Đường mòn lên miền Oku

Đinh Trần Phương
(Dinh_Tran_Phuong)

New Member
Basho và "Đường mòn lên miền Oku"


Lời giới thiệu:


Basho (1644 - 1694)

Basho là một thi sĩ – người hành hương danh tiếng sống ở Nhật vào thế kỷ 17. Basho là bút danh. Thực tế, đây là bút danh thứ ba của ông. Dưới những vần thơ đầu tiên, ông ký là Munefusa. Mười năm sau, ông chọn cái tên Tosei, có nghĩa là “Đào xanh”, để tỏ lòng ngưỡng mộ nhà thơ Trung Hoa đời Đường danh tiếng Lý Bạch (705-762), có nghĩa là “Mận trắng”. Mãi cho đến năm 36 tuổi, khi đã là một nhà thơ có tiếng và nhiều người theo học, ông mới đổi bút danh là Basho.

Một học trò mang đến cho ông một cây lạ nhập giống từ xứ Trung Hoa. Đấy là cây chuối, giống chuối tiêu. Và ngay tức thì, nhà thơ say mê nó. Ông bị những tàu lá dài và rộng kia quyến rũ, tàu lá “đủ lớn để che cho một ẩn sĩ”. Trong cơn gió, tàu lá kia rách tướp gợi cho ông nghĩ đến cái đuôi loài phượng hoàng trong huyền thoại, hoặc một chiếc quạt màu xanh tả tơi vì gió. Ông viết: “Tôi thích được ngồi dưới gốc cây chuối của tôi và lắng nghe thanh âm của gió, của mưa vang lên phía trên tàu lá”. Ông chăm chút cho cội cây xứ lạ và gắng bảo vệ nó trước sự xâm lấn của bao loài cây cỏ khác.

Bực mình làm sao
cây sậy đâm ngang
lúc tôi vun gốc chuối!




Không một thân bìm bìm hoa tía hoang nào
bò ngoằn ngoèo
là bạn của tôi!



Trong tiếng Nhật, tên cây chuối là Basho, và không lâu sau, các học trò đã gọi nơi ẩn cư quạnh vắng của ông là Basho-an, Lều cây chuối, hay Am Ba tiêu. Còn cái tên nào thích hợp cho ông lấy làm bút danh hơn tên loài cây ông yêu mến? Họ của Basho là Matsuo. Ông sinh năm 1644, là con trai út thứ bảy của một samurai phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một ngôi thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Lên chín, Basho trở thành tiểu đồng và bạn học của người con trai cả lãnh chúa, một cậu bé thanh nhã, mười một tuổi, rất có tài làm thơ. Họ cùng nhau học nghệ thuật thơ từ thầy Kigin (1624-1705), một nhà thơ nổi tiếng của thành Kyoto và là học trò của bậc thầy vĩ đại thơ hakai Teitoky (1570-1653). Hai cậu bé này trở thành đôi bạn chí tình.

Năm Basho tròn 22 tuổi, người bạn quý tộc và cũng là chủ của ông qua đời. Trái tim tan nát, Basho được cử tới núi Koya mang theo mái tóc của người bạn quá cố đặt vào tu viện Phật giáo ở đây để thờ cúng. Đó là chuyến hành hương đầu tiên của ông. Và ở đó, giữa những ngôi chùa, những ngôi mộ, trong thẳm sâu của khu rừng thông khổng lồ linh thiêng, nhà thơ trầm tư về sự ngắn ngủi của đời người, về cái uyên nguyên vốn có trong vạn vật và được phản chiếu đặc biệt rõ nét trong vòng quay của tự nhiên. Ông quyết định rời thành Ueno, dâng mình cho thi ca và sự thưởng ngoạn. Ông cũng muốn rời xa ánh mắt của người phụ nữ goá bụa xinh đẹp trẻ trung, vợ người bạn quý tộc đã khuất, người ông đã thầm yêu và cũng hiểu chẳng có gì tốt đẹp đến từ chuyện đó cả.
Nhà thơ trẻ lên Kyoto xin thầy Kigin tiếp nhận vào nhà như một đệ tử –người giúp việc. Basho ở lại Kyoto 5 năm, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Trung Hoa, thư pháp cũng như thơ. Một câu chuyện tình bất thành khác đã chỉ cho ông con đường ẩn tu và trở thành một thiền sinh. Thế rồi năm 1672, ông theo Kigin đến Edo (ngày nay là Tokyo), nơi mà một shogun có lời triệu tập. Và chàng thanh niên 28 tuổi Basho đã một lòng một dạ thực hành Zen dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Butcho. Thời kỳ này, thơ của Basho được lấy cảm hứng rất nhiều từ Trang Tử. Điển hình như bài thơ dưới đây:

Chân sếu dài
bỗng ngắn lại
dưới cơn mưa


Samidare ni
tsuru no ashi
mijikaku nareri


Bài thơ đầu tiên của ông xuất hiện năm 20 tuổi, còn lúc này nhà thơ 36 tuổi. Ông đã cho ra đời một số lớn những bài thơ và hợp tuyển, đã có một nhóm học trò tận tâm. Năm đó, một học trò trong số họ làm nghề buôn cá giàu có, tên là Sampu, đã dựng cho Basho một mái lều nhỏ như của người tuần canh trên bờ sông Sumida. Cái lều sau được biết đến như Am Ba tiêu. Năm sau, Basho cho in một tập thơ như bước đi mở đầu một thời kỳ mới.

Cành cây trơ trụi
bóng tối mùa thu thẫm dần
một con quạ đơn độc!


Kare eda ni
karasu no tomari keri
aki no kure


Bài thơ này đã đánh dấu sự khởi đầu phong cách thơ riêng biệt của ông. Không có gì bị sắp đặt, không chữ nghĩa. Không thử tỏ ra thông minh. Đơn giản và khiêm tốn, những dòng thơ là một quan sát thiên nhiên tinh tế, trầm lặng. Hoàn toàn khách quan, bài thơ lộ ra vẻ u buồn sầu thảm một tối mùa thu cùng những thì thầm của nó về tuổi già và cái chết mà tuyệt đối chẳng phải nói ra như thế.
Ở Basho, con mắt quan sát thiên nhiên thuần tuý và con mắt nhìn vào bên trong đã đạt đến độ sâu sắc đỉnh điểm trong những bài thơ ông cho in 5 năm sau đó (1686) ở một tuyển tập gồm cả thơ của ông và những học trò. Tập thơ có nhan đề “Những ngày Xuân”.

Ao cũ
một con ếch nhảy vào
âm thanh của nước!


Furuike ya
kawazu tobikomu
mizu no oto


Trên bề mặt, bài thơ này chỉ đơn giản vẽ nên một bức tranh đẹp, hoàn chỉnh với những hiệu quả của âm thanh. Nó đưa người ta đi trong trí tưởng tượng đến với những lớp mái của một ngôi đền ở Kyoto, và có lẽ đang ngắm từ trên cao xuống một khu vườn cảnh đã hàng trăm tuổi cùng một cái ao rêu phủ kín bờ. Rồi thốt nhiên, người ta nghe thấy p-lop, tiếng một chú ếch nhảy xuống mặt nước đen thẫm trong một buổi chiều xuân yên tĩnh. Rồi quá trình liên tưởng khởi từ bài thơ cứ tiếp tục. Cái ao có thể là Vĩnh cửu, là Thượng đế, hoặc Chân lý tối hậu về vũ trụ và con người. Còn chúng ta, những con người trong vòng sinh tử, với những công việc của chúng ta, những tưởng tượng của chúng ta, bất chợt thể nhập vào cái vô cùng, như con ếch đang nhảy vào ao, làm nước toá lên trong khoảnh khắc, những gợn nước lan toả thành vòng tròn rồi mất hút…

Basho luôn khâm phục các “nhà thơ phiêu lãng” như Lý Bạch và Đỗ Phủ xứ Trung Hoa, hay như Sogi và Saigyo của Nhật. Ông muốn làm những cuộc hành hương tìm thi hứng của riêng mình. Và trên đất Nhật, ông đã đi không phải một mà nhiều cuộc hành trình, luôn luôn cùng với một hoặc hai người học trò. Năm 1684, đầu tiên là một cuộc tiêu dao tới Ise theo hướng ngôi nhà cũ của ông ở Ueno, được kể lại trong cuốn Nozarashi Kiko – “Chuyến du hành lộng gió”. Người mẹ của ông đã mất năm trước đó, nhưng Basho vì quá nghèo đã không thể về dự đám tang. Sau này, trong chuyến đi của mình, ông dừng chân ở Ueno một vài ngày, gặp lại anh em, và một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông ra đời :

Nếu tôi hứng trên tay
em sẽ tan trong lệ nóng
ôi! hạt sương thu


Te ni toraba
kien namida so atsuki
aki no shimo


Sau đó ông xuôi theo dòng sông Tone tới “thị trấn nước” Kashima gặp người thầy cũ – thiền sư Butcho, và kết quả là cuốn Kashima Kiko ra đời. Ông cũng đến thăm những cây anh đào trứ danh ở Yoshino gần Kyoto khi thăm lại thành Ueno và người con của vị quý tộc, bạn cùng học đã quá cố, mời tới tham dự bữa tiệc thưởng hoa anh đào trên mảnh đất quê hương xưa.

A! ký ức kỳ diệu
vô vàn cảm xúc ngày qua
nhờ anh đào sống dậy!



Năm 1687, ông tới thăm núi Koya lần thứ hai khi đang trên đường đến bãi biển Suma ở Akashi và Waka-no-Ura, đồng thời viết cuốn Oi-no-Kobumi, “Ghi chép trên tay nải người hành hương”. Sau đó, Basho tiếp tục đi đến núi Obasute, nơi người ta thường đem bỏ các bà cụ già (phong tục cổ vùng này) và viết cuốn Sarashina Kiko. Sau cuộc hoả hoạn năm 1682 thiêu rụi cái am Cây chuối yêu quý của ông, và mặc dầu bạn bè đã xây lại một cái am khác, nhà thơ ngày càng thấu rõ tính hư ảo của cõi vô thường. Đi phiêu bạt trở thành một lẽ sống đời ông. Ông hướng tới con đường rộng mở phía trước theo tinh thần Phật giáo, tức là cuộc sống tự nó là một chuyến du hành, một cuộc đi tiếp của người hành hương. Trên cái mũ rộng vành đan bằng cây lách, ông viết một câu đề từ: “Không nhà cửa giữa trời đất, hai bạn cùng du hành”, hàm ý: “Tôi phiêu bạt không nhà cửa, bạn cùng trời cao”.

Cuộc hành trình nổi tiếng nhất của Basho, chuyến đi dài nhất, được thực hiện vào năm 1689. Lúc đó ông đã 45 tuổi. Lộ trình hướng về Michinoku (thường gọi tắt là Oku), nằm ở tỉnh cực bắc của Honsu (nay gọi Aomori). Chuyến đi này là một việc đầy khó khăn và hiểm nguy. Nhà thơ cùng người học trò của ông Sora đi bộ là chủ yếu. Các thi sĩ tiền bối như Sogi (1421-1502) và Saigyo (1118-1190), vài trăm năm trước đó đã từng bước trên những khúc đường này. Chính khát vọng noi theo những bước chân của họ đã thôi thúc Basho lên đường trong cuộc hành trình gian nan của chính ông. Ông muốn tự mình thưởng ngoạn những nơi mà thơ của họ đã nhắc đến. Những nhà thơ nổi tiếng khác cũng từng tới vùng đất xa xôi kia. Thậm chí vài người trong số họ còn bị đi đày vì lý do chính trị.

Cuộc hành trình này dài 5 tháng. Thỉnh thoảng ông phải dừng lại bên đường vì bệnh tật hành hạ, và tất cả được miêu tả trong cuốn Oku-no-Hosomichi, “Đường mòn lên miền Oku”, một kiệt tác trong thể loại nhật ký phiêu du văn xuôi và thơ của ông.
Trước khi lên đường, Basho đã bán căn lều của mình, khởi hành vào vĩnh cửu, có thể nói như vậy. Ông thực sự không mong chờ còn sống để trở về. Giờ đây, sau cuộc hành trình lên phương Bắc, hai năm trời ông sống lang thang trong các căn lều mùa Hạ mà đệ tử cho mượn. Ông ở lại vài tháng ở Genju-an, Am phù du, thuộc vùng Omi, sau đó tại Mumei-an, Am vô danh, thuộc Otsu. Cả hai am này đều nằm trên dải bờ tuyệt đẹp của hồ Biwa. Ông cũng ở lại Rakushi-Sha, Ngôi nhà quả hồng rụng, gần Kyoto. Năm 1692, các học trò dựng cho ông một Basho-an mới trên bờ đê dòng sông Sumida, rất gần cái am cũ, và trồng trong vườn không phải một mà những năm cây chuối.

Năm 1694, Basho lại lên đường ra đi một lần nữa. Lần này ông định đi bộ xuống các tỉnh miền Nam, xa mãi tận hòn đảo lớn Kyushu. Nhưng than ôi, ông chẳng vượt quá Osaka, nơi bệnh kiết lỵ nặng đã quật ngã thi sĩ ở tuổi 50. Ông được chôn cất tại một ngôi chùa nằm cạnh Am vô danh miền Otsu, quay mặt ra hồ Biwa, cái hồ ông hằng yêu mến.




***



Basho thức dậy khi trời còn tối. Tuy sớm vậy, nhưng ông biết hôm nay là một ngày đẹp trời. Đó là mùa xuân năm 1689. Ở Ueno và Yanaka, những cây anh đào đã nở đầy hoa, mọi người sẽ sớm đi dạo dưới những tán hoa, những đôi tình nhân thì thầm, cũng có thể chẳng cần nói một lời nào. Nhưng lúc này, hoa đào nở không phải mối quan tâm của Basho. Ông đã mơ ước từ lâu được băng qua Shirakawa, đến những cao nguyên phía bắc của Honshu, vùng đất có tên gọi Oku – “bên trong” – nằm ngay sát về phía bắc Sendai. Ông vá lại chiếc quần cũ bằng vải cotton, sửa lại cái mũ rơm. Bán căn lều tranh cũ kỹ, rồi đi xuống con đường dẫn tới nhà Sampu, học trò ông, chuẩn bị để lên đường.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Oku-no-Hosomichi



Ngày tháng trôi như người lữ hành vĩnh cửu. Năm cũng trôi. Cuộc sống tự nó là một chuyến du hành. Với những kẻ tiêu dao tháng ngày trên thuyền, lênh đênh theo sóng nước, những kẻ già đời trên mình ngựa thì ngôi nhà thực sự của họ là con đường rộng mở phía trước. Một vài nhà thơ cổ cũng từ biệt thế gian này giữa bước phiêu du.

Tôi vẫn luôn mơ về những đám mây trôi cùng gió trời của một cuộc đời phiêu bạt. Thu năm ngoái, tôi lên đường lang thang dọc bờ biển, khi quay về mái lều của mình trên bờ Sumida, quơ qua vài mạng nhện thì kịp năm vừa hết.

Rồi xuân tới, sương đọng đầy trên những cánh đồng, tôi lại ước vọng vượt qua Shirakawa, tới miền Trung Bắc. Linh thần những con đường Dosojin vẫy gọi khiến tôi chẳng thể để tâm vào bất cứ việc gì. Tôi sửa lại chiếc quần ống túm, thắt lại quai mũ mới; và lúc hơ mô-xa trên đầu gối khiến chúng thêm dẻo dai, tôi đã mơ về bóng trăng ở Matsushima. Tôi bán căn lều, tới trọ ở quán Sampu. Nhưng trước lúc rời đi, tôi có làm một vần thơ khắc vào tấm bảng trên cột:

Căn lều cỏ này
sẽ khác
vào Ngày hội các bé gái


[Ngày hội các bé gái - Lễ hội cổ truyền Nhật Bản. Vào ngày này, người ta thường tặng các bé gái những con búp bê]


Lên đường

Sớm tinh mơ ngày 27 tháng 3, dưới ánh bình minh yếu ớt, trăng trong lồ lộ. Xa xa bóng núi Phú Sĩ, và gần hơn một chút là những ngọn cây anh đào ở Ueno và Yanaka. Chẳng biết có bao giờ lại được ngắm chúng. Vài người bạn thân đã tới từ đêm trước, cùng tiễn chân đến tận thuyền. Xuống xe ở Senju, trái tim tôi se lại nghĩ về những dặm đường dài phía trước. Dẫu biết thế gian phù du này chỉ như một giấc mộng, tôi vẫn không cầm được nước mắt.

Xuân qua đi
chim òa khóc – lệ
trong mắt cá

Yuku haru ya
tori naki uo no
me wa namida


Bài thơ này mở đầu trang nhật ký viễn du. Tôi lên đường. Bạn bè đứng lại, ngóng theo cho đến khi khuất dạng.


Soka

Tôi đang sống năm thứ hai, niên hiệu Genroku (1689), bỗng nảy ý định đi thật xa, lên các tỉnh miền Bắc. Cũng có thể tôi sẽ đến tận nơi cùng trời cuối đất! Chắc rằng bao nỗi nhọc nhằn sẽ khiến mái tóc bạc trắng màu sương, nhưng bù lại, tôi được tận mắt xem những nơi mới chỉ nghe kể. Có thể tôi sẽ may mắn sống sót trở về, cũng có thể không. Thế rồi lúc cuối ngày hôm ấy, chúng tôi đến một thành phố bưu trạm tên Soka. Đống hành lý đè lên đôi vai gày guộc khiến tôi phải rán sức. Tôi nghĩ đi du lịch ngay từ lúc khởi hành nên nhẹ nhàng, chỉ mang theo áo quần che thân là đủ. Ví như chỉ cần một chiếc áo khoác giấy bền, chống lại giá lạnh ban đêm, áo kimônô vải bông, áo mưa và vài bút lông, bình mực. Thế nhưng lại có bao quà tặng lúc chia tay tôi không thể từ chối, cũng không thể để chúng lại.

Chúng tôi viếng thăm Miếu thờ Ngôi nhà cháy ở Yashima. Người bạn cùng đi Sora giới thiệu, “Vị thần được thờ phượng ở đây là Konohama-Sakuya-Hime. Bà là Nữ thần hoa. Bà cũng được thờ phượng trên núi Phú Sĩ. Chồng bà không tin đứa con trong bụng bà, có được vào một đêm của họ, là con ông ta. Vị nữ thần tự mình xây một ngôi nhà bằng phên trát bùn để sinh nở. Bà châm lửa tự thiêu và nguyền nếu đứa bé ra đời không bị chết cháy thì điều đó sẽ chứng cho lòng trong trắng của bà. Đứa bé vị Nữ thần sinh hạ là thần Hohodemi, hay còn gọi thần Sinh ra từ lửa. Chính vì thế khi đề thơ ở đây, theo tục lệ, thơ cần phải nhắc tới khói và lửa. Đó cũng là lý do dân bản địa không ăn một loài cá có tên Konoshiro, bởi khi nướng chúng có mùi như thịt người chết cháy. Ở đây, ai cũng biết về câu chuyện này”.


Hotoke Gozaemon

Đêm cuối tháng 3, chúng tôi nghỉ ở chân núi Nikko. Người chủ quán trọ bảo, “Tôi được gần xa biết đến như thánh Gozaemon. Tôi đặt lòng trung thực lên trên mọi thứ nên người ta gọi tôi Thật lành thánh. Các bạn có thể an giấc tại đây, chắc chắn thế”.

Chúng tôi tự hỏi chẳng biết vị thánh nào giáng phàm trong hình lốt con người để quan tâm đến hai kẻ phiêu du ăn mày với lối ăn mặc kiểu tu sĩ. Nhưng chăm chú quan sát người chủ quán này, chúng tôi thấy ông ta hoàn toàn không có thói khôn ngoan của thế gian hay tính tư lợi. Ông ta trung thực một cách cứng cỏi trước mọi lầm lỗi. Ông ta mới gần gũi với những lý tưởng Khổng giáo biết bao, thật mạnh mẽ trong tính cách và luôn ngay thẳng. Chủ quán của tôi hẳn phải là một vị Bồ tát.


Nikko

Ngày đầu tiên của tháng 4, chúng tôi viếng thăm núi Nikko.
Từ xa xưa, ngọn núi này viết chữ là Ni-Ko (tiếng Hán là “đôi” và “hoang dã”). Khi thánh Kukai xây một ngôi đền ở đây, ngài đổi ra Nik-Ko (nghĩa là “mặt trời” và “ánh sáng”). Chắc hẳn ngài đã tiên liệu được điều xảy đến hàng ngàn năm sau, vì giờ đây, những tia sáng thiện tâm từ ngài tỏa khắp bầu trời, chiếu cùng khắp mặt đất, giúp tất cả mọi người sống trong thái bình và an lành. Những vần thơ của tôi chẳng thể nào nói lên được cảnh rực rỡ nơi đây.

A! không nên lời
trước lá xuân non
trong nắng rạng rỡ



Kurokami-Yama (nghĩa là núi Lông quạ), dầu mùa xuân quấn quanh bao tấm khăn sương, nó vẫn sáng lên màu tuyết. Sora viết một vần thơ:

Mang đầu trọc
tới núi Lông quạ
một sáng thay y phục



Sora là bút danh. Tên thật của ông là Kawai, thường được gọi là Sogoro. Ông sống gần am Ba tiêu, thường sang giúp tôi việc nhà. Sora hoan hỉ trước cảnh đẹp Matsushima và Kisakata, nên du hành cùng tôi cho có bè bạn, sẻ chia nhọc nhằn trên đường thiên lý. Vào buổi sáng khởi hành, ông đã cạo trọc đầu, choàng tấm áo tu hành màu đen, đặt pháp hiệu Sogo (giác ngộ). Vần thơ ông soạn ở núi Kurokami là dành cho việc này. Chữ “thay y phục” dùng thật ý nghĩa, vừa chỉ cái ngày người ta khoác lên mình manh áo mùa hạ, vừa chỉ việc đổi áo của chính ông khi thọ giới quy y trước lúc lên đường.

Đường lên núi chừng một dặm thì gặp ngọn thác. Từ đỉnh hang cao chừng 300 thước, dòng nước như bay, như nhẩy xuống một vũng xanh xanh bao quanh bằng hàng ngàn tảng đá. Mọi người phải đi men vào hang ngắm nước đổ từ phía sau, bởi thế nó có tên Urami-No-Taki (Thác thưởng ngoạn từ phía sau).

Dừng chân chốc lát
qua lòng thác chảy
hạ về, tiêu dao


Tôi có quen một người sống ở Kurobane, hạt Nasu, nên quyết định vượt qua đồng hoang Nasu. Chúng tôi đi tắt theo hướng ngôi làng mờ mờ phía trước, nhưng không kịp vì trời đổ mưa, đêm sập xuống. Đành tạm nghỉ một đêm ở trang trại chờ sáng hôm sau khởi hành vậy!
Có một chú ngựa đang gặm cỏ. Chúng tôi hỏi đường một người đàn ông đang cắt cỏ gần đó. Anh ta tuy quê mùa, nhưng chẳng thiếu lòng tốt. Suy nghĩ một chút, anh ta nói, “Lối đồng hoang này thực khó lần, người lạ rất dễ lạc. Hãy lấy con ngựa già này của tôi, nó biết đường đấy. Hãy cứ theo nó cho tới khi nó dừng lại. Nó sẽ tự biết quay về”.

Anh ta cho chúng tôi mượn ngựa. Đi được một quãng, có hai đứa trẻ theo sau. Một bé gái xưng tên là Kasane, nghĩa là “muôn vẻ”. Tên chữ mới thật bất thường và quyến rũ làm sao. Sora soạn một vần thơ:

Kasane bé nhỏ
bông cẩm chướng ven rừng hoang dã
cánh hoa muôn vẻ



Còn một thôi đường tới ngôi làng nhỏ lèo tèo dăm nóc nhà, chúng tôi để một ít tiền vào yên ngựa, rồi thả cho nó tự tìm về.


Kurobane

Chúng tôi tới gặp một samurai tên Joboji đang trông coi lâu đài trong trang viên lãnh chúa vùng Korobane. Ông ta thật vui mừng vì chuyến viếng thăm bất ngờ này và chúng tôi đàm đạo thâu đêm suốt sáng. Người em của ông ta tên Tosui theo chúng tôi như bóng với hình cả sáng cả tối, thậm chí còn mời về nhà riêng cho họ hàng gặp mặt.

Trong thời gian lưu lại nơi này, chúng tôi có đi bộ ra ngoại ô, đến xem khu di tích Inuoumono – Hang bắn chó, nơi xưa kia bao người đàn ông đã rèn luyện nghề cung nỏ. Họ tập bắn vào đàn chó phi nước đại với những mũi tên cùn. Chúng tôi đi qua đồng cỏ lá tre biết hát, tới thăm ngôi mộ cổ Phu nhân Tamamo, người đàn bà hóa đá, rồi viếng đền thờ thần Hachiman, vị thần Chiến tranh. Nghe kể chính tại ngôi đền này, thần Hachiman đã linh hiện vào lúc người anh hùng của Nasu, Yoichi khẩn cầu: “Hỡi thần Hachiman, Người bảo vệ quê hương tôi!”. Lời khẩn cầu thốt ra trước lúc ông hướng mũi tên sấm sét vào cái chong chóng treo lơ lửng trên chiến hạm của kẻ thù. Trời dần tối, chúng tôi quay về nhà Tosui.

Ở đó cũng có một ngôi chùa thờ Phật, giáo phái Shugen, gọi là Komyo-Ji. Chúng tôi đến đó viếng thăm và đọc một bài kinh trước bức tượng cùng đôi guốc gỗ khổng lồ của vị thầy sáng lập: En – người khổ hạnh. Người được kể lại đã đến vùng đồi này, chân đi guốc mộc giảng thuyết.

Vùng đồi tháng Năm
hãy ban phước, hỡi đôi guốc thần thánh
để chúng tôi tự đi đường mình!


Ungan-Ji

Phía sau ngôi đền Ungan-Ji, không xa Kurobane là mấy, thiền sư Butcho – thầy tôi, có một tịch cốc. Tôi còn nhớ ông nói đã để lại đôi dòng thơ bằng than củi thông trên đá:

Lều tranh xuềnh xoàng
rộng cao thước rưỡi
chỉ để tránh mưa tuôn



Lòng muốn thấy những gì còn lại nơi ẩn tu, tôi hướng mũi gậy về phía đền Ungan-Ji. Bạn bè ở Kurobane cũng muốn viếng thăm nơi ấy. Trong số họ có nhiều người trẻ tuổi và chúng tôi có một thôi đường thật vui vẻ, vui đến nỗi tới chân núi lúc nào không hay biết.

Một lối mòn ẩn hiện trong thung lũng mờ tối giữa cánh rừng thông. Sương nhỏ xuống từ đám rêu, và dù trời sang hè, không khí vẫn mát lạnh. Ở cuối con đường vào đẹp như tranh có tên “Mười cảnh”, chúng tôi ngang qua một cây cầu, tiến vào cổng đền xây hai bậc.

Phân vân chẳng biết nơi nào thầy từng ẩn dật, chúng tôi trèo lên quả đồi phía sau đền. Một am xinh xắn dựng trên vách đá tựa lưng vào cái hang nhỏ hiện ra. Trông nó hệt như hang Yuan-Miao, hay cửa Địa ngục trong tiếng Hán, hoặc nơi ẩn tu trên đỉnh đá của Fa-Yun.

Chim gõ kiến
cũng chẳng hại am
trong lũng nhỏ mùa hè



Tôi viết vội mấy dòng trên, rồi để lại bài thơ trên cột lều.


Sesshoseki – “Hòn đá tàn sát”

Khi quay về Kurobane, chúng tôi đến thăm Hòn đá tàn sát. Theo truyền thuyết khi phu nhân Tamamo, người đàn bà được Hoàng đế Konoe – cầm quyền 1139-1155 sủng ái, bị phát hiện là Hồ tinh và bị hành quyết, linh hồn cáo tự nhập vào tảng đá này.

Bạn Joboji của tôi, người coi nhà cho lãnh chúa, cho chúng tôi mượn ngựa đi chơi. Người đàn ông dẫn ngựa xin tôi một bài thơ. Tôi nghĩ tới nghề chăn ngựa của anh ta.

Ngựa ngoảnh đầu
phía bờ cỏ
cúc cu kêu

No wo yoko ni
uma hikimuke yo
hototogisu

Hòn đá tàn sát nằm trong hốc núi, cạnh một dòng suối nóng. Hơi độc của đá vẫn chưa hết, ong bướm nằm chết hàng đống lớn đến mức không ai có thể thấy màu cát phía dưới.


Cây liễu của Saigyo ở Ashino

Cây liễu rủ của thi sĩ Saigyo mọc nơi ''dòng nước tinh khiết như pha lê hằng chảy'' ở một làng vùng Ashino. Chúng tôi đến thăm, nó vẫn sống trên bờ đê giữa những cánh đồng lúa.

Lãnh chúa ở Ashino luôn giục tôi đến thăm nó và tôi băn khoăn không biết vì sao. Giờ đây tôi đã tới, đứng ngay dưới bóng nó.

Cả một đồng lúa
đã cấy
trước lúc rời cây liễu này!



Biên giới ở Shirakawa

Mãi đến lúc tới biên giới Shirakawa chúng tôi mới thực sự cảm thấy con đường đi của mình. Lúc ấy tôi mới thấm thía câu của Taira-No-Kanemori, nhà thơ phiêu lãng ngày xưa, người đã xúc động và truyền lại một thông điệp: ''Bằng cách nào cũng nên đi thủ phủ''.

Bộ ba Biên giới vĩ đại, một kỳ quan mà từng chi tiết thường mê hoặc các thi sĩ. Tôi yêu xiết bao hàng cây mang màu xanh mùa hạ, dầu đã từng nghe ''cơn gió thu đang nổi'' của thi sĩ Noin, dầu đã từng ngắm ''đám lá thích đỏ thắm'' của Minamoto-Yorimasa. Một thảm trắng tuyết hoa cùng suối hồng leo hoang dại khiến tôi chỉ nghĩ về các thi sĩ từng qua đây trong mùa tuyết đổ.

Kiyosuke viết về một vị anh hùng thời cổ, khi qua đây, ngài đã sửa lại mũ giáp ngay ngắn, khoác bộ nhung phục mới tinh. Sora viết:

Qua cổng Biên giới
tuyết hoa rực rỡ
vì ta vận y phục mới.


[Y phục mới của Sora là áo cà sa nhà Phật]


Sukagawa

Qua khỏi biên giới, chúng tôi vượt sông Abukuma. Phía bên trái vươn lên ngọn núi Bandai cao ngất vùng Aidu, bên phải là các hạt Iwaki, Soma, Miharu. Một dãy đồi chia các hạt này khỏi Hitachi và Shimotsuke. Chúng tôi đi qua một nơi có tên gọi Kagenuma, ''đầm gương'', chỉ tiếc bữa đó trời đầy mây nên không được thưởng ngoạn những tia sáng phản chiếu.

Sukagawa, một thị trấn bưu trạm. Chúng tôi gõ cửa nhà thi sĩ Tokyu. Ông nài tôi ở lại chơi độ bốn năm bữa. Câu đầu tiên ông vấn tôi là: ''Biên giới ở Shirakawa đã lưu lại ấn tượng thơ ca nào nơi ông?''

Tôi đáp: ''Sau bao nỗi mệt mỏi đường dài, thể xác, tinh thần tôi thật yếu đuối, linh hồn bị cảnh đẹp mê hoặc và trái tim bị đóng đinh với xúc cảm về các thi sĩ tiền bối nên tôi làm thơ rất ít.

Vụ nông mới:
giữa đồng ngân nga
bài ca trồng lúa


Với vần thơ này, chúng tôi dùng thể thơ ba đoạn, luân phiên nhau mỗi người một, rồi ghép thành bài''.

Không xa thị trấn, một nhà tu hành sống trong bóng cây dẻ cổ thụ, tách biệt thế giới. Cảnh cô tịch của cuộc sống ẩn cư nơi đây khiến tôi nhớ lại thơ của Saigyo:

Ở sâu giữa dãy đồi
Mặc tôi nhấp nước
Tự suối nguồn
Núi thanh bạch
Thu gom hạt dẻ ngựa
Rơi rụng đó đây



Tôi lấy mảnh giấy ghi vội mấy dòng: ''Ý chữ Cây dẻ chỉ cõi Tây thiên, mọi người đều quan niệm Cây dẻ có liên quan đến xứ Tây thiên cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Thánh Gyoki – được biết đến như một vị Bồ tát – trong suốt kiếp sống của Ngài luôn dùng gốc cây dẻ làm gậy và cột cho mái lều''.

Ai thấy được
dưới mái hiên
dẻ nảy trồi


Đầm lầy Asaka

Cách nhà Tokyu mười hai dặm có một thị trấn gọi là Hiwada. Cũng không xa hơn thế và ngay cạnh đường là dãy đồi Asaka. Vùng này thật lầy lội. Cũng gần đến ngày đi lượm cây Irit ngọt ngào, nên chúng tôi có hỏi vài người dân xem cây nào là Katsumi, nhưng hình như không ai biết. (Khi thi sĩ Fujiwara-No-Sanekata bị lưu đày đến đây, ông đã dùng Katsumi trong lễ hội cây Irit). Chúng tôi tìm quanh đầm lầy, dò hỏi mọi người. Và trong lúc vừa bước qua bước lại, mồm lẩm bẩm ''Katsumi, Katsumi'', vầng dương bỏ đi khuất sau đồi.

Sang phải là Rừng thông sinh đôi, chúng tôi dừng lại một lát ngắm cái hang ở Kurozuka, rồi thẳng tới Fukushima, nghỉ qua đêm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tảng đá vạch đường vằn ở Shinobu

Hôm sau chúng tôi qua làng Shinobu xem một tảng đá. Ngược với vẻ xù xì nguyên thuỷ, bề mặt nó như tấm vải dệt với bao đường trang trí mẫu mực thật tự nhiên do việc chà xát bằng những chiếc lá hình răng cưa có ở Shinobu, hay lá dương xỉ hình chân thỏ rừng qua nhiều nhiều năm. Ở ngôi làng nhỏ cạnh chân quả đồi phía xa, chúng tôi thấy nó nửa nổi nửa chìm trong lòng đất. Vài đứa trẻ nhỏ xán lại giải thích, tảng đá này trước vốn trên đỉnh đồi. Thế rồi du khách tới đây thưởng ngoạn thử nhổ lúa mạch chà lên đá. Việc này khiến nông phu tức giận, họ đánh bật nó lên, lăn xuống vực. Chúng còn nói thêm, tảng đá ấy giờ nằm úp mặt xuống. Câu chuyện này hoàn toàn có thể là thực.

Những đôi tay trẻ trung cấy lúa!
tôi thấy vẻ duyên dáng
những đôi tay ngày xưa chà đá!



Lâu đài Maruyama dòng họ Sato

Qua bến đò Tsuki-No-Wa (quầng trăng), chúng tôi tới thị trấn có bưu trạm tên Se-No-Ue (trên ghềnh thác). Chúng tôi nghe nói dấu tích lâu đài dòng họ Sato gần khu đồi, cách ba dặm rưỡi về bên trái, qua đồng hoang Saba gần làng Iizuka. Và theo hướng đó, vừa đi vừa dò hỏi chúng tôi tới Maruyama (đồi tròn). Chính trên đỉnh đồi này, lâu đài ''Các chiến binh danh tiếng'' đã một lần đứng sừng sững. Được chỉ đường tới chân đồi, nơi cảnh tượng những khóm đá làm trụ cho Cổng lớn khiến bọn tôi xúc động sâu xa.

Gần đó, trên nền đất ngôi đền cổ là hàng hàng lớp lớp bia mộ dòng họ Sato. Xúc cảm chợt dâng trào khi đứng trước mộ hai cô dâu trẻ họ nhà Sato. Hai nàng goá bụa vì chiến tranh. Họ tự nguyện khoác giáp phục nặng nề của chồng, bởi mẹ chồng họ luôn khao khát ngóng tin con trai mình cưỡi ngựa chiến thắng trở về. Hành động cao cả nơi những con người cao quý này thực chẳng bao giờ mờ phai, tôi chìm đắm suy tư và lấy tay áo lau dòng lệ đẫm. Chẳng việc gì phải đến tận xứ Trung Hoa xa xôi ngắm ''nấm mồ than khóc'', vì ở đây, ngay trước tấm bia này, có ai, có ai kìm được nước mắt?

Chúng tôi vào đền uống một chút trà. Giữa những báu vật bày trong đền nổi lên thanh gươm của Yushitsune và chiếc giỏ đựng hành lý đi phiêu lãng đan bằng liễu gai của Benkei, một người bạn của Yushitsune, từng mang trên lưng.

