh dự thi, thống kê kết quả thi, danh sách các thí sinh trúng tuyển... Các quy trình sắp xếp phòng thi, dồn túi chấm thi, đánh số phách và bảo mật đầu phách, kiểm dò sau khi nhập điểm từ biểu số 04 cần được thực hiện nghiêm túc. Tuyệt đối tránh tình trạng xô phách.

Để việc triển khai công nghệ thông tin thực hiện đúng quy định, các trường cần cử cán bộ công nghệ thông tin chuyên trách làm công tác tuyển sinh và đào tạo. Các cán bộ này phải tham gia các lớp tập huấn do Bộ tổ chức. Mặt khác, các trường phải kiên quyết thực hiện nghiêm kỷ luật về việc sử dụng công nghệ thông tin, bảo đảm dữ liệu tin cậy, đúng cấu trúc do Bộ quy định và truyền dữ liệu đúng thời hạn quy định.

Bộ sẽ có văn bản hướng dẫn chi tiết về việc này.

IX. Về lệ phí tuyển sinh

Liên Bộ Tài chính - Giáo dục và Đào tạo sẽ có văn bản hướng dẫn riêng.

X. Về việc thông báo kết quả thi và danh sách trúng tuyển

- Trước 20/8/2003, các trường ĐH, CĐ có tổ chức thi, công bố kết quả thi, điểm trúng tuyển trên mạng Internet và gửi giấy báo tuyển và điểm thi cho thí sinh trúng tuyển gửi giấy chứng nhận kết quả thi cho thí sinh không trúng tuyển có đóng dấu đỏ của trường tổ chức thi và chấm thi.

- Trước 20/9/2003, các trường xét tuyển công bố điểm xét tuyển trên mạng Internet và gửi giấy báo trúng tuyển cho thí sinh.

- Trước 30/9/2003, các trường phải thông báo danh sách trúng tuyển trên mạng Internet để các Sở Giáo dục và Đào tạo và thí sinh được biết. Dây là một yêu cầu bắt buộc. Chủ tịch HĐTS trường cần chỉ đạo Ban Thư ký thực hiện đúng quy định này.

XI. Về việc thu giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời của thí sinh

Hội đồng Tuyển sinh các trường cần thực hiện đúng quy định của Quy chế tuyển sinh hiện hành: đối với những thí sinh trúng tuyển ngay trong năm tốt nghiệp khi đến trường nhập học, chỉ yêu cầu nộp giấy chứng nhận tạm thời (THPT, THCN và tương đương) do Hiệu trưởng cấp, không yêu cầu thí sinh phải lấy xác nhận của Sở Giáo dục và Đào tạo. Vào đầu năm học sau, các trường yêu cầu những sinh viên này xuất trình bản gốc bằng tốt nghiệp để đối chiếu, kiểm tra.

XII. Về việc báo cáo nhanh tình hình kỳ thi

Trước 20/6/2003, nhất thiết các trường phải thông báo cho Bộ Giáo dục và Đào tạo (qua Vụ Đại học) biết số điện thoại trực thi tuyển sinh của Hội đồng tuyển sinh để bảo đảm thông tin thông suốt giữa Ban Chỉ đạo tuyển sinh của Bộ với HĐTS các trường. Trong kỳ thi có những tình huống đặc biệt bất thường về đề thi, về an ninh trật tự, các HĐTS cần trực tiếp báo cáo ngay về Bộ Giáo dục và Đào tạo để phối hợp tìm phương án xử lý kịp thời.

Mỗi buổi thi, sau khi thí sinh làm bài được 2/3 thời gian, HĐTS các trường cần báo cáo nhanh cho Ban Chỉ đạo thi của Bộ qua điện thoại: Vụ Đại học: (04) 8692392, (04) 8681386 hoặc FAX: (04) 8681550; E-mail để Ban Chỉ đạo kịp thời tập hợp số liệu báo cáo lãnh đạo Bộ và cấp trên về:

- Số lượng thí sinh dự thi so với số lượng thí sinh ĐKDT;
- Tình hình đề thi;
- Các hiện tượng cần lưu ý.

XIII. Tăng cường công tác thanh tra tuyển sinh

Thanh tra tuyển sinh phải được tăng cường ở từng cơ sở và trong toàn ngành để duy trì, giữ vững kỷ cương, thực hiện nghiêm túc Quy chế Tuyển sinh. Ban Chỉ đạo thi tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Sở Giáo dục và Đào tạo có kế hoạch giám sát, kiểm tra các khâu tổ chức kỳ thi, chấm thi, kể cả chấm phúc khảo, định điểm xét tuyển, triệu tập thí sinh trúng tuyển đến trường và xử lý nghiêm khắc kịp thời những người vi phạm Quy chế.

Sau ngày thi, các trường cần khẩn trương gửi báo cáo nhanh về Bộ Giáo dục và Đào tạo qua Vụ Đại học và Thanh tra Giáo dục.

Vụ Đại học có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tốt Hội nghị triển khai công tác tuyển sinh năm 2003, hướng dẫn chi tiết cho các Sở, các trường về tất cả các vấn đề liên quan để kỳ thi tuyển sinh năm 2003 đạt kết quả tốt, đáp ứng yêu cầu tuyển chọn của trường và đòi hỏi chính đáng của xã hội.

Văn bản này và Lịch công tác tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2003 đính kèm cần được các Ban Chỉ đạo thi, thành viên Hội đồng tuyển sinh các trường ĐH, CĐ và cán bộ làm công tác tuyển sinh của các Sở Giáo dục & Đào tạo quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời được phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng của trung ương và địa phương.


KT/Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Thứ trưởng
Trần Văn Nhung

Nơi nhận:
Như trên
VP Chính phủ
Ban Khoa giáo TW
VP Trung ương Đảng
Các Bộ, Ngành có trường ĐH, CĐ
Bộ trưởng và các Thứ trưởng
Các Uỷ viên Ban Chỉ đạo TS của Bộ
Các Vụ, Viện, Thanh tra GD
Lưu VP, Vụ ĐH
 
đây là bước khởi đầu thôi mà

anh có đọc bài viết của Quốc Anh, thấy QA có phần hơi phê phán tác giả bài đầu tiên về phương pháp luận... hay anh Thành chỉ trích là các tác giả co phận ngụy biện có gắng tăng tính thuyết phục bằng các công thức toán học ... Nhưng mình thì lại đánh giá cao bài viết này vì:
1/ trước nay chúng ta coi nhẹ nghiên cứu các vấn đề thực tiễn của xã hội bằng phương pháp thống kê (anh không biết tổng cục thống kê thì nghiên cứu gì về các vấn đề này không). Bài viết này là một cố gắng nhằm đi theo con đường này
2/ Bài viết chỉ ra sự phân lớp, tiêu chuẩn thì tác giả dựa trên fitting rồi còn gì nữa, anh nghĩ một người làm vật lý sẽ thường hỏi quy luật nào là gần nhất với thực tế , khi mà chúng ta không có nhiều thông tin về đối tượng nghiên cứu thì việc chọn tổng hai phân bố có sao đâu. Nếu có thòi gian nghiên cứu (không phải nhiệm vụ của viện phó viện hạt nhân) thì ông ta có thể đề ra các mô hình phức tạp hơn . DIEU QUAN TRỌNG là chứng minh tính phân hóa . Thế QA không hỏi tại sao Poly lại fit điểm theo duy nhất một phan bố, đơn giản vì Pháp có hệ thống preparatoire và nước Phap đã có nhũng chính sách để đảm bảo chất lượng giáo dục đồng đều trên bình diện quốc gia ( và họ tin những với chính sách đó phân bố đầu là đồng nhất).
3/Bài viết thứ 2 đưa con số 10.000 chất lượng cao là khá hợp lý, ít nhất là so sánh với một quốc gia có dân số tương đương VN là Pháp (nhưng trình độ phát triển cao hơn). Mình tự thấy VN mình còn cố gắng rất nhiều để làm được điều này (cộng tất cả học sinh chuyên tự nhiên của cả nước lại thì cũng chỉ cỡ 2000, và giả sử họ sẽ là sinh viên giỏi ở bậc đại học). Điêu duy nhất chúng ta cần làm là làm sao cho đàu vào của các lớp chất lượng cao này có thành phần xuất xứ đồng nhất.

Thách thức có rồi đấy ;)
 
Những suy ngẫm từ thống kê tỷ lệ trúng tuyển đại học


Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỉnh có thí sinh trúng tuyển đại học năm 2002 cao nhất là Lâm Đồng (26,9%). Trong khi đó, các thành phố lớn lại có tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn nhiều như: TP Hồ Chí Minh (18,5%), Hải Phòng (16,4%), Hà Nội (16,4%)... Dưới đây là ý kiến của một số nhà chuyên môn về hiện tượng này.
Ông Nguyễn Thái Xuân (Phó giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Lâm Đồng):

Do thi cử nghiêm túc

Phải khẳng định ngay là Lâm Đồng tổ chức các kỳ thi khá nghiêm túc. Ở một số trường, ngay cả kỳ kiểm tra cuối học kỳ cũng xếp chỗ ngồi theo số báo danh, 25 HS/phòng thi, công tác coi thi chặt chẽ như thi tốt nghiệp. Chúng tôi thà chấp nhận tỷ lệ tốt nghiệp thấp (năm học 2001 -2002 tỷ lệ tốt nghiệp THPT của Lâm Đồng chưa đến 80%) để tác động vào ý thức học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của giáo viên. Nền nếp thi cử đã tạo cho HS một thái độ học tập đúng đắn, đàng hoàng, không học tủ, học lệch - đây là nguyên nhân chính khiến Lâm Đồng có tỷ lệ HS đậu đại học cao. Bên cạnh đó, cũng phải kể thêm về nội dung chương trình chính khóa trong nhà trường được giảng dạy theo hướng chú trọng những kỹ năng cơ bản và kiến thức sách giáo khoa trải đều, HS không có điều kiện để học vẹt.

Tiến sĩ Đỗ Huy Thịnh (giám đốc Trung tâm đào tạo khu vực của SEAMEO):

Phải bảo đảm chất lượng mặt bằng trong tương lai

Điểm chênh lệch hơi cao trong ưu tiên, nhưng không cao thì không bảo đảm được công bằng xã hội, và không đưa được đại học về các vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên vấn đề đặt ra, theo tôi, là làm sao có sự rút ngắn khoảng cách về trình độ giữa các vùng miền. Chuẩn bị các chương trình đào tạo ở bậc phổ thông như thế nào để trình độ giữa các vùng miền không khác biệt nhau nhiều lắm. Một thí sinh đầu vào ưu tiên, nhưng không đủ khả năng học, như vậy khi vào học rất vất vả vì thí sinh này thi để đậu vào học chứ không được trang bị kiến thức nền tảng sẽ ảnh hưởng đến quá trình học và phục vụ sau này của mỗi thí sinh. Cải cách giáo dục phát triển phải bảo đảm chất lượng mặt bằng trong tương lai, cố gắng rút khoảng cách giữa các vùng miền ngày càng ngắn hơn. Chúng tôi thường nói vui không có chính sách ưu tiên có tỉnh sẽ không có người vào ĐH. Đưa chính sách nhưng phải đầu tư về nhân lực vật lực nhiều hơn, để bảo đảm chính sách ưu tiên thật sự có ý nghĩa khi khoảng cách trình độ giữa các vùng miền được rút bớt.

Ông Nguyễn Thanh Giang (phó giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu):

Kiến thức cơ bản, hướng nghiệp chu đáo và dạy thêm hiệu quả

Vũng Tàu có tỷ lệ HS đậu đại học cao vì giáo viên dạy kiến thức phổ thông rất cơ bản mà năm 2002 đề thi tuyển sinh đại học của bộ lại nằm hết trong sách giáo khoa, không mang tính đánh đố, HS trung bình - khá cũng có thể làm khá tốt đề thi. Kế đó là công tác hướng nghiệp của chúng tôi được thực hiện rất chu đáo. Ngay từ lớp 10 HS đã được dự các buổi báo cáo thảo luận về cách chọn trường, chọn nghề, được cung cấp những thông tin cụ thể về tỷ lệ chọi, điểm chuẩn,... ở các trường đại học. Từ đó HS biết tự lượng sức mình nên thi vào trường nào, ngành nào, không ào ào đăng ký vào những trường có tỷ lệ chọi cao rồi bị loại ra hàng loạt. Một nguyên nhân nữa cần thẳng thắn nhìn nhận là phong trào tổ chức dạy thêm ngay trong nhà trường ở Bà Rịa - Vũng Tàu được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả, HS không phải học luyện thi đại học ở ngoài. Nhà trường đứng ra tổ chức dạy thêm - học thêm theo cách phân loại đối tượng HS: giỏi học lớp riêng, trung bình học lớp riêng, cách dạy thêm có định hướng và thực chất chứ không phát triển tràn lan như nhiều nơi: HS học thêm rất nhiều nhưng không nhớ được bao nhiêu.

Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn

Các trường ĐH phải có sự phân hóa

Việc ra đề thi chung sát với chương trình, sách giáo khoa phổ thông, không có những câu hỏi, bài tập lắt léo đánh đố đã giúp thí sinh ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa không còn bị những khoảng cách thiệt thòi do không có điều kiện luyện thi theo "gu" riêng của từng trường ĐH, theo các "tủ" của từng năm.

Nhưng đồng thời, theo tôi, kết quả này cũng khiến chúng ta phải nhìn nhận lại cách xác định mức điểm ưu tiên theo khu vực. Điểm ưu tiên đang tạo cho thí sinh các KV1, KV2 nhiều cơ hội vào ĐH hơn KV3 nhưng cũng làm giảm chất lượng đầu vào của đào tạo ĐH. Đã đến lúc phải xem xét tuyển vào nhưng có học được không, học rồi có sử dụng được không. Còn nếu chỉ ưu tiên để các em có được tấm bằng mà kiến thức không thực chất thì cũng không giải quyết được gì.

Theo tôi, để vừa bảo đảm được chính sách ưu tiên khu vực vừa bảo đảm chất lượng đào tạo nhân lực hệ thống các trường ĐH phải có sự phân hóa: đối với trường đào tạo chất lượng cao, trường trọng điểm, điều kiện tuyển sinh phải cao hơn (thí dụ như có thêm các điều kiện sơ tuyển, yêu cầu về học lực phổ thông...), không tính điểm ưu tiên để tuyển được đầu vào chất lượng nhất. Còn các trường đào tạo đại trà nhất là trường của tỉnh thì vẫn áp dụng điều kiện ưu tiên để tạo nguồn nhân lực cho địa phương.

Giáo sư Vũ Văn Tảo:

Ưu tiên, nhưng đừng lạm dụng

Theo tôi, việc ưu tiên đối tượng chính sách, ưu tiên khu vực là cần thiết nhưng đừng để đến mức lạm dụng, nhất là đối với ưu tiên theo khu vực. Thứ nhất, bộ nên tiếp tục cải tiến cách ra đề để đánh giá đúng học lực của HS, có sự phân hóa rõ rệt trình độ, năng lực HS. Thứ hai, nên giới hạn điểm ưu tiên ở mức độ phù hợp với từng giai đoạn, vùng miền, ngành nghề. Nói cách khác, bộ chỉ nên giới hạn mức ưu tiên tối thiểu, còn lại để các trường chủ động tùy vào mục tiêu, sứ mạng, nhiệm vụ đào tạo của mình mà quyết định mức độ ưu tiên đến đâu. Cuối cùng, theo tôi, quy định về chế độ ưu tiên trong tuyển sinh ĐH, CĐ không nên quy định cụ thể thành điểm chênh lệch. Nên quy định bằng tỷ lệ dành để tuyển HS từ các địa bàn ưu tiên cho từng nhóm trường theo các tiêu chí như chất lượng đào tạo, ngành nghề, nhu cầu đào tạo của xã hội, của địa phương, phạm vi tuyển sinh...

Tỷ lệ thí sinh trúng tuyển ĐH 2002

Tỉnh Lâm Đồng
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Long An
Tỉnh Bình Dương
Tỉnh Gia Lai
Tỉnh Ninh Thuận
Tỉnh Kon Tum
Tỉnh Kiên Giang
TP Hồ Chí Minh
Tỉnh Cà Mau
Tỉnh Bạc Liêu
Tỉnh Bình Phước
Tỉnh Tiền Giang
Tỉnh Tây Ninh
TP Hải Phòng
TP Hà Nội
Tỉnh Vĩnh Phúc
Tỉnh Ninh Bình
Tỉnh Bình Thuận
Tỉnh An Giang
Tỉnh Vĩnh Long
Tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Bình Định
Tỉnh Thừa Thiên - Huế
Tỉnh Đác Lắc
Tỉnh Cần Thơ
Tỉnh Khánh Hòa
Tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Bắc Ninh
TP Đà Nẵng
Tỉnh Quảng Trị
Tỉnh Thái Bình
Tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Hà Nam
Tỉnh Nam Định
Tỉnh Bến Tre
Tỉnh Hải Dương
Tỉnh Phú Yên
Tỉnh Lai Châu
Tỉnh Trà Vinh
Tỉnh Quảng Ninh
Tỉnh Phú Thọ
Tỉnh Quảng Ngãi
Tỉnh Thanh Hóa
Tỉnh Nghệ An
Tỉnh Hà Tây
Tỉnh Yên Bái
Tỉnh Lào Cai
Tỉnh Hưng Yên
Tỉnh Hòa Bình
Tỉnh Thái Nguyên
Tỉnh Sơn La
Tỉnh Hà Giang
Tỉnh Quảng Bình
Tỉnh Bắc Giang
Tỉnh Tuyên Quang
Tỉnh Bắc Cạn
Tỉnh Hà Tĩnh
Tỉnh Cao Bằng
Tỉnh Lạng Sơn

26,90
22,38
21,00
19,60
19,24
19,06
18,97
18,92
18,61
18,54
18,42
18,30
17,76
17,74
16,57
16,46
16,44
15,17
15,12
14,84
14,52
14,46
14,33
13,72
13,72
13,67
13,42
12,96
12,78
12,76
12,57
12,46
12,43
12,42
12,13
12,11
11,95
11,92
11,70
11,50
11,34
11,19
11,05
10,94
10,48
10,44
10,19
9,95
9,66
9,48
9,37
9,35
9,24
8,67
8,60
8,22
7,86
7,13
7,04
5,94
4,45

Khỉ thật không thể nào mà sắp xếp ngang hàng được :(
 
Back
Bên trên