Nguyễn Hoàng Linh
(Hoang Linh Nguyen)
Điều hành viên
NỖI LO CHO CON
Sao mà sinh con ra lắm cái để lo đến thế?! Hồi bé thì lo cho ăn, cho ngủ, mon cho chóng lớn. Lớn lên chút nữa lo cho học hành, trường lớp, lo chuyện chơi với bạn bè, chuyện ăn mặc. Nuôi mãi đến tuổi trưởng thành vẫn phải lo chuyện nghề nghiệp, công việc của con, rồi đến chuyện dựng vợ gả chồng, sinh con sinh cháu... Tóm lại là cái lo của cha mẹ ở đâu cũng thế, chẳng bao giờ mà hết được.
Đối với một số người Việt sống ở nước ngoài, nhất là nếu có con trai thì lại thêm một nỗi lo riêng: lo con lấy vợ Tây. Thực ra mà nói, cũng khó giải thích chính xác được sao ta lại gọi đó là "nỗi lo", nhưng tính về "bề dày lịch sử" thì nó cũng tồn tại cả gần nửa thế kỷ nay rồi.
Thời Pháp thuộc, các gia đình khá giả thường gửi con đi học nước ngoài. Mặc dù cha mẹ có thể làm trong cơ quan của Pháp, ảnh hưởng nhiều văn hóa Tây Âu, những cái nếp suy nghĩ của đạo Nho, đạo Khổng - con cái phải đặt chữ "hiếu" với bố mẹ lên hàng đầu - vẫn còn ẩn sâu trong truyền thống. Các cụ cố gắng chi bao nhiêu tiền cũng được, gửi con đi học "bên Tây", mong con học hỏi được nhiều kiến thức, văn minh hiện đại, thành đạt nhưng cốt để sau về phuịng dưỡng cha mẹ. Ai cững lo con mình đi hẳn không về nữa, coi như "mất con". Trong thư dặn dò con trước lúc lên đường, có cụ còn gạch thật đậm mấy chữ "Không lấy vợ đầm!" Có cụ nghe phong thanh con mình giao du với mấy cô "đầm" mà đã đau khổ, không ăn không uống, tuyệt thực đến ốm quỵ, khiến gia đình phải gọi điện bắt anh con trai về cụ mới thôi. Các cụ cũng nghĩ ra nhiều "biện pháp phòng ngừa" như cưới vợ cho con trước khi con đi học, cho con mang vợ theo, hoặc liên hệ với các gia đình khác cũng có con đi học, nếu "môn đăng hộ đối" thì gả cho nhau!
Sau năm 1945, đất nước giành lại được độc lập, hàng năm nhà nước ta vẫn cử nhiều sinh viên ra nước ngoài học tập, chủ yếu là các nước XHCN "anh em" như Nga, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgary, Ba lan, Romania, Hungary... Mấy chục năm đầu, chuyện tiếp xúc, "luyến ái" với người nước ngoài còn bị coi là "tội tầy trời". Đất nước đang còn chiến tranh, sinh viên đuợc nhà nước cử đi học, sống trong điều kiện "bơ sữa tràn trề" thì phải gạt hết chuyện yêu đương đi. Gia đình nào có con yêu người ngoại quốc thì ngang với tội "phản quốc", không những mất mặt với hàng xóm láng giềng mà khéo liên lụy đến cả các bậc phụ huynh (bị kiểm điểm tại cơ quan). Vậy nên bậc cha mẹ nào cũng lo lắng, biết con mình sống như... thày tu nên thường xuyên thư từ động viên, một mặt lấy tình cảm bố mẹ gia đình để làm con cái mủi lòng, mặt khác kể các "tấm gương" xấu để răn đe.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi mối quan hệ với người "bản địa" không còn bị kiểm tra ngặt nghèo nữa thì "làn sóng" lấy vợ, lấy chồng Tây có vẻ cũng lên. Nhiều vị phụ huynh hãnh diện khi con đem cô vợ Tây tóc vàng, mắt xanh về quê thăm gia đình. Cả làng trầm trồ khen cô dâu Tây cũng ngồi xếp bằng tròn trên chiếu, ăn rau muống, nước mắm, đậu phụ chấm mắm tôm như người Việt "thứ thiệt". Đầu óc cha mẹ cũng "canh tân", thoáng hơn trước nhiều: dâu nào chả là dâu, miễn là con mình hạnh phúc là được. Nỗi buồn chỉ nảy nở khi có cháu: không trò chuyện được với con dâu không sao, nhưng không nói chuyện dạy dỗ được cháu thi 2 quá buồn. Làm sao mà ôm nó vào lòng kể chuyện "ngày xửa ngày xưa", giải thích cho nó chuyện hương khói cúng bái ông bà tổ tiên? Nhất là nếu nó lại là cháu đích tôn! Chuyện đến thế, cha mẹ cũng chỉ biết thở dài!
Cái khó giải thích nhất là tâm lý của những ông bố bà mẹ đã sống lâu năm ở nước ngoài, sinh con ra cũng ở nước ngoài. Do nhiều điều kiện khách quan như xa quê hương cả chục ngàn cây số, ít có điều kiện về Việt Nam hoặc người từ nhà sang thăm, bọn trẻ thế hệ F1 sinh ra và trưởng thành ở nước ngoài có cách ăn nói, suy nghĩ và cử xử... như Tây. Trẻ em Việt ở nước ngoài thường chăm chỉ, học giỏi. Thấy con mình hòa nhập với môi trường xã hội, cha mẹ nào chẳng mừng? Nhưng vẫn có một nỗi lo mơ hồ khó giải thích, là lo "con lấy vợ Tây". Tại sao lại lo nhỉ, con mình nó sinh ra ở Tây, mọi thứ cũng gần gần "như Tây", nó lấy vợ Tây là chuyện... tất nhiên, cớ sao cứ phải lo? Ở những nước cộng đồng Việt Nam đông đúc như Pháp, Mỹ..., nhiều gia đình để ý đi lại, chơi với nhau từ khi con còn nhỏ nhằm tạo "ý thức" cho con lấy vợ Việt. Chuyện bố mẹ là người Việt, muốn con lấy vợ Việt đã đành, nhưng có cả ông lấy vợ "đầm", đẻ ra con lai, hầu như "mù" tiếng Việt, vậy mà năm nào cũng về Việt Nam bằng được một hai tháng để "tầm vợ cho con" thì thật lạ! Chưa nói đến một số gia đình còn chơi đòn "quyết liệt" hơn, như mẹ khóc lóc van xin, cha tuyên bố "bước qua xác tao thì lấy thằng ấy"!
Dầu sao đi nữa, có lẽ những phản ứng thái quá như thế, có lẽ chỉ là cá biệt. Đa số cha mẹ khi được hỏi, đều đáp rất... khoan dung: "Tùy chúng nó lựa chọn, chúng tôi không can thiệp!" Miệng nói thế nhung trong bụng vẫn "mở cờ" nếu con dắt về nhà một người yêu cùng mũi tẹt, da vàng, cùng chủng tộc. Bản thân tôi, thú thật tôi cũng rất lo nếu con mình lấy vợ Tây. Nguyên nhân tại sao tôi không rõ. Hỏi kinh nghiệm vài đứa cùng lứa, được vài lời khuyên như sau: trong nhà chỉ được nói tiếng Việt, phải lắp ăng-ten để bắt VTV4, thấy cô Việt Nam nào trên phim cũng phải khen nức nở "xem kìa, cô xinh quá!" Tiếp đó, phải năng đưa con đến các gia đình Việt Nam chơi bời, thăm thú, bảo ông bà gửi nhiều sách nhi đồng, băng hình ca nhạc thiếu nhi bắt con nghe ngày nhiều lần. Và đặc biệt có cô bạn thân khuyên tôi: "Từ bé cứ tống cho nó ăn nhiều phở vào, thích ăn phở là sau sẽ phải lấy vợ Việt, đàn ông cứ đánh vào tâm lý... dạ dày!"
Tôi thấy ý kiến này hay, định quyết sẽ làm theo. Tác dụng của nó thế nào thì xin hạ hồi phân giải: cháu bé nhà tôi mới 1 tuổi rưỡi, còn cô bạn gái nó cũng mới gần 2 tuổi!
Có điều, tôi vẫn chưa thế lý giải hết cho cái câu hỏi: "Sao cứ phải vợ Việt Nam?"
(Đặng Phương Lan, Budapest)
Sao mà sinh con ra lắm cái để lo đến thế?! Hồi bé thì lo cho ăn, cho ngủ, mon cho chóng lớn. Lớn lên chút nữa lo cho học hành, trường lớp, lo chuyện chơi với bạn bè, chuyện ăn mặc. Nuôi mãi đến tuổi trưởng thành vẫn phải lo chuyện nghề nghiệp, công việc của con, rồi đến chuyện dựng vợ gả chồng, sinh con sinh cháu... Tóm lại là cái lo của cha mẹ ở đâu cũng thế, chẳng bao giờ mà hết được.
Đối với một số người Việt sống ở nước ngoài, nhất là nếu có con trai thì lại thêm một nỗi lo riêng: lo con lấy vợ Tây. Thực ra mà nói, cũng khó giải thích chính xác được sao ta lại gọi đó là "nỗi lo", nhưng tính về "bề dày lịch sử" thì nó cũng tồn tại cả gần nửa thế kỷ nay rồi.
Thời Pháp thuộc, các gia đình khá giả thường gửi con đi học nước ngoài. Mặc dù cha mẹ có thể làm trong cơ quan của Pháp, ảnh hưởng nhiều văn hóa Tây Âu, những cái nếp suy nghĩ của đạo Nho, đạo Khổng - con cái phải đặt chữ "hiếu" với bố mẹ lên hàng đầu - vẫn còn ẩn sâu trong truyền thống. Các cụ cố gắng chi bao nhiêu tiền cũng được, gửi con đi học "bên Tây", mong con học hỏi được nhiều kiến thức, văn minh hiện đại, thành đạt nhưng cốt để sau về phuịng dưỡng cha mẹ. Ai cững lo con mình đi hẳn không về nữa, coi như "mất con". Trong thư dặn dò con trước lúc lên đường, có cụ còn gạch thật đậm mấy chữ "Không lấy vợ đầm!" Có cụ nghe phong thanh con mình giao du với mấy cô "đầm" mà đã đau khổ, không ăn không uống, tuyệt thực đến ốm quỵ, khiến gia đình phải gọi điện bắt anh con trai về cụ mới thôi. Các cụ cũng nghĩ ra nhiều "biện pháp phòng ngừa" như cưới vợ cho con trước khi con đi học, cho con mang vợ theo, hoặc liên hệ với các gia đình khác cũng có con đi học, nếu "môn đăng hộ đối" thì gả cho nhau!
Sau năm 1945, đất nước giành lại được độc lập, hàng năm nhà nước ta vẫn cử nhiều sinh viên ra nước ngoài học tập, chủ yếu là các nước XHCN "anh em" như Nga, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgary, Ba lan, Romania, Hungary... Mấy chục năm đầu, chuyện tiếp xúc, "luyến ái" với người nước ngoài còn bị coi là "tội tầy trời". Đất nước đang còn chiến tranh, sinh viên đuợc nhà nước cử đi học, sống trong điều kiện "bơ sữa tràn trề" thì phải gạt hết chuyện yêu đương đi. Gia đình nào có con yêu người ngoại quốc thì ngang với tội "phản quốc", không những mất mặt với hàng xóm láng giềng mà khéo liên lụy đến cả các bậc phụ huynh (bị kiểm điểm tại cơ quan). Vậy nên bậc cha mẹ nào cũng lo lắng, biết con mình sống như... thày tu nên thường xuyên thư từ động viên, một mặt lấy tình cảm bố mẹ gia đình để làm con cái mủi lòng, mặt khác kể các "tấm gương" xấu để răn đe.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi mối quan hệ với người "bản địa" không còn bị kiểm tra ngặt nghèo nữa thì "làn sóng" lấy vợ, lấy chồng Tây có vẻ cũng lên. Nhiều vị phụ huynh hãnh diện khi con đem cô vợ Tây tóc vàng, mắt xanh về quê thăm gia đình. Cả làng trầm trồ khen cô dâu Tây cũng ngồi xếp bằng tròn trên chiếu, ăn rau muống, nước mắm, đậu phụ chấm mắm tôm như người Việt "thứ thiệt". Đầu óc cha mẹ cũng "canh tân", thoáng hơn trước nhiều: dâu nào chả là dâu, miễn là con mình hạnh phúc là được. Nỗi buồn chỉ nảy nở khi có cháu: không trò chuyện được với con dâu không sao, nhưng không nói chuyện dạy dỗ được cháu thi 2 quá buồn. Làm sao mà ôm nó vào lòng kể chuyện "ngày xửa ngày xưa", giải thích cho nó chuyện hương khói cúng bái ông bà tổ tiên? Nhất là nếu nó lại là cháu đích tôn! Chuyện đến thế, cha mẹ cũng chỉ biết thở dài!
Cái khó giải thích nhất là tâm lý của những ông bố bà mẹ đã sống lâu năm ở nước ngoài, sinh con ra cũng ở nước ngoài. Do nhiều điều kiện khách quan như xa quê hương cả chục ngàn cây số, ít có điều kiện về Việt Nam hoặc người từ nhà sang thăm, bọn trẻ thế hệ F1 sinh ra và trưởng thành ở nước ngoài có cách ăn nói, suy nghĩ và cử xử... như Tây. Trẻ em Việt ở nước ngoài thường chăm chỉ, học giỏi. Thấy con mình hòa nhập với môi trường xã hội, cha mẹ nào chẳng mừng? Nhưng vẫn có một nỗi lo mơ hồ khó giải thích, là lo "con lấy vợ Tây". Tại sao lại lo nhỉ, con mình nó sinh ra ở Tây, mọi thứ cũng gần gần "như Tây", nó lấy vợ Tây là chuyện... tất nhiên, cớ sao cứ phải lo? Ở những nước cộng đồng Việt Nam đông đúc như Pháp, Mỹ..., nhiều gia đình để ý đi lại, chơi với nhau từ khi con còn nhỏ nhằm tạo "ý thức" cho con lấy vợ Việt. Chuyện bố mẹ là người Việt, muốn con lấy vợ Việt đã đành, nhưng có cả ông lấy vợ "đầm", đẻ ra con lai, hầu như "mù" tiếng Việt, vậy mà năm nào cũng về Việt Nam bằng được một hai tháng để "tầm vợ cho con" thì thật lạ! Chưa nói đến một số gia đình còn chơi đòn "quyết liệt" hơn, như mẹ khóc lóc van xin, cha tuyên bố "bước qua xác tao thì lấy thằng ấy"!
Dầu sao đi nữa, có lẽ những phản ứng thái quá như thế, có lẽ chỉ là cá biệt. Đa số cha mẹ khi được hỏi, đều đáp rất... khoan dung: "Tùy chúng nó lựa chọn, chúng tôi không can thiệp!" Miệng nói thế nhung trong bụng vẫn "mở cờ" nếu con dắt về nhà một người yêu cùng mũi tẹt, da vàng, cùng chủng tộc. Bản thân tôi, thú thật tôi cũng rất lo nếu con mình lấy vợ Tây. Nguyên nhân tại sao tôi không rõ. Hỏi kinh nghiệm vài đứa cùng lứa, được vài lời khuyên như sau: trong nhà chỉ được nói tiếng Việt, phải lắp ăng-ten để bắt VTV4, thấy cô Việt Nam nào trên phim cũng phải khen nức nở "xem kìa, cô xinh quá!" Tiếp đó, phải năng đưa con đến các gia đình Việt Nam chơi bời, thăm thú, bảo ông bà gửi nhiều sách nhi đồng, băng hình ca nhạc thiếu nhi bắt con nghe ngày nhiều lần. Và đặc biệt có cô bạn thân khuyên tôi: "Từ bé cứ tống cho nó ăn nhiều phở vào, thích ăn phở là sau sẽ phải lấy vợ Việt, đàn ông cứ đánh vào tâm lý... dạ dày!"
Tôi thấy ý kiến này hay, định quyết sẽ làm theo. Tác dụng của nó thế nào thì xin hạ hồi phân giải: cháu bé nhà tôi mới 1 tuổi rưỡi, còn cô bạn gái nó cũng mới gần 2 tuổi!
Có điều, tôi vẫn chưa thế lý giải hết cho cái câu hỏi: "Sao cứ phải vợ Việt Nam?"
(Đặng Phương Lan, Budapest)