Kiêu hãnh thay
kiếm, giỏ, cá chép giấy
kìa Ngày hội các bé trai.


[Ngày hội các bé trai - Lễ hội cổ truyền Nhật. Ngày này các em bé trai thường tặng cá chép bằng giấy]

Tôi soạn vần thơ này vào ngày đầu tiên tháng 5 – Satsuki, tháng trồng lúa. Ngày hội ấy sắp tới.


Iizuka

Chúng tôi nghỉ lại Iizuka. Nơi đây có những dòng suối nóng. Sau khi trầm mình trong nước, chúng tôi tìm được một chỗ để nghỉ. Một manh chiếu rơm trải trên nền đất, nơi ấy thật nghèo khổ và khốn cùng. Thậm chí chẳng có lấy một cây đèn, vì thế chúng tôi chọn một chỗ có chút ánh sáng hắt ra từ bếp lò và nằm xuống.

Đêm ấy sấm động và mưa nặng hạt, và ngay chỗ chúng tôi nằm mái bị thủng. Quờ quạng với bọ chét và bầy muỗi thực không sao chợp mắt nổi. Thêm nữa, vết đau ngày xưa lại hành hạ. Thực lòng tôi nghĩ mình sắp thở hơi cuối cùng.

Đêm mùa hạ rồi cũng qua, trời hửng sáng, một lần nữa chúng tôi lại đi tiếp cuộc hành trình. Nhưng nỗi thống khổ đêm qua còn vương vất và tôi ngã lòng. Chúng tôi thuê ngựa đi xa mãi tận thị trấn Kori.

Vì phải đi một chặng đường xa xôi đến thế, lòng tôi tràn đầy nỗi lo âu cùng ý nghĩ mình có thể ngã bệnh. Nhưng dầu cho tôi có thể chết trên đường, chết trong cuộc hành trình đến những vùng đất xa xôi, cách biệt cả với những lối mòn, tôi đã cam chịu từ trong căn nguyên đến sự phù du của kiếp người. Và nếu tôi ngã xuống bên lề đường, chết trong một rãnh nước như kẻ hành khất thì đấy cũng chỉ là số phận tôi nó như thế. Suy tưởng đến đây, dần dà tôi lấy lại được tinh thần, và lại có thể bước đi trên mặt đất đầy quả quyết, dứt khoát. Chúng tôi đã qua được cánh cửa lớn của tuổi tác một cách hoàn toàn thong dong.


Kasashima

Băng qua hai thành Abumizuri và Shiroishi, chúng tôi tiến vào tỉnh Kasashima. ''Ngôi mộ của thi sĩ thế kỷ thứ 10 – Tướng Ngự lâm Hoàng gia Fujiwara-No-Sanekata ở đâu?'' Chúng tôi dò hỏi và được mọi người cho biết: Ở chân dãy đồi phía xa bên phải là làng Minowa và Kasashima. Ở phía đó, chúng tôi sẽ tìm được đường tới Miếu thờ thần linh mà xưa kia lúc đi ngang qua, Sanekata đã quên không xuống ngựa, và ngôi mộ cổ chôn cất ông sau khi ông bị quật ngã phũ phàng từ trên mình ngựa vì lần sơ ý nói trên.
Cỏ đồng hoang đã trùm lên những nấm mộ như thi sĩ Saigyo đã từng viết. Những cơn mưa khiến đường đi lầy lội, và tôi thấy trong người mỏi mệt. Phía xa có hai tấm biển đề: Làng Áo Mưa Rơm và Đảo Cái Ô.

Kasashima ở đâu?
lạc giữa mùa mưa
trên con đường lầy


Đêm đó chúng tôi nghỉ ở Iwanuma, ''những đầm đá''.


Cây thông Takekuma

Lúc nhìn thấy cây thông Takekuma danh tiếng, tôi như không thể tin nổi vào mắt mình. Từ xa xưa cây thông này mọc trên mặt đất, thân chia hai nhánh. Tôi nghĩ đến thi sĩ, thiền sư Noin sống ở thế kỷ thứ 10. Trước khi ông đến đây, lãnh chúa tỉnh Mutsu là Fujiwara-no Takayoshi đem cưa và dùng nó làm những cột trụ cho cây cầu bắc qua sông Natori. Và Noin viết ''Cây thông kia giờ chẳng còn dấu tích''. Nhưng tôi nghe nói mỗi lần cây thông bị đốn hạ, một cây mới lại mọc lên. Cái cây này trông tựa như đã hàng ngàn tuổi. Ôi, cái cây mới lộng lẫy và tuyệt mỹ làm sao!

Lúc tôi rời Edo, Kyohaky có viết mấy dòng như quà tặng chia tay:

Dù vẻ hoang tàn của ngươi
hỡi anh đào cuối mùa
hãy cho Thầy ta xem thông Takekuma!


Giờ đây, tôi viết mấy dòng đáp lại:

Từ khi rặng anh đào cuối mùa nở hoa
tôi khao khát xem cây thông hai nhánh:
ba tháng dài đã qua!


Sendai

Ngày thứ 7 của tháng 5, một hôm trước ngày hội hoa Irit, chúng tôi qua sông Natori và đi vào thị trấn Sendai. Những đóa hoa Irit ngọt ngào tỏa hương ngan ngát đặt dưới mái hiên khiến mọi người dễ chịu. Chúng tôi tìm một quán trọ và ở lại vài ngày.
Tại Sendai có một hoạ sĩ tên là Kaemon. Ở ông có gì đó rất thân thiện, và tất cả chúng tôi trở nên bạn bè. Kaemon kể, gần nơi đây có rất nhiều địa điểm được nhắc đến trong thi ca, dấu tích của chúng gần như mất hết, nhưng ông đã phát hiện ra sau cuộc khảo sát kỳ công. Một bữa, ông đưa chúng tôi đi thăm vài nơi.

Cỏ ba lá mọc từng bụi sum suê ở Miyagi – đồng hoang, đến nỗi tôi có thể mường tượng ra chúng sẽ đẹp đến nhường nào khi trời vào thu. Ở Tamada, Yokono và đồi Azalea những bụi hoa loa kèn nở rộ. Chúng tôi đi bộ xuyên qua một cánh rừng thông rậm rạp đến mức không một tia sáng mặt trời nào thâm nhập vào được. Nơi này được gọi rất chính xác là Kinoshita, ''trong rừng rậm''. Từ xa xưa nơi đây hẳn sương phải thẫm đặc, chả thế có thơ cổ:

Anh hầu,
hãy nhắc quý ngài
ở đây, đội mũ rơm che mưa


Trước lúc tàn ngày, chúng tôi cũng viếng thăm những nơi như đền thờ Yakushido, vị thầy thuốc đáng kính, và miếu thờ Tenjin – vị Thánh chữ.
Món quà Kaemon tặng chúng tôi lúc chia tay là tập bức hoạ ông vẽ ở rất nhiều nơi thuộc Matsushima và Shiogama. Ông cũng tặng mỗi người một đôi dép rơm gắn quai da nhuộm màu xanh da trời của hoa Irit – hanamuke. Ông quả là tốt với bạn bè.

Quai dép da thanh thiên –
nở dưới chân ta
hoa Irit



Tảng đá Tsubo

Dùng những bức họa của Kaemon như người hướng đạo, chúng tôi tự mình tìm ra một con đường có tên Oku-No-Hosomichi, nghĩa là đường về Hosomichi. Con đường trải ngoằn ngoèo qua chân những ngọn đồi. Chúng tôi thấy nơi cây sậy nổi tiếng của Đỗ Phủ mọc, cây sậy này thường được thi ca nhắc đến. Thậm chí tận bây giờ, nó vẫn được dệt thành thảm và tặng vị trưởng làng hàng năm.

Tảng đá Tsubo sừng sững trên đất của thành Taga, trong ngôi làng Ichikawa. Tảng đá cao chừng ba mét, rộng mét rưỡi. Rêu phủ kín khiến hàng chữ khắc trên nó rất khó đọc. Sau khi thông báo con số chiều dài đường biên bao quanh tỉnh, nó còn ghi:

''Thành này được Azuma-Udo – tướng quân vùng Ono – người được Hoàng đế cử tới các tỉnh miền Bắc, xây dựng vào năm thứ nhất niên hiệu Jinki (724). Nó được một thành viên Hội đồng Hoàng gia – tướng quân Asakari – quý tộc vùng Emi, người cai quản các tỉnh Đông Bắc tu sửa vào năm thứ 6 niên hiệu Temiyo-Hoji (762). Ngày 1 tháng 5''.

Niên hiệu Jinki thuộc triều đạu Hoàng đế Shomu (cầm quyền 724-749).

Rất nhiều địa danh được nhắc đến trong thi ca, giờ phần lớn không còn được biết một cách chính xác nữa. Lở đất làm thay đổi thượng nguồn các con sông, xoá sạch những con đường và vùi chôn những đài kỷ niệm. Cây cối già cỗi héo tàn và thay vào đó là những cây non. Vì thế, bộ mặt đất đai đã biến đổi, nơi chốn của những địa danh lừng tiếng giờ trở nên mơ hồ. Nhưng ở đây không thế. Tượng đài này được dựng lên một ngàn năm trước đây, giờ vẫn còn, là một cầu nối sống động với quá khứ. Được nhìn ngắm nó là một trong những điều khiến cuộc viễn du của tôi rất đáng giá, là một trong những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của đời tôi. Lãng quên đi tất cả những thử thách gian nan của cuộc hành trình, tôi đã khóc vì một niềm vui chân thiện.


Sue-No-Matsuyama

Sau đó chúng tôi viếng thăm nhiều nơi mà thi ca đã làm cho nổi tiếng như suối Tama ở Noda, và tảng đá lớn Oki-No-Ishi nằm giữa lòng hồ. Ở Sue-No-Matsuyama - ''Đồi thông cuối cùng'' có một đền thờ. Tên đền thờ cũng giống như tên ngọn đồi, nhưng phát âm là Masshozan. Trên đồi, giữa những cây thông chẳng có gì ngoài những nấm mộ.

Các cặp tình nhân có thể thề thốt thuỷ chung mãi mãi, như đôi chim chung cánh, như hai cội cây lá cành xoắn xuýt, vui sống bên nhau, không thể tách rời, nhưng rút cục họ cũng tới nơi này. Tôi suy tư. Lòng tràn ngập một nỗi muộn phiền, nó ở lại trong tôi và một tiếng chuông đền thờ gióng lên vào buổi tối hôm đó trên bờ biển Shiogama làm mọi điều trở nên sâu lắng hơn.

Những cơn mưa tháng sáu đã ngớt, vầng trăng nhợt nhạt ló ra. Dưới trăng có thể nhìn thấy đảo Magaki như ngay bên cạnh. Đám ngư dân đang chèo những chiếc thuyền gỗ nhỏ vào bờ, và nghe lao xao giọng nói của họ lúc chia nhau mẻ lưới cùng âm thanh sầu muộn của dây neo. Khi ấy tôi hiểu ra cái gì đã nảy trong tâm trí một nhà thơ khi viết: ''thuyền đánh cá cùng kéo lưới'' trong bài Kokinshu.

Dọc Michinoku
nơi nào cũng tuyệt
nhưng ở đây, bên bờ biển Shiogama
thuyền đánh cá cùng kéo lưới
vẫn diệu kỳ hơn cả !


Đêm hôm ấy chúng tôi nghe thấy một ông sư mù chơi đàn và hát một khúc nhạc xưa, thường chỉ có thể nghe sâu trong miền Trung chứ không phải ở xứ Bắc này. Nó không giống ''khúc ba-lát những chiến binh Heike'', cũng chẳng như một khúc ba-lát nhảy múa. Nó mang âm hưởng đồng quê và phải hát bằng một giọng thật khỏe. Tiếng hát ấy gần chỗ chúng tôi nằm ngủ nên hơi ồn ào. Dù sao tôi cũng không thể không tự hỏi rằng những bản ba-lát thơ cổ đến thế sao vẫn được hát ở đây, miền đất xa xôi này.


Shiogama

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi viếng thăm đền thờ Shiogama. Người xây dựng ngôi đền là Masamune, quý tộc vùng Data, khi ông là quan đứng đầu tỉnh này. Những cây cột gỗ thông tuyệt diệu có chu vi thật lớn, xà kèo được sơn màu sáng. Ngôi đền nằm trên phiến cao nhất của dãy bậc thang đá dài, xung quanh là hàng rào sơn son rực rỡ trong ánh nắng ban mai. Tôi nghĩ, chỉ cần bậc thang này còn, cho dù có đầy bụi đi chăng nữa, thì các vị thánh cũng sẽ đi cùng ta, trông nom ta. Ngôi đền quả là món quà tuyệt nhất trên đất Phù Tang này.
Phía trước Miếu Shinto có một cái đèn lồng bằng đá cổ. Trên cửa đèn bằng kim loại có hàng chữ:
Izumi-No-Saburo, năm thứ ba niên hiệu Bunji (1187) cúng tặng.

Tôi nghĩ, đã năm trăm năm rồi, Saburo của Izumi, người đạo hạnh dũng cảm, chính trực, trung nghĩa và hiếu tận với cha mẹ. Ngày nay không ai không kính trọng cái tên đầy vinh quang này. Nó thực sự như lời nhắn nhủ: ''Ai đi đường thẳng, thành thực với những gì mình cho là phải, danh dự chắc chắn sẽ đến''.


Matsushima

Trời gần trưa, chúng tôi thuê một con thuyền và bắt đầu chèo về phía những hòn đảo phủ đầy thông của Matsushima. Đi khoảng năm trăm dặm trên mặt nước, cuối cùng chúng tôi đặt chân lên bờ đảo Ojima.
Tuy đã được nghe nói đến nhiều lần, nhưng quả thật Matsushima là nơi đẹp nhất trên toàn Nhật Bản. Nó thực đáng sánh với hồ Động Đình và hồ Tây bên Trung Hoa.

Vô vàn những hòn đảo, vài hòn cao như những ngón tay hướng thẳng lên trời, vài hòn khác lại nằm úp sấp trên những con sóng, lại có vài hòn tụ lại thành những chùm hai, chùm ba, đâm nhánh sang trái, duỗi dài sang phải, vài hòn như cõng những đứa bé sơ sinh trên lưng hay ôm ghì trước ngực tựa cha mẹ hay ông bà.

Rừng thông ngút ngàn và xanh thẫm. Lá cành rạp xuống vì những cơn gió biển mang hơi muối tạo thành những hình dáng tự nhiên thanh nhã. Chúng duyên dáng cúi chào như những tố nữ yêu kiều.
Những hòn đảo này hẳn phải do vị thần Oyamazumi – Chúa tể núi đồi sáng tạo ra trong kỷ nguyên xa xưa của các thần? Tôi tự hỏi ai có thể mô tả nó cho xứng đáng trong ngôn từ!

Ojima, tức Hòn Trống, với dải bờ đâm ra phía biển, nhưng trên thực tế lại nối với đất liền. Ở đó chúng tôi nhìn thấy nơi thiền sư Ungo sống cuộc đời ẩn khuất và phiến đá ông thường ngồi trầm tư. Trong rừng thông, chúng tôi thường bắt gặp những chốn khuất nẻo, nơi một ai đó sống xa lìa thế gian. Vẻ bình an và thanh tĩnh của một tu viện như thế, với làn khói bốc lên từ lá thông lẩn lướt nơi mái lều đã cuốn hút chúng tôi đến độ gợi lại được hình ảnh người chủ nhân của tu viện, dù chúng tôi chẳng hề biết ông. Lúc đứng đó, mặt trăng đã ló ra và ánh vàng lấp lánh trên mặt nước khiến vạn vật thực khác biệt so với cảnh đẹp ban ngày.

Quay lại bờ biển Matsushima, chúng tôi thuê một quán trọ có sân thượng và cửa sổ mở ra phía biển. Thao thức suốt đêm đó, ''một đêm với gió và mây trời'', với vẻ diễm lệ của thiên nhiên xung quanh đã mang lại một cảm giác tinh tế đặc biệt:

Đến những đảo thông,
bạn cần đôi cánh hạc
ơi loài cúc cu bé nhỏ!


Sora đã viết những vần thơ trên. Tôi không viết và cố gắng chợp mắt, nhưng không nổi. Khi tôi rời cái am cũ của mình, Sodo có viết một bài thơ chữ Hán về Matsushima, và Hara-Anteki viết một bài waka có đoạn: ''Những đảo thông phủ kín bờ''. Tôi lấy chúng ra khỏi túi cho có bạn bè. Tôi cũng có vài bài haiku của Sampu và Jokushi tặng.


Zuigan-ji

Ngày 11 tháng 5, chúng tôi tới thăm Zuigan-ji. Tu viện trưởng hiện nay là vị thứ 32 kể từ khi Heishiro của vùng Makabe xây dựng ngôi đền sau lần ông trở về từ Trung Hoa.
Sau đó, ngôi đền được xây hoàn chỉnh để tưởng nhớ đến đạo hạnh vĩ đại của thiền sư Ungo. Với những bức tường ken lá vàng và đồ thờ lộng lẫy, ngôi đền sáng lên trong nắng như chính cõi Thiên vậy.
Nhưng còn một nơi tôi muốn tới xem là ngôi đền nhỏ của thánh Kembutsu.


Ishi-No-Maki

Ngày 12 tháng 5, chúng tôi rời đi Hiraizumi theo một con đường qua nhiều địa danh đã được nghe nói trong các bài thơ, như Aneha-No-Matsu (Cây thông chị cả) và Odoe-Bashi (Cầu dây da). Nhưng lối đi này hình như chỉ các tay thợ săn và dân đốn gỗ mới thông thạo. Chẳng biết mình đang ở đâu nữa, chúng tôi lạc đường và cuối cùng tới một thị trấn cảng tên là Ishi-No-Maki.

Phía xa xa qua bờ nước, có thể nhìn thấy hòn đảo Kinkazan. Chính vì vẻ vô tận của hòn đảo ‘‘nơi những đoá hoa vàng nở rộ’’, một nhà thơ đã có lần ca tụng nó như một vị Hoàng đế. Hàng trăm con thuyền đậu nơi bến cảng, còn trên bờ nhà cửa chen chít, từ những căn bếp khói bốc lên.
Thế đấy, chỉ tình cờ chúng tôi đã đến đó! Chúng tôi tìm một chỗ để ở lại, nhưng không hề thấy một quán trọ nào. Cuối cùng, quyết định nghỉ đêm ở một ngôi nhà tranh nhỏ xuềnh xoàng trong làng. Và ngay khi trời sáng chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên con đường xa lạ. Luôn luôn bị lạc lối.

Vượt qua nhiều vùng đất nổi tiếng qua thơ như khúc cạn Sode, cánh đồng Obuchi, đồng hoang Mano, con đường theo một con đê trải dài như vô tận. Trái tim nôn nao khó tả, chúng tôi đi vòng qua một đầm lầy dài, hẹp và nghỉ đêm ở một nơi có tên Toima. Rốt cục thì cũng tới Hiraizumi vào ngày hôm sau. Chắc chắn chúng tôi đã phải đi vòng mất năm mươi dặm.


Hiraizumi

Niềm vinh quang ba thế hệ của Fujiwara giờ đây chỉ còn là một giấc mơ thoảng qua. Chúng tôi chạm mặt với những đổ nát của Cánh cổng lớn khi còn hai dặm rưỡi nữa mới đến trang trại của Hidehira. Nơi này giờ đây chỉ còn mênh mang cánh đồng lúa và bãi hoang. Chẳng còn gì ngoài Kinkezan – ‘‘Đồi lông gà vàng’’ – nơi từng là một phần của những khu vườn cảnh tuyệt mỹ. Chúng tôi trèo lên Takadaki – Pháo đài thượng của Yoshitsune, và nhìn xuống phía dưới, nơi dòng sông lớn Kitagami bắt nguồn từ đỉnh Nambu chảy qua. Một hợp lưu, sông Koromo lượn quanh lâu đài Izumi rồi đổ vào sông Kitagami ngay dưới chân pháo đài. Đồn trấn của Yasuhira đứng phía sau chiến luỹ Koromo ở một ví trí chiến lược bảo vệ cho cửa ngõ tỉnh Nambu, ngăn chặn những chiến binh của bộ tộc Ainu tràn xuống từ phương Bắc.

Nhưng niềm vinh quang của chiến cuộc mới phù du làm sao. Lớp người trung kiên ưu tú giữ đất, những kẻ đã tử thủ ở đây, trên Pháo đài thượng này, đã chiến đấu đến tận cùng sức lực, nhưng rồi chiến công hiển hách của họ chẳng dài lâu hơn một lần chớp mắt. Giờ đây, nơi này cỏ đã ngút xanh. Nhà thơ Đỗ Phủ xứ Trung Hoa mới chí lý làm sao:

Trọn xứ đắm hoang tàn
Chỉ núi sông còn lại.
Nơi pháo đài đổ nát,
Xuân về
Cỏ vẫn xanh.


Chúng tôi ngồi xuống những chiếc mũ rơm và khóc, mặc cho thời gian trôi đi.

Trời cỏ xanh mùa hạ
có phải kỳ tích những chiến binh oai hùng
chỉ là giấc mộng qua?


Sora viết:

Kanefusa – người chiến binh gan dạ
mái tóc bạc
những làn trắng tuyết hoa



Hai viện chính của Chuzon-Ji, đã nhiều năm tôi có nghe nói về chúng với một nỗi băn khoăn, giờ đều đang mở cửa. Trong Viện kinh sách của ngôi đền, Kyodo, có đặt tượng ba vị tướng quân của Hiraizumi. Còn trong Viện ánh sáng, Hikarido, những chiếc quan tài của họ được cất giữ, trang trọng linh thiêng cùng những bức tượng Phật – tín ngưỡng của họ.

Đồ sứ trang trí cho Viện ánh sáng đã tứ tán từ lâu rồi thất lạc, những cánh cửa khảm ngọc nong ra vì gió, những thếp vàng trên cột bị sương muối và tuyết phá huỷ, rồi bản thân ngôi viện cũng như đã thành một đống gạch vụn giữa một bãi hoang trùm cỏ, nó không còn được bao che bằng những bức tường mới ở bốn phía và mái lợp ngói nhằm chống lại sức tàn phá của đất nước gió lửa. Thế nhưng nó có thể vẫn tồn tại một thời gian dài như ký ức của ngàn năm trước.

Hết thảy những ngày mưa tháng sáu
vẫn để lại
Hikarido!
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Shitomae-No-Seki (nơi vượt nước)

Con đường đi Nambu tiếp tục, mời gọi bước chân tiến xa hơn nữa về phía Bắc, nhưng chúng tôi dằn lòng quay lại và theo lối cũ trở về làng Iwate, nơi sẽ nghỉ đêm. Ngày hôm sau, vượt qua Oguro-Zaki (Mũi đất đen nhỏ) và Mizu-No-Ojima (Đảo nhỏ giữa dòng), các địa danh này như tài sản của thơ, chúng tôi tới Shitomae-No-Seki. Lúc phu nhân của Tướng quân Yoshitsune cùng chồng rút khỏi miền Bắc, bà đã sinh hạ một đứa trẻ. Và đây là nơi lần đầu tiên đứa bé ấy vượt qua dòng nước. Chúng tôi qua lối suối nước nóng ở Naruko (Đứa trẻ khóc). Chúng tôi dự tính vượt qua dãy núi tiến vào tỉnh Dewa. Con đường ấy rất ít khách du lịch nên lính gác nhìn chúng tôi nghi ngờ, nhưng cuối cùng họ vẫn để cho đi.

Đêm ập xuống bủa vây trên núi. Thế nhưng chúng tôi tìm được ngôi nhà của người lính trấn biên ải và xin tá túc. Một cơn bão cầm chân chúng tôi ở đó ba ngày, và nơi ở lại trên núi ấy thực kinh khủng.

Bọ chét, chấy rận như sung
phía đầu giường
ngựa đứng đái



Natagiri (lối qua khe lưỡi cày)

Theo người chủ nhà, muốn tới tỉnh Dewa phải vượt qua dãy núi cao. Vì đường khó đi nên ông ta gợi ý nên thuê một người hướng đạo. Chúng tôi đồng tình với lời đề nghị của ông ta.

Người hướng đạo là một thanh niên có thân hình vạm vỡ. Anh ta đeo một lưỡi dao găm cong nơi thắt lưng và một cây gậy gỗ sồi dẫn chúng tôi lên đường. ‘‘Đây chính là cái ngày chắc chắn mình sẽ gặp bất hạnh đây’’, tôi nặng nề tự nhủ và đi theo anh ta.
Đúng như lời người chủ nhà thông báo, dãy núi quả là cao. Trên núi, rừng mọc rậm rạp đến nỗi không thể nghe thấy bất cứ một tiếng chim hót nào. Phía trên đầu, cành lá ken dày đến mức chúng tôi như đang đi du hành trong cõi chết của đêm tối. Tôi nghĩ về những câu thơ của Đỗ Phủ:

Ngọn gió xé rách những đụn mây
vầng dương tối mờ lầm bụi



Con đường xuyên qua những bụi cỏ tre dày, lội qua những con suối và trượt ngã trên đá, mồ hôi lạnh luôn túa ra khắp người. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được quận Mogami. “Chặng đường này luôn có bất trắc xảy ra” – người hướng đạo thở phào nói khi từ biệt – “Tôi quả là may mắn mới đưa được các ngài đi qua một cách an toàn”.

Nghe nói vậy, thậm chí sau khi tất cả đã kết thúc, tim tôi vẫn đập liên hồi.


Obanazawa (thung lũng đồng cỏ)

Ở Obanazawa chúng tôi gặp một thương nhân tên là Seifu. Ông không phải người thô lỗ, hay đầu óc tính toán của hạng buôn bán. Ông thường lên Miyako chơi và hiểu biết thú tiêu dao. Vì thế ông nài chúng tôi ở lại vài ngày nghỉ ngơi sau chuyến đi dài. Ông đã cho chúng tôi thấy tất cả lòng mến khách của mình.

Làn gió mát mùa hè!
nơi đây như ở nhà
nghỉ ngơi, thư thái


Đâu đó
từ dưới cũi ươm tằm
tiếng ộp oạp của cóc!



Thỏi son môi nhỏ
vì sao gợi tôi nhớ
cánh đồng hoa rum?


Sora viết:

Bộ trang phục cổ xưa
qua bao thế kỷ
người làm tơ tằm vẫn mang!



Ngôi đền trên đỉnh đồi

Trên vùng đất của Yamagata, có một ngôi đền nơi đỉnh đồi với tên gọi Ryushaku-Ji. Ngôi đền được Đại sư Jikaku dựng năm 860. Nó nằm trên một khu đất đặc biệt thanh sạch và yên tĩnh. Nhiều người nói nên đến tham quan, vì thế cho dù phải đi chừng mười bảy dặm, chúng tôi vẫn quay lại từ Obanazawa.

Trời vẫn còn sáng nên sau khi thuê nhà trọ dành cho khách hành hương, chúng tôi leo lên Ngôi đền trên đỉnh đồi. Ngọn đồi vẫn còn những tảng đá mòn bóng khổng lồ, tảng này chồng lên tảng kia, và cạnh chúng những cây thông, cây bách cổ thụ xum suê. Mặt đất và đá cổ xưa xanh màu xanh cỏ mượt như nhung.

Cổng vào những nơi thiêng liêng đóng chặt. Và chúng tôi không nghe thấy một tiếng động nào. Nhưng đi lách lên quanh mỏm đá và trườn trên đá phiến, cuối cùng chúng tôi vẫn đọc được bài kinh cầu của mình trước Tam bảo.
Ở nơi thanh tĩnh thẳm sâu và đẹp đẽ này, tự trái tim cảm thấy trong sạch tận nguồn cội.

Nơi im lặng thẳm sâu
vẳng qua muôn trùng đá
tiếng ve sầu


Oishida (bãi đá lớn)

Vì muốn xuôi dòng sông Mogami trên một chiếc thuyền, nên chúng tôi phải dừng bước vài ngày chờ thời tiết đẹp ở một nơi tên là Oishida.
Hạt giống của thể thơ cổ haikai đã một lần được gieo ở đây và mọi người vẫn luyện tập làm kiểu thơ này với tình yêu và nỗi niềm không thể quên những ngày rực rỡ của thể thơ đó. Tài thơ của họ mộc mạc như thanh âm cây sáo sậy. Và trên con đường thi ca, họ ngập ngừng bước đi, băn khoăn nơi ngã ba đường, chẳng biết chọn lối nào, cũ hay mới. Họ cần một ai đó hướng dẫn. Vì vậy tôi để lại cho họ một tập thơ.
Ôi, ai nghĩ được với chuyến hành hương tìm thi hứng này của riêng tôi, tôi lại truyền được ra ngoài kiểu thơ Basho!



Sông Mogami

Sông Mogami chảy từ cao nguyên miền Bắc xa xôi Michinoku. Ở đây, tại Yamagata có những khúc sông cao nên ghềnh thác cực kỳ nguy hiểm. Ví như ‘‘Đá trôi’’ là nơi những tảng đá nằm rải rác như những quân màu đen trên cái bàn tính khổng lồ, và ‘‘Chim ưng du hành’’, nơi nước chảy phăng phăng như cuộc rượt đuổi của loài ưng. Sông chảy qua phía bắc núi Itajiki, ngọn núi đã được nhắc đến trong một bài thơ cổ, rồi cuối cùng đổ ra biển ở Sakata.

Đường đi xuống sông nằm giữa hai dãy núi và xuyên qua những tán cây. Con thuyền của chúng tôi thường dùng để chở gạo, nên rõ ràng tên nó là ‘‘Thuyền gạo’’. Không xa nơi có thể nhìn thấy những tia màu trắng của ngọn thác Shiraito, là ngọn núi Sennin-Do (Cổng vào núi Thằn lằn) nằm lơ lửng bên mép nước.

Dòng sông căng mọng vì mưa và chuyến đi đầy bất trắc.

Muôn nơi dồn về
hết thảy mưa tháng sáu
cuồn cuộn Mogami!



Haguro-Yama

Ngày 3 tháng 6, chúng tôi leo lên nơi ẩn dật của các vị tu khổ hạnh trên núi Haguro (núi Hắc vũ). Ở đó tôi gặp một học trò của mình tên là Zushi-Sakichi. Anh ta giới thiệu chúng tôi với vị Đại tăng lữ Ekaku của vùng Acalya. Vị này mời chúng tôi nghỉ lại một ngôi đền ở Minami-Dani (Thung lũng phía nam) và tỏ ra rất nhân từ, hiếu khách.
Vào ngày mồng 4 có một buổi tiệc thơ ở Ngôi đền chính.

Làn gió thổi
nơi lũng Nam thiêng liêng
mang hơi tuyết mát lành


Ngày 5 tháng 6, chúng tôi tới thăm miếu Gongen, nơi thiêng liêng đầu tiên được xây dựng trên núi Haguro. Khi thánh Nojo, người sáng lập ra nơi này còn tại thế, nó chẳng có tiếng tăm gì, nhưng trong cuốn sách Lễ kỷ niệm Enji – thế kỷ thứ 10 có nhắc đến một ngôi miếu ở U-Shu-Sato-Yama, tức là Núi Thôn dã tỉnh Vũ. Có lẽ ai đó đã lầm khi viết từ ‘‘Thôn dã’’ thay vào chỗ của từ ‘‘Hắc’’.
Và điều ấy làm tôi băn khoăn không biết Haguro-Yama tên nguyên thuỷ có phải là núi Hắc tỉnh Vũ không, và từ ‘‘tỉnh’’ bị bỏ sót nên tạo thành Núi Hắc vũ! Rõ ràng tỉnh này có tên Dewa – ‘‘Nộp lông vũ’’, bởi vì trong sách địa chí chính thức năm 713, lông vũ của tỉnh này được quy định như một vật triều cống. Haguro-Yama, cùng với Gassan (núi Mặt trăng) và Yudono-Yama (núi Tắm gội) tạo ra Dewa-Sazan, tức ‘‘Ba ngọn núi thiêng của Dewa’’.

Ngôi đền trên núi Haguro chịu sự cai quản của Kanei-Ji, một ngôi đền trên đồi Toei ở Edo. Cả hai cùng một giáo phái Phật giáo. Học thuyết của giáo phái này gồm Shikan (tọa thiền và nội quán) trong sáng và thần thánh như mặt trăng đêm rằm, và Endo-Yuzu (đạt đến hoàn thiện và hài hoà thông qua việc tuân thủ giáo lý Phật giáo một cách đều đặn và kiên trì) sáng chói như chính ánh sáng.
Các tu viện đứng bên nhau lớp lớp, nơi các vị tu khổ hạnh miệt mài thực hành giáo lý. Suối nguồn tốt đẹp từ quả đồi linh thiêng này quả là kỳ diệu và truyền đi ơn huệ tới tất cả chúng ta.


Núi mặt trăng và Núi tắm gội

Ngày 8 tháng 6, chúng tôi đi lên Gassan – núi Mặt trăng. Mang theo một chuỗi hạt giấy màu dâu chín để xua đuổi sự không thanh sạch và đội những cái mũ vải bông tẩy trắng, chúng tôi theo sau một người hướng đạo có biệt hiệu ‘‘người mạnh mẽ’’. Phải leo mười chín dặm xuyên qua mây mù, và sương, băng qua băng và tuyết cho đến khi dường như chính mình cũng sẻ chia con đường đi của mặt trời và mặt trăng vậy!
Lên tới đỉnh, chúng tôi hoàn toàn cóng lạnh và thở không ra hơi. Mặt trời đã lặn, mặt trăng ló ra. Chúng tôi tự mình kết một ổ cỏ tre, lấy hai cành tre nhỏ làm gối và nằm xuống chờ bình minh.

Cuối cùng mặt trời cũng mọc, xua tan những đám mây. Chúng tôi bắt đầu đi xuống về phía Yudona-Yama (núi Tắm gội).
Lúc tới gần thung lũng, chúng tôi đi ngang qua một túp lều mà trước đây là lò rèn. Một người thợ rèn kiếm tỉnh Dewa thế kỷ 12 đã chọn chỗ này vì có loại nước tôi thép rất kỳ lạ. Sau khi tắm gội thanh sạch cả thân thể và tâm trí với cách sống kiêng khem, người nghệ nhân này rèn những thanh kiếm có khắc dòng chữ Gassan và nó trở nên có giá trị cao trên toàn đất nước.

Tôi nghĩ đến những thanh kiếm khác được tôi ở Long Khê bên Trung Hoa và loại kiếm của Kanchiang cùng người vợ ông là Muyeh. Tôi nhận thấy để vượt lên trong bất cứ loại công việc gì, cần phải nỗ lực nhiều hơn rất nhiều mức bình thường.

Lúc ngồi xuống một tảng đá nghỉ ngơi, tôi nhận thấy có một cây anh đào nhỏ mọc kề bên. Cội cây chẳng cao hơn mét rưỡi, và nửa mình trổ hoa. Cứ nghĩ về cây anh đào muộn mằn đáng yêu này mà xem! Nó bị vùi sâu trong tuyết lạnh suốt mùa đông mà vẫn không quên nở hoa lúc xuân về trên những ngọn núi. Ở đây, cây mọc, ngát hương như một công án thiền: ‘‘Hoa mận nở trong vầng dương rực nắng’’. Nó gợi cho tôi nhớ về thơ của Gyoson:

Anh đào dại đáng thương!
trừ tôi, chẳng có ai yêu bạn
và chẳng có ai ngoài bạn, yêu tôi!



Ở đây, cảnh tượng những bông hoa này nở trên núi khiến tôi còn cảm động hơn thế. Và lúc này tôi đành gác bút, vì những gì tôi thấy ở đây, theo một luật lệ dành cho người hành hương lên núi, cấm không được viết ra.
Lúc quay trở lại ngôi nhà trọ trong đền Thung lũng phía nam, Ekuka vùng Acalya có hỏi về ấn tượng thơ ca của tôi trong chuyến hành hương tới Ba ngọn núi thiêng. Và tôi viết tặng ông mấy bài:

Trăng lưỡi liềm lạnh
mờ nhạt trên tầng lá đen
núi Haguro!



Có bao nhiêu mây
lên rồi rơi xuống
đỉnh Gassan dãi ánh trăng

Vì không thể
kể những diệu huyền núi Yudono
đành ứa lệ, rơi trên tay áo


Còn Sora viết :

Đường núi Yudono
xu của người hành hương rải
ở đây, lệ cũng rơi



Sakata

Sau khi rời núi Haguro, chúng tôi tới thành Tsuru-Ga-Oka (Đồi hạc) theo lời mời của một samurai tên là Nagayama-Ujishige. Tại nhà người này, chúng tôi soạn một tập gồm 36 bài thơ liên hoàn. Người môn đệ của tôi Zushi-Sakichi cũng có mặt ở đó. Anh ta theo chúng tôi ra đi từ núi Haguro. Tiếp theo chúng tôi xuôi thuyền xuống hải cảng Sakata. Ở đây, chúng tôi nghỉ lại tại nhà một thầy thuốc, ông cũng viết lách với bút danh En-an-Fugyoku.

Xa lắm, ngọn đồi Suối Nóng
muôn nẻo đường về bên Bờ Gió
đêm lành lạnh!

Dòng Mogami
đánh chìm mặt trời hè nóng bỏng
và nhấn xuống đại dương!


Kisakata

Thực không sao kể hết được những cảnh đẹp của đất và biển tôi đã ngắm; nhưng lúc này trái tim đập mạnh hồi hộp trước viễn cảnh được nhìn thấy Kisakata, đấy là một cái hồ nước mặn trứ danh trải dài khoảng 24 dặm về phía đông bắc hải cảng Sakata. Chúng tôi vượt qua những ngọn đồi và đi dọc theo bờ biển, lê bước qua những đụn cát. Và lúc mặt trời đang khuất dần, chúng tôi đã đến nơi.

Một cơn gió nổi lên từ phía biển, đổ tràn vào không khí bụi cát và mang theo mưa, khiến thậm chí chúng tôi không thể nhìn thấy núi Chokai. Có một nỗi đắm say đầy tò mò khi đi dò dẫm trong lòng bóng tối và tưởng tượng ra những cảnh đẹp nằm trước mặt. Và cơn mưa mang lời hứa hẹn một cảnh còn đẹp hơn so với lúc trời quang thường ngày. Chúng tôi len lỏi qua những mái lều lợp bấc của dân đánh cá chờ cơn mưa ngớt.

Sáng hôm sau trời quang không một gợn mây. Và lúc mặt trời mọc, ánh sáng tỏa ra rực rỡ. Chúng tôi xuống một chiếc thuyền ra đi trên lòng hồ.

Ghé thăm hòn đảo của Noin, nơi vị thi sĩ - thiền sư đã sống ẩn dật suốt ba năm, rồi chúng tôi đi lên bờ một hòn đảo nằm ngay phía sau. Ở đó có một cây anh đào cổ thụ. Nó chính là cội cây đã soi bóng xuống mặt nước và hiện lên trong bài thơ ‘‘Lái thuyền trên thảm hoa anh đào’’ của Saigyo.

Trên bờ hồ nước mặn có một ngôi mộ theo truyền tụng, là nơi chôn cất Hoàng hậu Jingu (nhiếp chính từ 201-269). Đền thờ ấy gọi là Kanmanju-Ji. Tôi chưa nghe ai nói vị Hoàng hậu này từng đến nơi đây, nên cứ tự hỏi tại sao bà lại được an táng ở đó.
Chúng tôi ngồi nghỉ trong trai phòng tu viện trưởng ngôi đền. Và lúc tấm màn dệt bằng tre cùng gấm thêu kim tuyến được kéo lên, toàn bộ cảnh hồ Kisa lộ ra trước mắt.

Về hướng nam, núi Chokai nom như đang chỉ thẳng lên trời và bóng núi hằn trên mặt nước. Về phía tây con đường bị chặn bởi thành luỹ Uyamuya, nhưng phía đông, một con đê đưa con đường đi dài tít tắp hướng đến Akita. Biển trải dài theo hướng bắc và nơi bắt đầu hồ nước gọi là Shiogoshi – Con đường nước triều.

Mặc dù hồ nước mặn Kisakata chỉ dài hơn hai dặm, rộng hai dặm, nó vẫn gợi lên nỗi nhớ về Matsushima. Nhưng ở vài điểm, nó hoàn toàn khác. Trong lúc Matsushima có vẻ đẹp vui nhộn, hớn hở thì Kisakata đầy tràn đắng cay và ăn năn hối hận. Có cảm giác đơn côi hoang vắng và ưu phiền nơi một tâm hồn quằn quại, day dứt.

Mưa ở Kisakata
cây trinh nữ lả
như nàng Tây Thi mang vết thương lòng


Thấp thoáng những đụn cát
trên Con đường nước triều
bức hoạ biển, dăm con hạc
đôi chân dài lội qua hồ mát



Sora viết nhân dịp lễ hội Shiogoshi:

Ngày hội ở Kisakata
tôi tự hỏi
họ ăn món gì đây?


[Bài thơ này Sora viết vì nỗi xúc động trước cảnh một gia đình nghèo kê một cánh cửa gỗ và ngồi lên đó – căn nhà xoàng không mái che]

Teiji – một thương nhân tỉnh Mino viết:

Trên những tấm ván nằm dưới cát
ngư dân ngồi
nhấm nháp khí lạnh trời đêm


Ngắm một cặp chim ưng làm tổ trên vách đá gần bờ biển, Sora viết:

Tổ trên vách đá cheo leo
ghim lại muôn sóng trùng dương
phải không hỡi ưng biển?



Con đường miền Bắc

Chúng tôi nấn ná mấy ngày ở Sakata đến khi những đám mây rợp trên Con đường miền Bắc giơ tay vẫy gọi. Thế nhưng trái tim lại xao động khi nghĩ tới con đường xa vời vợi nằm phía trước; nghe nói nó dài đến ba trăm dặm mới tới thủ phủ tỉnh Kaga.

Sau khi vượt qua Thành Nezu tiến vào tỉnh Echigo, chúng tôi lên đường với một quyết tâm mạnh mẽ. Sau cùng, tới Thành Ichiburi tỉnh Etchu. Chúng tôi đã lang thang trên đường chín ngày. Trong bầu không khí ngột ngạt nóng và mưa, vết thương ngày xưa đau nhức, tôi chẳng viết được gì.

Đêm trước ngày Ngâu!
mai, Ngưu Lang gặp Chức Nữ
hai vì sao tình nhân


Bụi nước đại dương man dại
phủ mọi nẻo đường đến Sado
Ngân Hà trải rộng!


Hôm nay chúng tôi đi qua những nơi hiểm nguy nhất ở miền Bắc. Con đường bất trắc đưa qua những tảng đá mòn dưới chân một mũi đá cong vểnh làm mồi cho những con sóng lớn. Như chuỗi tên của những nơi tồi tệ nhất ám chỉ, nó do mọi người tự đặt cho cảnh ngộ chính mình: ‘‘Bỏ cha”, “Bỏ con”, “Những con chó quay đầu”, “Gửi lại ngựa của bạn’’.

Chúng tôi kiệt sức và đi nằm sớm. Nhưng trong căn buồng kế bên, tôi nghe vẳng tiếng, mà theo phán đoán, là của hai phụ nữ trẻ. Một giọng đàn ông xen vào tiếng nói của họ. Tôi hiểu ra họ là hai kỹ nữ tới từ một thị trấn cảng tên Niigata thuộc tỉnh Echigo trong một chuyến hành hương về Đền thờ lớn ở Ise. Người đàn ông đi cùng họ từ nơi xa xôi tới đây và họ đang viết những bức thư để người này mang trở lại Niigata vào ngày mai. Những lời họ tâm sự với anh ta chứa chan bao xúc động. Khi lắng nghe, tôi cũng thêu dệt giữa những lời thì thầm của họ âm hưởng bài thơ Shinkokinshu do một kỹ nữ làm trước đây:

Nơi những con sóng
Tung bọt trắng vỗ bờ
Thân em suốt đời như rong biển
Như người đánh cá không nhà
Những cuộc tình lang chạ đêm đêm
Là nghiệp, là số mệnh
Cảnh ngộ buồn đau, buồn đau
Em đã rơi vào.


Và tôi chìm vào giấc ngủ trong lúc lắng nghe họ nói chuyện. Sớm hôm sau, lúc chúng tôi sắp sửa khởi hành, một trong hai người phụ nữ trẻ chạy tới. Nàng nói: “Chúng tôi không biết đường. Các thày có thể cho chúng tôi theo bước được không? Thực sự là chúng tôi hoàn toàn vô hại… Tăng bào của các thày mang đến sự che chở của Đức Phật cho hành trình của chúng tôi”. Hẳn là họ đã tưởng lầm chúng tôi là những người tu hành. Tôi đáp: “E rằng chúng tôi hay dừng lại dọc đường, có khi còn quay lại nữa. Nhưng sẽ có nhiều người khác dẫn các cô đi. Đức Phật sẽ giúp các cô”.

Rất lâu sau khi từ biệt họ, trái tim tôi vẫn ngập tràn thương xót và hình ảnh họ không sao ra khỏi tâm trí. Tôi đọc cho Sora. Ông chép lại:

Dưới một mái nhà
kỹ nữ, sư cùng ngủ
như trăng cùng bụi cỏ ba lá
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nago-No-Ura

Chúng tôi lội qua bốn mươi tám dòng suối của vùng châu thổ sông Kurobe, nhưng vùng này vẫn còn vô số những con sông, con suối khác. Cuối cùng tới bờ biển Nago.

‘‘Những cây đậu tía dập dờn’’ vùng Tako của thi sĩ Manyoshu cách đây không xa. Cho dù xuân đã qua, chúng tôi vẫn nghĩ được ngắm nhìn những dây leo bò ngoằn ngoèo thế nào trong tiết đầu thu ở đó cũng rất kỳ thú. Vì vậy tôi hỏi đường một người. Anh ta trả lời:

- Cách đây chừng mười hai dặm theo bờ biển, trong chỗ khuất gió ngọn đồi đằng kia. Nhưng ở đó rất ít nhà, chỉ có những mái lều của ngư dân mà thôi. Thầy sẽ không tìm được ai cho thuê chỗ trọ đâu.

Anh ta ra sức khuyên can khiến chúng tôi đi thẳng tới tỉnh Kaga.

Những cánh đồng ngát hương lúa sớm
chúng tôi đi qua
bên gió biển Ariso



Kanazawa

Sau khi qua Đồi Unohana và Thung lũng Kurikara, ngày 15 tháng 7, chúng tôi tới một thành phố lớn tên Kanazawa. Chúng tôi ở trọ cùng một thương nhân đến từ Osaka tên là Kasho để dự lễ cúng giỗ Issho, một thi sĩ trẻ danh tiếng trong vùng, rất mê thể thơ liên hoàn, đã mất vào mùa đông năm trước. Người anh trai của Issho chủ trì buổi cúng giỗ em mình. Issho là học trò của tôi và cả hai chúng tôi đã từng hân hoan ngắm trăng thu với nhau.

Ôi! mộ của tôi –
tiếng nức nở tim tôi cay đắng
là tiếng thở dài gió thu


Tsuka mo ugoke
waga naku koe wa
aki no kaze

Chúng tôi được mời tới một căn lều cỏ ẩn cư:

Trời thu mát lạnh!
tôi gọt vỏ
dưa hấu và lê


Một bài thơ soạn trên đường:

Mặt trời nóng bỏng thế kia
lờ đi
cơn gió thu đang nổi


Và tại một địa danh gọi là Komatsu – Rừng thông bé nhỏ:

Gió thu nhẹ thổi
những cây thông nhỏ,
bông bạc và cỏ ba lá


Đền Tada

Ở Komatsu, chúng tôi viếng thăm đền Tada. Tại ngôi đền chúng tôi xem cái mũ sắt của chiến binh Sanemori (1111-1183) và một mảnh áo giáp thêu kim tuyến của ông. Nghe nói những thứ này ông được Đức ông Yoshimoto của vùng Minamoto ban tặng khi phục vụ cho gia tộc Genji.

Cái mũ sắt không phải vật tầm thường. Từ đỉnh mũ cho đến vành uốn vòng phía sau tai được trang trí bởi những dải hoa cúc uốn lượn bằng vàng. Chóp mũ hình đầu rồng, và những chiếc sừng phẳng, mềm mại thật thanh nhã, kiêu hãnh.
Khi Sanemori ngã xuống trong chiến trận, Kiso-Yoshinaka cử Jiro của vùng Higuchi dâng những vật này cho ngôi đền. Tất cả đều được lưu giữ đầy đủ trong cuốn sử biên niên ở ngôi đền này.

Ôi bi thảm
bên dưới mũ chiến binh quả cảm
châu chấu khóc



Nata-Dera

Trên con đường tới suối nước nóng Yamanaka, có thể nhìn thấy Shirane-Ga-Take – Núi trắng. Đi đường nào cũng thấy ngọn núi này phía sau lưng. Bên trái, trong dãy đồi ở chân núi có một ngôi đền thờ Kannon – Quán Thế Âm Bồ tát. Hoàng đế Kazan (cầm quyền 968-1008), sau chuyến hành hương qua ba mươi ba địa điểm linh thiêng các tỉnh miền Tây, đã được khuyên hãy thờ phụng tại đây Kannon – Người nhân từ nhất, Vị Bồ tát của lòng trắc ẩn và tình yêu thương. Hoàng đế gọi ngôi đền là Nata, cấu tạo từ những chữ cái đầu của Nachi và Tanigumi, tên hai địa danh đầu tiên và cuối cùng của ba mươi ba nơi linh địa.

Giữa những tảng đá có hình dáng kỳ dị được sắp xếp và những cây thông cổ thụ thân chằng chịt mấu, có một nơi ẩn tu nhỏ, mái rạ dựng trên một tảng đá. Thời gian mài trắng nên vẻ thanh sạch nơi những tảng đá mòn mang lại cho nơi này một nép đẹp buồn bã vượt hơn cả đền Ishiyama danh tiếng ở Omi.

Đá ở Ishiyama
không trắng bằng –
gió mùa thu



Suối khoáng Yamanaka

Chúng tôi đi tắm suối nóng Yamanaka. Người ta nói về mặt chữa bệnh, con suối này chỉ đứng hàng thứ nhì, sau các suối nóng vùng Ariake.

Nước suối Yamanaka
tuyệt diệu hơn
những bông cúc hoa!



Chủ quán trọ còn trẻ, tên là Kumenosuke. Cha anh ta nghe nói rất yêu thơ. Và ở đây, chuyện xoay quanh thi sĩ trẻ tuổi đến từ Kyoto đã bị quá bẽ mặt bởi tài năng thơ hơn hẳn của người chủ quán, tức cha của Kumenosuke như thế nào. Khi quay lại Kyoto, anh ta quyết tâm theo học Teitoku, tiếp tục làm thơ và trở nên nổi tiếng dưới cái tên Teishitsu mà chúng tôi có nghe nói đến. Khi đã danh tiếng, người ta nói rằng Teishitsu không bao giờ nhận tiền thù lao từ những người dân quê cho việc phê bình và sửa thơ giùm họ.

Sora bị ốm, do bệnh đau dạ dày mãn tính của ông. Vì vậy, bắt buộc ông phải trở lại nghỉ tại nhà một người họ hàng tại Nagashima, tỉnh Ise.

Một kẻ lang bạt đơn côi
nếu nằm xuống, xin cho tôi
giữa đồng cỏ ba lá


Sora viết những lời từ biệt.


Với nỗi buồn kẻ đi người ở, chúng tôi như đôi ngỗng trời chia tay nhau và rồi mất hút nơi những tầng mây. Tôi viết:

Giờ, sương thu rơi
làm nhòe trên mũ dòng chữ
‘‘Hai bạn cùng du hành’’



Zensho-Ji

Tôi nghỉ đêm trong ngôi đền Zensho nằm ven thị trấn Daishoji. Nơi này vẫn thuộc tỉnh Kaga. Sora chia tay tôi ở đây đêm trước và để lại bài thơ:

Suốt đêm
tôi nghe gió thu
thổi qua những mỏm đồi quạnh vắng



Chúng tôi xa nhau có một đêm mà sao như ngàn dặm. Tôi cũng nằm thao thức lắng nghe gió thu. Rạng sáng có tiếng các vị sư đọc kinh. Thế rồi một tiếng chuông vang lên và tất cả chúng tôi xuống bếp.
Vì tôi có ý định tới tỉnh Echizen trong ngày hôm đó nên vội vã ra đi. Hai vị sư trẻ tuổi tới, mang theo giấy và mực. Bên ngoài, lá liễu rơi trong gió.

Lòng tốt của bạn, xin báo đền
tôi có thể quét lá rơi
nơi gốc liễu


Đôi dép rơm đã buộc chặt quai, tôi viết mấy dòng vội vã rồi ra đi.



Con đường tới Eihei-Ji

Vượt qua vịnh hẹp Yoshizaki nằm trên biên giới tỉnh Echizen bằng thuyền, chúng tôi dừng lại ngắm rừng thông trứ danh của Shiogoshi. Saigyo viết:

Cơn bão lớn tàn phá
suốt đêm hoang dại
gió sóng nổi lên
trăng ở Shiogoshi
trượt trên những rặng thông!



Bài thơ này nói lên tất cả. Thêm một bài thơ nào khác về rừng thông Shiogoshi sẽ ví như thêm ngón thứ sáu vào bàn tay.

Trụ trì chùa Tenryu của thị trấn Maruoka là một người tôi quen đã nhiều năm. Do vậy tôi đến thăm ông. Lúc ấy có Hokushi, người đi cùng chúng tôi từ Kanazawa. Anh ta chỉ có ý định đi tiễn một đoạn đường, nhưng cuối cùng lại theo chúng tôi đi khắp nơi tới tận Maruoka. Trên đường đi anh ta không bỏ qua một cảnh đẹp nào và luôn soạn những vần thơ. Một số bài rất sâu sắc. Tôi viết một bài thơ lúc chia tay:

Mấy dòng nguệch ngoạc lên quạt
giờ đã thành hai nửa
cho khúc thâm tình buổi chia tay!


Đi bộ khoảng ba dặm rưỡi về phía dãy đồi là tới Eihei-Ji. Ngôi đền này do thiền sư Dogen (1200-1253) lập nên. Chẳng phải do tình cờ mà ngôi đền được dựng rất sâu trong vùng đồi, “bên ngoài ngàn dặm của cố đô Kyoto”, như người ta vẫn nói.


Fukui và Tsuruga

Dầu cho đường đi tới thành Fukui dài bảy dặm, tôi vẫn để sau bữa tối mới lên đường. Và tôi cập quạng dò đường trong bóng tối.

Ở Fukui có một người tên là Tosai sống ẩn dật từ lâu. Tôi gặp ông một lần ở Edo, nhưng đã hơn mười năm về trước. Giờ đây hẳn ông phải già lắm. Tôi nghĩ cũng có khi ông đã khuất núi. Tuy nhiên khi hỏi thăm mọi người, họ đều nói ông còn sống và chỉ cho tôi chỗ ở của ông.
Trên lối đi nhỏ yên tĩnh, cách biệt với tiếng ồn ào đô thị, tôi tìm thấy một mái lều nhỏ, xoàng xĩnh nằm giữa đám dây cúc bạc và mướp bò ngoằn ngoèo. Cái cổng bị những cây mào gà và cây bách che kín. Tôi nghĩ chắc là đây rồi và gõ cửa. Một người phụ nữ dáng vẻ buồn buồn bước ra. “Thày từ đâu tới?” – Bà hỏi và tiếp – “Tiên sinh đã qua nhà một người bạn gần đây. Nếu thày muốn gặp, tôi sẽ đi tìm”.
Tôi đoán bà là vợ của Tosai. Chuyện này cũng giống với một cảnh trong ‘‘Chuyện Genji’’.

Tôi ở nhà Tosai hai đêm. Sau đó tôi nói tôi phải đi vì muốn ngắm trăng Trung thu ở cảng Tsuruga. Tosai khăng khăng muốn đi cùng. Và rồi vén gọn kimono, quấn thắt lưng, ông vui vẻ ra đi như một người hướng đạo cho tôi. Cứ lần lượt, hết Shirane-Ga-Take (Núi bạc) khuất dạng thì ngọn Hino lại hiện ra. Chúng tôi băng qua cây cầu ở Asamuzu thường được nhắc đến trong các bài thơ, nơi những cây lau của Tamae đã nở hoa. Vượt qua Luỹ chim sẻ bụi rậm và cắt ngang Suối nóng, chúng tôi nghe vẳng tiếng gọi của bầy ngỗng trời đầu tiên ở Hiuchi-Ga-Jo (Thành đá lửa), sau đó ở Kaeru-Yama (Đồi trở về). Đêm 14 tháng 8, chúng tôi tới cảng Tsuruga và đi tìm một quán trọ.
Đêm đó trăng sáng khắp trời một cách dị thường. Tôi hỏi:

- Đêm mai trời sẽ thế này chứ?

Nhưng người chủ quán trọ đáp:

- Ở Koshiji này, không thể nói chắc chắn về tiết trời. Hôm nay trời có thể quang, ngày mai đã phủ đầy mây, hoặc có thể mưa.

Chúng tôi uống rượu saké cùng người chủ quán trọ. Sau đó, cả đêm bọn tôi cùng đến thăm đền Myojin ở Kei, nơi Hoàng đế Chuai (cầm quyền 192-200) được an táng.
Ở ngôi đền, bầu không khí linh thiêng, và trong ánh trăng lọt qua những tán lá thông, cát trắng rải trước ngôi đền trông tựa như sương. Người chủ quán trọ bảo:

- Từ xa xưa, vị kế nhiệm người Đạo trưởng giáo phái này, tổ sư thứ hai với ước muốn giúp đỡ tín đồ đã tự mình giẫy sạch cỏ, rồi khuân đất đá lấp những đầm lầy xung quanh, để từ đó về sau những người đến đền đi lại được dễ dàng. Tưởng nhớ đến công việc vĩ đại đó, thậm chí tận ngày nay, sư trưởng của giáo phái Shinto-Jishu vẫn mang cát rải khắp ngôi đền. Lễ kỷ niệm này gọi là ‘‘Lễ sư trưởng mang cát’’.

Trắng ngần
những hạt cát sư trưởng rải
sáng lên dưới ánh trăng!


Đêm rằm, đêm trăng tròn hiện diện, đúng như người chủ quán đã dự đoán, trời đổ mưa.

Ôi! kém phúc là tôi
đêm trăng rằm lại mưa
thất thường, trời xứ Bắc!



Iro-No-Hama

Ngày 16, trời thật đẹp. Tôi muốn đi lượm một vài vỏ sò nhỏ màu hồng nên cả bọn cùng đi thuyền đến Bãi biển hồng. Mười bảy dặm đi trên mặt nước, nhưng một người bạn tốt bụng tên là Tenya đã bỏ xuống thuyền chúng tôi những cái hộp đựng đồ ăn và những ống tre đựng rượu saké. Ông còn cho một vài người giúp việc đi theo. Một cơn gió thuận đã đưa chúng tôi đi trong loáng mắt.
Trên bãi biển này chỉ lưa thưa vài túp lều ngư dân và một ngôi chùa thờ Phật trông tuềnh toàng của giáo phái Hokke. Ở đó chúng tôi uống trà, hâm nóng rượu saké và cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp sầu thảm của cảnh đêm:

Buồn hơn và
đìu hiu hơn cả Suma
là mùa thu bên bờ biển này


Sóng lại sóng
dạt lên bờ sò nhỏ
và cánh cỏ ba lá


Tôi bảo Tosai ghi lại cảm tưởng ngắn ngủi của một ngày phiêu du ngoài trời, rồi để lại ngôi đền.

Ogaki Rotsu, một môn đệ của tôi, đến Tsuruga và cả hai chúng tôi cùng du hành đến tỉnh Mino. Chúng tôi đi ngựa đến thành Ogaki và Sora cũng đến đây nhập đoàn từ Ise. Etsujin cũng theo nhịp nước đại của ngựa đến và tất cả bọn tôi hội tụ ở nhà một samurai đã hồi hưu là Joko.
Quý tộc Zensen, samurai Keiho cùng các con trai của ông và một số bạn bè thân thiết khác liên tục đến đây trong cả ngày lẫn đêm để chúc mừng với vẻ hân hoan và quan tâm ân cần. Cứ như thể tôi vừa từ cõi chết trở về.

Giờ đây, dẫu cho cơ thể chưa hồi phục hoàn toàn sau nỗi mệt nhọc của chuyến du hành, đã là ngày 6 tháng 9 – tháng trăng mờ, và tôi ước ao được đến đền Ise để dự lễ kỷ niệm cứ 21 năm mới tổ chức một lần, rước thần linh đến một ngôi đền mới dựng. Trời đã vào cuối thu nên tôi ra đi một lần nữa, tới bờ biển Futagami-Ga-Ura, nơi có những con trai vị rất ngon. Trên thuyền tôi đặt bút:

Thật buồn, chia tay bạn
tựa thân trai lìa xa chiếc vỏ
tôi đi và thu cũng cạn ngày





Hàn Thủy Giang dịch
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên