Phạm Quang Minh
(Minh172)
New Member
số 18:
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ vô số những con suối nhỏ róc rách chảy xuống từ ngọn núi Ngọc Linh ở chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi, len lỏi qua những vùng núi non hiểm trở mạn tây Quảng Nam rồi đổ xuống các cánh đồng phì nhiêu.
Qua chặng đờng dài hàng trăm cây số, khi ầm ầm băng qua các ghềnh thác, khi thênh thang băng qua những đồng ruộng phì nhiêu, làng mạc trù phú, khi ghé qua những vùng kỹ nghệ phát đạt, mỗi một đoạn sông biểu hiện một dáng dấp riêng. Nhng bất cứ ở đâu, Thu Bồn cũng là một dòng sông hài hòa sự kết hợp giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với sự phong phú của cải đợc bàn tay và khối óc của ngời đất Quảng gây dựng.
Từ Trà Mi, dòng sông đổ về Tiên Phớc. Phía dới Tiên Phớc có Thác Cả, nớc đổ trắng xóa nh một dải thắt lng lụa bạch trên nền áo xanh của rừng núi. Nơi đây không gian tĩnh mịch, chỉ đôi khi mới có một đàn voi xuất hiện lội qua sông, làm náo động dòng nớc ào ào.
Qua khỏi Trà Linh, sông lượn mình giữa hai ngọn núi cao sừng sững nh bức tờng gọi là hòn Kẽm. Chân núi hòn Kẽm có nhiều phiến đá trắng, trên đó còn lu giữ những chữ cổ Chiêm Thành. Trớc cảnh núi sông hùng vĩ, con ngời lại nghĩ đến công lao của mẹ cha. Vì thế mà có câu ca:
Ngó lên hòn Kẽm đá dừng
Thơng cha, nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
đến Giao Thủy, sông Thu Bồn đón nhận nhánh sông Vu Gia từ Hà Tân đổ về để cùng chảy về phía Nam, rồi chia làm hai nhánh bao bọc lấy vùng Gò Nổi. Từ đó hai dòng chảy qua Chợ Củi, Câu Lâu và cuối cùng hòa nhập để ra Cửa đại. Những vùng bãi bồi ở Duy Xuyên, điện Bàn có sông Thu Bồn chảy qua còn lu giữ những câu chuyện nên thơ và cảm động. Dân gian vẫn truyền nhau câu chuyện nàng thôn nữ Chiêm Sơn. Chúa thợng Nguyễn Phớc Lan lúc còn trẻ sống với cha là Thụy Quận Công đang trấn thủ Quảng Nam, tại dinh trấn Thanh Chiêm. Vào một đêm trăng, công tử Nguyễn Phớc Lan cùng cha thả thuyền rong chơi trên dòng Thu Bồn. Giữa đêm trăng thanh vắng bỗng có tiếng hát véo von từ một nơng dâu vọng lại. Thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh điện Châu. Và dới bãi dâu xanh nhuộm ánh trăng vàng, Nguyễn Phớc Lan - sau này là Chúa thợng, đã bàng hoàng trớc sắc đẹp của cô thôn nữ họ đoàn, ngời huyện Tiên Phớc, thuộc phủ điện Bàn. Chúa cho rớc về cung và cô hái dâu họ đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phớc Tần tức chúa Hiền.
Hiện nay, ở Chiêm Sơn (Duy Xuyên), về phía Tây Gò Cốc Hùng, còn có lăng Vĩnh Viễn, thờ bà Hiếu Chiêu hoàng hậu.
Dòng sông Thu Bồn cũng sâu sắc lắng đọng trong ký ức và tình cảm của nhiều văn sĩ đất Quảng.
Trong bài thơ "Từ vùng đất quê hơng", nhà văn Nguyễn Văn Bổng viết về dòng sông Thu Bồn: "Từ làng tôi đi Hội An thì buổi chiều ra bến trên sông Thu Bồn, xuống đò. Tối, đò nhổ, rời bến, lúc chống chèo, lúc căng buồm chạy phăng phăng trên mặt nớc. Nửa đêm thức giấc, chập chờn trong tiếng hò. Tiếng hò văng vẳng đâu sau lái đò mình; ơi ới trên những chiếc khác cùng xuôi dòng sông, giọng nam nữ đối đáp nhau vang vọng giữa trăng nớc...
Sáng hôm sau mở mắt, đò đã cắm sào bến Hội An. Hai bên sông, bên này thị xã, bên kia Cẩm Phô, tiếng gà gáy. Trên mặt nớc và đờng phố tiếng rao cháo hến, khoai Tiên đỏa, mì Quảng, bánh mì mật nạm (sốt vang)". Con sông Thu Bồn có màu nớc trong xanh, có bãi dâu bạt ngàn, có núi Thạch Bích, có nhiều câu hò, câu hát.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), sông Thu Bồn là một ranh giới: Hữu ngạn trở lên phía Tây là vùng tự do; tả ngạn về phía đông là vùng tạm chiếm. Biết bao cuộc chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp và xâm lợc Mỹ đã diễn ra hai bên bờ và ngay cả trên sông này.
Không kể bao nhiên chiến sĩ cách mạng, bao nhiêu bộ đội, dân quân du kích, những ngời dân thờng yêu nớc đã vĩnh viễn nằm lại trên những mảnh đất gắn bó với dòng sông. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các văn nghệ sĩ đã từng gắn bó với đất Quảng rất đau xót và trân trọng nhắc lại những đồng đội của mình đã ngã xuống ở hai bờ sông Thu Bồn thời chống Mỹ: Cô diễn viên múa Phơng Thảo nói giọng Hà Nội, đẹp và trẻ trung, năm 1966 đã bị một mảnh pháo rất nhỏ của kẻ thù đâm vào ngực, đúng giữa tim. Mộ chị nằm ở thôn La Tháp, xã Xuyên Thanh, huyện Duy Xuyên, nơi con sông Thu Bồn rẽ đôi dòng, giang hai cánh tay đầy sinh lực bọc một hòn đảo lớn - khu Gò Nổi.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài "Chiến trờng những năm tháng ấy, sống và viết" - đã phát họa những dòng cảm động: "Nh là sự sắp xếp lạ lùng của cung, những anh chị em làm văn học nghệ thuật đồng nghiệp, đồng đội, đồng chí chúng tôi đã hy sinh suốt cuộc chống Mỹ trên chiến trờng Quảng Nam, tất cả đều nằm lại dọc hai ven bờ sông lớn Thu Bồn, từ ngọn nguồn cho đến nơi sông gặp biển. Tởng nh là họ cố tình đem xơng thịt mình góp nên phù sa màu mỡ cho đồng ruộng Quảng Nam hôm nay. ở đầu nguồn là nhà thơ trẻ Nguyễn Mỹ, ngời Phú Yên, Nguyễn Mỹ của "Cuộc chia li màu đỏ". Anh hy sinh ven bờ suối nớc Oa trong một trận chống càn. ở cuối sông là cô gái Hà Nội Dơng Thị Xuân Quý. Chị nằm ở nơi quanh năm lồng lộng gió mặn biển đông. Giữa họ, nh một sợi dây nối dài là họa sĩ trẻ Hà Xuân Phong, Chu Cầm Phong, Phơng Thảo, Nguyễn Trọng định, Nguyễn Hồng, Văn Cận, Trần Văn Anh... Và gần hết một đoàn văn công Quảng đà hy sinh mấy ngày trớc chiến dịch Xuân Mậu Thân (1968)".
Biết bao con ngời đợc nhân dân kính yêu từng gắn bó với dòng sông Thu Bồn nh Hoàng Diệu, nh Trần Cao Vân, nh Trần Thị Lí ...
Những con ngời ấy trở nên bất tử. Còn dòng sông Thu Bồn thì mãi mãi tơi đẹp, nh một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng.
********************************
Mình chưa bao giờ vào Đà nẵng, bạn nào vào rồi có cái gì hay kể cho mọi người nghe với.
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ vô số những con suối nhỏ róc rách chảy xuống từ ngọn núi Ngọc Linh ở chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi, len lỏi qua những vùng núi non hiểm trở mạn tây Quảng Nam rồi đổ xuống các cánh đồng phì nhiêu.
Qua chặng đờng dài hàng trăm cây số, khi ầm ầm băng qua các ghềnh thác, khi thênh thang băng qua những đồng ruộng phì nhiêu, làng mạc trù phú, khi ghé qua những vùng kỹ nghệ phát đạt, mỗi một đoạn sông biểu hiện một dáng dấp riêng. Nhng bất cứ ở đâu, Thu Bồn cũng là một dòng sông hài hòa sự kết hợp giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với sự phong phú của cải đợc bàn tay và khối óc của ngời đất Quảng gây dựng.
Từ Trà Mi, dòng sông đổ về Tiên Phớc. Phía dới Tiên Phớc có Thác Cả, nớc đổ trắng xóa nh một dải thắt lng lụa bạch trên nền áo xanh của rừng núi. Nơi đây không gian tĩnh mịch, chỉ đôi khi mới có một đàn voi xuất hiện lội qua sông, làm náo động dòng nớc ào ào.
Qua khỏi Trà Linh, sông lượn mình giữa hai ngọn núi cao sừng sững nh bức tờng gọi là hòn Kẽm. Chân núi hòn Kẽm có nhiều phiến đá trắng, trên đó còn lu giữ những chữ cổ Chiêm Thành. Trớc cảnh núi sông hùng vĩ, con ngời lại nghĩ đến công lao của mẹ cha. Vì thế mà có câu ca:
Ngó lên hòn Kẽm đá dừng
Thơng cha, nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
đến Giao Thủy, sông Thu Bồn đón nhận nhánh sông Vu Gia từ Hà Tân đổ về để cùng chảy về phía Nam, rồi chia làm hai nhánh bao bọc lấy vùng Gò Nổi. Từ đó hai dòng chảy qua Chợ Củi, Câu Lâu và cuối cùng hòa nhập để ra Cửa đại. Những vùng bãi bồi ở Duy Xuyên, điện Bàn có sông Thu Bồn chảy qua còn lu giữ những câu chuyện nên thơ và cảm động. Dân gian vẫn truyền nhau câu chuyện nàng thôn nữ Chiêm Sơn. Chúa thợng Nguyễn Phớc Lan lúc còn trẻ sống với cha là Thụy Quận Công đang trấn thủ Quảng Nam, tại dinh trấn Thanh Chiêm. Vào một đêm trăng, công tử Nguyễn Phớc Lan cùng cha thả thuyền rong chơi trên dòng Thu Bồn. Giữa đêm trăng thanh vắng bỗng có tiếng hát véo von từ một nơng dâu vọng lại. Thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh điện Châu. Và dới bãi dâu xanh nhuộm ánh trăng vàng, Nguyễn Phớc Lan - sau này là Chúa thợng, đã bàng hoàng trớc sắc đẹp của cô thôn nữ họ đoàn, ngời huyện Tiên Phớc, thuộc phủ điện Bàn. Chúa cho rớc về cung và cô hái dâu họ đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phớc Tần tức chúa Hiền.
Hiện nay, ở Chiêm Sơn (Duy Xuyên), về phía Tây Gò Cốc Hùng, còn có lăng Vĩnh Viễn, thờ bà Hiếu Chiêu hoàng hậu.
Dòng sông Thu Bồn cũng sâu sắc lắng đọng trong ký ức và tình cảm của nhiều văn sĩ đất Quảng.
Trong bài thơ "Từ vùng đất quê hơng", nhà văn Nguyễn Văn Bổng viết về dòng sông Thu Bồn: "Từ làng tôi đi Hội An thì buổi chiều ra bến trên sông Thu Bồn, xuống đò. Tối, đò nhổ, rời bến, lúc chống chèo, lúc căng buồm chạy phăng phăng trên mặt nớc. Nửa đêm thức giấc, chập chờn trong tiếng hò. Tiếng hò văng vẳng đâu sau lái đò mình; ơi ới trên những chiếc khác cùng xuôi dòng sông, giọng nam nữ đối đáp nhau vang vọng giữa trăng nớc...
Sáng hôm sau mở mắt, đò đã cắm sào bến Hội An. Hai bên sông, bên này thị xã, bên kia Cẩm Phô, tiếng gà gáy. Trên mặt nớc và đờng phố tiếng rao cháo hến, khoai Tiên đỏa, mì Quảng, bánh mì mật nạm (sốt vang)". Con sông Thu Bồn có màu nớc trong xanh, có bãi dâu bạt ngàn, có núi Thạch Bích, có nhiều câu hò, câu hát.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), sông Thu Bồn là một ranh giới: Hữu ngạn trở lên phía Tây là vùng tự do; tả ngạn về phía đông là vùng tạm chiếm. Biết bao cuộc chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp và xâm lợc Mỹ đã diễn ra hai bên bờ và ngay cả trên sông này.
Không kể bao nhiên chiến sĩ cách mạng, bao nhiêu bộ đội, dân quân du kích, những ngời dân thờng yêu nớc đã vĩnh viễn nằm lại trên những mảnh đất gắn bó với dòng sông. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các văn nghệ sĩ đã từng gắn bó với đất Quảng rất đau xót và trân trọng nhắc lại những đồng đội của mình đã ngã xuống ở hai bờ sông Thu Bồn thời chống Mỹ: Cô diễn viên múa Phơng Thảo nói giọng Hà Nội, đẹp và trẻ trung, năm 1966 đã bị một mảnh pháo rất nhỏ của kẻ thù đâm vào ngực, đúng giữa tim. Mộ chị nằm ở thôn La Tháp, xã Xuyên Thanh, huyện Duy Xuyên, nơi con sông Thu Bồn rẽ đôi dòng, giang hai cánh tay đầy sinh lực bọc một hòn đảo lớn - khu Gò Nổi.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài "Chiến trờng những năm tháng ấy, sống và viết" - đã phát họa những dòng cảm động: "Nh là sự sắp xếp lạ lùng của cung, những anh chị em làm văn học nghệ thuật đồng nghiệp, đồng đội, đồng chí chúng tôi đã hy sinh suốt cuộc chống Mỹ trên chiến trờng Quảng Nam, tất cả đều nằm lại dọc hai ven bờ sông lớn Thu Bồn, từ ngọn nguồn cho đến nơi sông gặp biển. Tởng nh là họ cố tình đem xơng thịt mình góp nên phù sa màu mỡ cho đồng ruộng Quảng Nam hôm nay. ở đầu nguồn là nhà thơ trẻ Nguyễn Mỹ, ngời Phú Yên, Nguyễn Mỹ của "Cuộc chia li màu đỏ". Anh hy sinh ven bờ suối nớc Oa trong một trận chống càn. ở cuối sông là cô gái Hà Nội Dơng Thị Xuân Quý. Chị nằm ở nơi quanh năm lồng lộng gió mặn biển đông. Giữa họ, nh một sợi dây nối dài là họa sĩ trẻ Hà Xuân Phong, Chu Cầm Phong, Phơng Thảo, Nguyễn Trọng định, Nguyễn Hồng, Văn Cận, Trần Văn Anh... Và gần hết một đoàn văn công Quảng đà hy sinh mấy ngày trớc chiến dịch Xuân Mậu Thân (1968)".
Biết bao con ngời đợc nhân dân kính yêu từng gắn bó với dòng sông Thu Bồn nh Hoàng Diệu, nh Trần Cao Vân, nh Trần Thị Lí ...
Những con ngời ấy trở nên bất tử. Còn dòng sông Thu Bồn thì mãi mãi tơi đẹp, nh một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng.
********************************
Mình chưa bao giờ vào Đà nẵng, bạn nào vào rồi có cái gì hay kể cho mọi người nghe với.
Chỉnh sửa lần cuối: