ĐIỀU GIẢN DỊ (CUỘC ĐỜI VẪN ĐẸP SAO, TÌNH YÊU VẪN ĐẸP SAO)

Phạm Quang Minh
(Minh172)

New Member
"Ông vua" đi xe lăn và chuyện tình của người con gái xứ Nghệ

Mười năm về trước, người dân thôn Thủy Trạm, xã Sơn Thủy, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ nhìn anh bằng ánh mắt yêu thương đối với một người lính - một thương binh 1/4. Bây giờ, mọi người nhìn anh với ánh mắt thán phục. Anh đã là một... "ông Vua" nổi tiếng khắp miền trung du. Mọi người gọi anh là "vua trà my xứ bắc"...

Từ lúc chỉ có hai bàn tay trắng và chiếc xe lăn cho đến cơ nghiệp bề thế hôm nay, trong suốt hành trình của anh đều có bóng dáng một người con gái. Thuyết phục mãi, Nguyễn Đăng Ninh mới kể lại hành trình trở thành "vua" của anh và chuyện tình đẹp của chàng trai miền trung du với cô gái xứ Nghệ.


Trở thành... "vua" từ đôi bàn tay và chiếc xe lăn

Anh sinh năm 1961 tại vùng quê miền núi Thanh Thủy, Phú Thọ. Đầu năm 1980 Nguyễn Đăng Ninh lên đường nhập ngũ tại quân khu 2. Cuối năm 1982, Ninh bị thương trong khi đang làm nhiệm vụ tại biên giới phía bắc của Tổ quốc. Chấn thương cột sống đã làm đôi chân của anh liệt hẳn. Gần 10 năm điều trị, an dưỡng ở các bệnh viện lớn, các khu điều dưỡng, ước vọng được đứng, được đi bằng chính đôi chân mình của Ninh đã không thành hiện thực. Đầu năm 1993, anh rời khu điều dưỡng thương binh nặng K5 về quê sinh sống với gia đình. 10 năm nằm viện và an dưỡng phải ngồi một chỗ đã nung nấu một ý định to lớn và táo bạo trong con người Ninh mà sau này chính anh cũng không ngờ nó đã đem lại thành công cho mình. Đó là quyết tâm làm giàu. Anh đã đau đáu nghĩ về nó, trăn trở về nó suốt 10 năm trời trên chiếc xe lăn của mình.

Mọi người động viên anh, bản thân Ninh cũng tự động viên mình. Ước mơ ngày càng khát khao, càng cháy bỏng lớn dần theo thời gian. Và Nguyễn Đăng Ninh đã làm giàu bằng hai bàn tay còn lành lặn và một khối óc thông minh, một con tim nóng hổi cùng chiếc xe lăn cũ kỹ...

Sẵn bản tính tự lập và quyết đoán, anh xoay xở làm nhiều nghề để kiếm tiền. Bà con thôn Thủy Trạm còn nhớ ngày ấy, anh thương binh Nguyễn Đăng Ninh tất tả ngược xuôi đầu chợ cuối xóm mua hàng trên chiếc xe lăn. Mưa, nắng, giá, rét... người thương binh trẻ vẫn lầm lụi vượt những con đường gồ ghề chốn quê Thanh Thủy và "vượt" qua số phận éo le bằng hai bánh xe lăn. Đôi chân tàn phế nhưng đôi tay của Ninh ngày càng rắn chắc. Đôi bàn tay quay bánh xe lăn, đôi bàn tay nâng giấc mơ làm giàu và nâng niềm khát khao mãnh liệt trong con người Nguyễn Đăng Ninh khi ấy.

Đầu tiên, anh mở quán bán hàng khô, sau khi tích cóp được chút vốn anh đầu tư vốn mua máy làm kem, làm đá lạnh bán cho bà con trong xã. Một lần tình cờ trong thấy cây hoa trà my của người quen, Nguyễn Đăng Ninh nảy ra ý định sẽ ươm giống trà my để bán. Không ngại khó khăn, trên chiếc xe lăn của mình, anh đã lặn lội đến nhiều nơi quanh vùng tìm hiểu về giống hoa trà my. Bánh xe lăn của thương binh Nguyễn Đăng Ninh không ngày nào không in dấu trên các nẻo đường quê Thanh Thủy.

Ban đầu, thấy Nguyễn Đăng Ninh lập vườn ươm cây cảnh, nhiều người đã không khỏi ái ngại cho anh. Họ không dám tin một người thương binh nặng, không thể đi bằng đôi chân của mình lại làm được một điều gì đó phi thường ở một vùng quê miền núi này. Thực ra, họ không tin cũng là điều dễ hiểu. Làm cây cảnh là cả một nghệ thuật, nghề bonsai là một nghề khó thành đạt, có người làm cả đời mà vẫn chưa hết. Đằng này, Nguyễn Đăng Ninh lại bắt đầu vào nghề chỉ bằng hai bàn tay chai sạn sương gió cùng đồng vốn eo hẹp. Anh không có một chút kiến thức nào về cây cảnh. Hơn nữa, Sơn Thủy là mảnh đất miền núi, người ta lo bữa ăn còn chưa xong ai dám tính đến chuyện mua hoa về ngắm. Ninh nghe hết tất cả các ý kiến đó. Anh đã nghĩ tới những gì có thể xảy ra với mình trên bước đường sắp tới. Càng nghĩ, ước mơ làm giàu càng thôi thúc Ninh. Anh có nhiều lý do phải thực hiện ước mơ mà không được đầu hàng.

Ninh được bố mẹ, người thân tán thành, động viên. Cả nhà dồn tiền của và công sức vào vườn ươm trà my. Trên chiếc xe lăn, anh nặng nhọc tới các vùng xung quanh học hỏi kinh nghiệm và tìm hiểu thị trường trà my, cây cảnh. Đêm ngày anh cặm cụi với từng luống trà my. Bất kể nóng bức hay mưa dầm, bà con thôn Thủy Trạm vẫn thấy chàng thương binh đẹp trai Nguyễn Đăng Ninh lăn lộn ngoài vườn. Từng giọt mồ hôi, từng lá trà my đã lặng lẽ đổ xuống chiếc xe lăn của anh. Cả vườn trà my in dấu vệt bánh xe lăn. Mồ hôi, nước mắt của anh đổ xuống thành cây và thành hoa.

Dày công tìm hiểu, Nguyễn Đăng Ninh chọn mua được ba giống cây trà my quý. Một cây bát diện đỏ thẫm, một cây bát diện đỏ hồng có 8 nhụy hướng về 8 hướng và một cây trà my trắng muốt không nhụy. Người già, người sành bonsai ở Thủy Trạm ai trông thấy cũng thích ba cây trà my giống của Ninh. Mỗi cây đều đã được gần 60 năm tuổi và là loại quý hiếm, không phải ai chơi trà my cũng có dịp gặp.

Cuối năm 1993, Ninh bắt đầu thu hoạch trà my. Lúc đầu chỉ là người khá giả trong làng mua, sau đến người trong xã, trong huyện, tỉnh và các nơi khác. Nhà anh dập dìu khách đến. Năm đầu thu hoạch kết quả đạt được ngoài mong đợi nhỏ nhoi của Ninh. Năm sau, Nguyễn Đăng Ninh quyết định đầu tư một cách "mạnh tay" hơn vào trà my. Cây trà my như có duyên với anh, có duyên với đất Thủy Trạm. Từ năm 1994 đến nay, "tiếng lành đồn xa", khách từ Hải Phòng, Hà Nội, Thái Bình, Hà Nam… vẫn đều đều đánh ôtô lên nhà anh chở trà my về xuôi. Có chút lời nào Ninh đều dồn hết vào trà my. Anh nâng dần diện tích vườn ươm lên. Không những trà my, lúc này anh còn ươm cả trúc mây. Năm 1995, anh đã có hai vườn ươm với diện tích 7 sào chuyên ươm trà my và trúc mây, thu nhập mỗi năm đạt 60-70 triệu đồng.

Không dừng lại ở đó, năm 1996 Nguyễn Đăng Ninh quyết định làm thêm nghề ươm nuôi giống cá và ba ba. Người dân Sơn Thủy đã nhìn anh với một con mắt khác. Khi bắt tay vào làm giống cá và ba ba, nhiều người khuyên Ninh cẩn thận vì họ cho rằng anh khó cạnh tranh được với những trại cá nổi tiếng khác như Đồng Mô, Vĩnh Tường... Nguyễn Đăng Ninh vẫn quyết tâm làm. Một lần nữa anh đã thành công. Hiện nay trại cá của Ninh có 6 mẫu ao, bốn bể ấp trứng cá với khoảng 5-6 tấn cá bố mẹ, 20 cặp ba ba giống và trên 1.000 con ba ba thịt.

Trong tay Nguyễn Đăng Ninh hiện giờ đã có 4 vườn ươm hoa trà my. Trước đây chỉ có trà my trắng, trà my đỏ, bây giờ anh đã sưu tầm được giống trà my lựu, trà my phấn Nhật, hải đường... Mỗi năm, trừ tất cả các chi phí Ninh thu được hơn trăm triệu đồng tiền lãi. Những đồng tiền kết tinh từ bao giọt mồ hôi mặn chát, những đêm ngày trăn trở, lo toan. Một thành quả mà khi mới ở trại an dưỡng về với hai bàn tay và chiếc xe lăn anh không không bao giờ dám nghĩ tới.

Anh đã thành một ông chủ, thành một "ông vua trồng trà my đất bắc", với tài sản đã lên đến hàng trăm triệu đồng. Trong ngôi nhà hai tầng sang trọng nằm lặng lẽ bên con đường liên xã, người dân Thủy Trạm vẫn thấy Ninh một bóng đi về mà không đả động gì tới chuyện vợ con. Ông chủ đẹp trai và giàu có với 4 vườn ươm trà my lớn có thời là niềm mơ ước của nhiều cô gái vùng núi Sơn Thủy, cho dù anh là một thương binh liệt cả hai chân. Đó là điều thầm kín mà ngoài Ninh và một người con gái ở xứ Nghệ ra không ai có thể biết được...


Chuyện tình của cô gái xứ Nghệ

Ngược dòng thời gian, vào đầu năm 1982, khi Nguyễn Đăng Ninh bị thương phải vào viện vào viện quân y viện 109. Đang là lính lái xe, bôn ba trên mọi nẻo đường, giờ phải vào nằm một nơi Ninh buồn rười rượi. Thời gian đầu anh chỉ ngồi một chỗ, sau được mọi người động viên, anh mới bắt đầu đi lại bằng xe lăn quanh viện quân y. Một lần, đang trầm ngâm nơi khuôn viên của viện, mắt Ninh chạm phải một ánh mắt rất đẹp của một nữ đồng đội cũng đang điều trị tại đây. Hồi còn trai trẻ, Nguyễn Đăng Ninh có thể nói là đẹp trai nhất đơn vị, khi vào viện quân y anh cũng… nhất luôn, nên chuyện các cô gái trẻ, các đồng đội nữ quý mến là bình thường. Từ hôm gặp ánh mắt của cô gái miền trung, không đêm nào anh không nghĩ về cô. Cái sự "hữu duyên" đã cho Nguyễn Đăng Ninh gặp cô gái có đôi mắt đẹp đó. Chị là Trần Thanh Huyền, một cô gái gốc thành phố Vinh. Họ đã yêu nhau ngay từ ánh mắt đầu tiên. Hình như họ sinh ra để yêu nhau, để đến với nhau. Quãng thời gian điều trị ngắn ngủi ở Viện của chị cũng đủ để tình yêu của họ say men nồng cháy.

Trước khi đến với Nguyễn Đăng Ninh, chị Trần Thanh Huyền là công nhân quốc phòng trung đoàn 259, bộ tư lệnh công binh. Khi đang lao động tại công trường xây dựng sân bay Nội Bài, chị bị xà beng va vào tay phải vào viện quân y chữa trị và chị đã gặp anh. Một bức tranh đẹp về người lính, về tình đồng chí, tình yêu của một đôi trai gái còn được nhiều bác sĩ, bệnh nhân viện quân y 109 nhớ đến bây giờ. Trong khuôn viên của viện, mọi người thường thấy cô gái xứ Nghệ đẩy xe lăn cho chàng trai miền trung du. Chị chăm sóc anh với tất cả những gì yêu thương nhất. Ninh không ngờ con gái miền trung lại khéo léo đến thế. Anh luôn nghĩ nếu như còn lành lặn trở lại, nhất định sẽ đưa chị về nhà giới thiệu với gia đình mình.

Bị thương nhẹ hơn nên chị Trần Thanh Huyền được xuất viện trước anh Ninh. Mới yêu nhau mà đã phải xa nhau. Người đi, người ở đều có một khoảng trống lớn trong lòng. Nhất lúc này nguồn động viên lớn của anh là Huyền. Trước khi trở lại đơn vị, chị đến thăm anh luôn, hai người hứa hẹn sẽ tìm về với nhau. Trước khi chia tay chị động viên anh nhiều lắm. Anh hiểu rằng, dù đôi chân có bị làm sao thì anh vẫn còn đôi tay khoẻ mạnh, có khối óc, có trái tim nguyên vẹn và có tình yêu nồng cháy của chị bên cạnh. Nguyễn Đăng Ninh đã không bi quan. Một cuộc chia tay bằng nước mắt, sự lưu luyến diễn ra trong một chiều đông lạnh giá.

Sau này khi biết đôi chân mình không thể trở lại như bình thường, anh đã suy nghĩ rất nhiều xem có nên gặp Huyền nữa không. Đó là những tháng ngày Nguyễn Đăng Ninh sống trong trăn trở và tiếc nuối. Tình yêu của anh và Huyền mới chớm nở, đang đẹp và có nhiều hứa hẹn. Thế rồi, Ninh đã quyết định sẽ không gặp người yêu nữa. Bây giờ anh đã là người tàn tật, anh không muốn chị bị thiệt thòi. Mấy tháng liên tiếp nhận được thư chị gửi nhưng anh không hồi âm. Anh càng không hồi âm chị lại càng viết. Lúc đầu tuần một lá, sau mỗi ngày chị viết một lá. Anh vẫn không hồi âm...

Khi đã trở thành một ông chủ trẻ nổi tiếng cả vùng, thành một ông vua về hoa trà my, nhiều lúc Nguyễn Đăng Ninh cũng tự nhìn lại cuộc sống độc thân của mình. Những lúc như thế, anh lại càng nhớ chị đến cháy lòng. Đã có lúc anh ngồi viết thư báo cho chị biết thành quả của mình gây dựng nên từ hai bàn tay chai sạn và chiếc xe lăn cọc cạch nhưng bao đêm anh ngồi trước bàn cứ viết rồi lại vò lá thư đi. Anh không muốn chị bận lòng vì lá thư hồi âm sau bao năm bặt vô âm tín của mình.

Một sự ngẫu nhiên đã giúp họ được đoàn viên sau nhiều năm bặt tin nhau. Sau khi xuất ngũ, chị Huyền trở về thành phố Vinh và vào làm việc ở nhà khách ủy ban nhân dân tỉnh. Sau nhiều lần viết thư cho anh mà không nhận được hồi âm, tuổi không còn trẻ nữa mà chờ đợi, chị đã lên xe hoa với một người khác. Do không hợp nhau, tháng 10/1997, chị đã ly hôn và sống một mình.

Tháng 3/2000, trong một buổi gặp mặt bạn đồng ngũ năm xưa, mọi người có nhắc đến một ông chủ thương binh ở vùng quê trung du trồng hoa trà my nổi tiếng. Như một luồng điện chạy qua người, chị linh cảm đó là anh. Những ngày sau đó chị đứng ngồi không yên với ý nghĩ tìm lại được anh. Chị đến thư viện thành phố Vinh tìm tờ báo Nhân Dân có bài báo mà mọi người nhắc đến. Hồi hộp và âu lo. Chị vừa mong đó là anh mà lại vừa mong đó không phải là anh. Chị đã nức nở khóc giữa thư viện khi "ông chủ" đó chính là anh, nhà triệu phú ngồi xe lăn Nguyễn Đăng Ninh. Chị khóc còn vì mừng cho anh đã làm được điều phi thường mà ngay cả chị cũng không ngờ được. Chị khóc, chị thương vì Ninh vẫn cô đơn, vẫn chờ đợi và vẫn lặng lẽ tối ngày cùng chiếc xe lăn.

Một lá thư dài chan chứa yêu thương để chia sẻ cùng anh được chị gửi ngay sau đó. Đọc thư xong, anh quyết định vào Vinh bằng chiếc xe ba bánh gắn máy mới tậu được. Ai cũng kinh ngạc khi biết tin này. Cả gia đình không ai đồng ý với quyết định liều lĩnh đó và ra sức can ngăn. Một chặng đường trên 400 km, ngay cả đến người khỏe mạnh, bình thường nhiều khi còn không dám đi. Nguyễn Đăng Ninh vẫn quyết định đi. Sau hai lần nổ lốp xe và một lần trục trặc về máy móc anh vào đến thành phố Vinh và đi thẳng đến nhà khách ủy ban nhân dân tỉnh. Còn Huyền, chị đã không tin vào mắt mình khi thấy Ninh xuất hiện trước mặt. Bụi đường phủ kín từ đầu đến chân Ninh. Anh vẫn rắn rỏi như thủa nào. Mấy phút trôi qua, chị mới ào tới ôm chặt lấy anh. Nước mắt chảy ướt vai áo anh. Nguyễn Đăng Ninh cũng ôm lấy chị thật lâu như sợ lại mất chị lần nữa.

Cảm động trước tình yêu và lòng của Huyền dành cho mình nhưng Ninh vẫn sợ chị khổ, anh giao hẹn hai người ra Hà Nội kiểm tra, nếu anh không còn khả năng sinh con thì sẽ không có chuyện kết hôn. Kết quả kiểm tra cho thấy Nguyễn Đăng Ninh vẫn có khả năng làm bố. Khi anh đem chị về Sơn Thủy và tổ chức đám cưới ai cũng mừng cho "ông vua" sau nhiều năm một mình đã tìm được... "hoàng hậu".

Một năm sau ngày cưới, chị Huyền sinh cho anh đứa con trai đặt tên là Nguyễn Phú Vinh để kỷ niệm hai quê hương Phú Thọ và Vinh.

Nguyễn Đăng Ninh kể về chuyện làm ăn, chuyện tình của mình trong lúc dùng xe ba bánh đưa tôi đi thăm những vườn ươm. Đứng dưới cơ man là trà my bên dòng sông Đà hùng vĩ, bỗng nhiên anh trầm hẳn xuống. Anh nói thật nhỏ trong tiếng nước dòng sông Đà cuốn chảy: "Tôi nghiệm thấy một điều, trên đời này không có tình yêu thì chúng ta sẽ không làm được điều gì hết". ;)


*******************************************

Câu chuyện của anh Ninh kết thúc có hậu phết, dù là cũng phải "hi sinh" nhiều thứ, nhưng mà đó là sự hi sinh có ý nghĩa, mà thế nó mới giống đời thường chứ không nó thành cổ tích phỏng các bác :D...

Nếu có 3,4 người hứng thú thì hè này lên đó mua trà my với cá basa, xem người thực việc thực :D.... Phú Thọ cũng không xa Hà Nội lắm... hoanlachoi có đi không? nếu đi Minhbe tìm địa chỉ và hẹn trước..:D..
 
Tiếc thay một khóm trà mi
Quang Minh đã tỏ đường đi lối về

:)

(thơ dự định làm sau khi hoanlachoi cùng Minhbe lên thăm vườn trà mi của đồng chí Ninh)

Em không thích cá ba sa lắm, nhưng hoa cỏ tao nhã núi Tản sông Đà cũng thích. Bác Minh hôm nào đi cho em bám càng em về em viết phóng sự cho.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Hoa Trà My có phải người ta vẫn thường gọi là hoa Trà không nhi? Nếu thế thì hoa trà hơi bị đắt đấy... có những cây vài triệu...cái cây 60 năm tuổi của anh Ning chắc vài chục triệu cũng không bán.

Hoa trà rất khó chăm, muốn lá bóng đẹp thì phải lau bằng nước chè tươi, với lại cây hoa trà không ưa nước lắm, tưới nhiều nước là chết ngay...

Tuy rằng hoa trà rất đẹp (đẹp hơn hoa hồng) nhưng mà Nguyễn Khuyến có viết hai câu về cây hoa trà.

" Xem hoa ta chỉ xem băng mũi
Đếch thấy hơi hương một tiếng khà..."

Tớ cũng xin tham gia với các đồng chí...3 người nhé :D...
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên