NHO GIÁO
1.VỀ LỊCH SỬ TRUYỀN NHẬP
Nho học – Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ XV về sau.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho học và Nho giáo được đẩy lên cực thịnh bằng :
* Tổ chức Nhà nước quân chủ tập trung
* Pháp luật và các chính sách.
* Giáo dục và khoa cử Nho học
Và cũng từ đấy về sau, Nho giáo mới qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền mà thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục tập quán… Cho đến đầu thế kỷ XX này, năm 1919 khoa cử Nho học mới bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học- Nho giáo không thể không thấm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hoá truyền thống Việt Nam khá sâu đậm.
2.VỀ KINH HỌC NHO GIÁO VIỆT NAM
Nho học với nội dung là Kinh học thì Việt Nam phát triển không cao lắm, nhưng được tôn trọng như những tín điều không đổi.
Các nhà Nho Việt Nam thời Lê Nguyễn cho đến đầu thế kỷ này chỉ lấy các sách của Khổng Mạnh – Trình Chu làm kinh điển.
Thế kỷ XV, Nho thần Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư 15 quyển có 174 lời bình (2), trong đó có 98 đoạn trích dẫn hoặc nhắc đến các tác giả – tác phẩm như : Chu Dịch, Kim Thi, Ki, Kinh Thư, Xuân Thu, Luận Ngữ, Khổng Tử, Mạnh Tử, Trung Du, Chu Tử, Trung Du, Chu Tử. Oâng đặc biệt đề cao Chu Tử: “Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải Lục Kinh của các nhà Nho Han Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của Thánh nhân ở các bộ Kinh để lại, rõ được đạo của Thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc nghĩ ngẫm, lý và tâm dung hợp. Oâng giải thích tường tận, chỉ dẫn thì rộng xa, thực là tập đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho kẻ hậu học” (3).
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726) tiến sĩ cập đệ đồng thời là đại thần, tiêu biểu bậc nhất cho trí tuệ Việt Nam thời Trung đại vẫn rất mực đề cao Chu Hy. Trong bộ sách Quần Thư Khảo Biện ông viết (dịch): “Tôi không dám nhận định theo một nhà chú giải nào nếu không tìm xét cho đúng ý nghĩa của sách, cũng không dám có lời bàn mới lạ trái với lời bàn trước của Y Xuyên và Khảo Đình”. Thế mới biết, suốt trong thời Lê Nguyễn, học thuyết Trình Chu có vị trí rất quan trọng trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam.
Tuy nhiên, ở Việt Nam nhìn chung sự tiếp nhận học thuyết Trình Chu cũng không phải đầy đủ với những lý luận phức tạp như các vấn đề về tính lý, thiên mệnh, thái cực, vô cực,.. nặng nề thuần lý triết học. Một số học giả như Lê Quý Đôn, Ngô Thị Nhậm, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Văn Siêu có khuynh hướng thực học, còn phần lớn các nhà Nho Việt Nam tiếp nhận một cách thực dụng những bộ phận thuộc về luân lý- đạo đức, để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình, cộng đồng. Cho nên kinh học của các sĩ phu Việt Nam về cơ bản là giảm yếu, lược luận.
+ Lê Quý Đôn có Dịch Kinh phu thuyết, Tứ thư ước giải, Xuân thu lược luận.
+ Ngô Thì Nhậm có Xuân thua quản kiến
+ Nguyễn Huy Oánh có Tính lý giản yếu, Tứ thư ngũ giản yếu.
+ Phạm Nguyễn Du có Chu Huấn giản yếu.
Các nhà Nho Việt Nam cũng ít bàn đến tâm học Lục Vương. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm có bàn đến tâm học thì lại cho là huyền hư, trống rỗng. Ở Việt Nam cũng không có phản truyền thống Nho giáo như ở Trung Quốc các thế kỷ XVII, XVIII đã có nhiều học giả xét lại học thuyết Trình Tử, Chu Tử như Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ, Đái Chấn. Đầu thế kỷ XVII, XVIII đã có cả một phong trào phản Nho khá rầm rộ của Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Lỗ Tấn, Ngô Ngu.
Ở Việt Nam cho đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này chưa có hiện tượng “phản Nho” như trên. Nho giáo Việt Nam chưa một lần bị phản truyền thống. Và Kinh học Khổng Mạnh, Trình Chu vẫn là Đạo học. Các nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng và Trường Đông Kinh nghĩa thục chống lại chế độ quân chủ chuyên chế đề cao dân bản- (dân chủ trên một ý nghĩa nhất định) vẫn đề cao Nho giáo. Phan Bội Châu viết Khổng Học Đăng.
3. NHO SỸ VIỆT NAM GẮN LIỀN VỚI NÔNG THÔN, GẦN VỚI NÔNG DÂN.
Thành thị ở Việt Nam vào thế kỷ XVII đã có sự phồng vinh nhất định. Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Huế là nơi có nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, nhưng sang thế kỷ XVIII thì Phố Hiến và Hội An suy thoái dần, chỉ trừ Kinh đô Thăng Long. Số lượng nho sỹ ở phố Hiến rất thấp, có 3 cống sinh, không có tiến sĩ; Hội An vào thế kỷ XVII- XVIII cũng vậy.
Cống sinh (thời Nguyễn gọi là cử nhân) và tiến sĩ hầu hết đều ở thôn quê. Chẳng hạn vào thề kỷ XIX đến 1919.
Tỉnh Nghệ An có 91 vị tiến sĩ, chiếm 16,4% tổng số.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 44 vị tiến sĩ, chiếm 7,93% tổng số;
Tỉnh Thái Bình có 03 vị tiến sĩ, chiếm 0,54% tổng số;
(ít như) Vĩnh Long có 01 vị tiến sĩ, chiếm 0,18% tổng số.
Số lượng 555 vị tiến sĩ với 39 khoa thi thời Nguyễn hầu hết đều ở nông thôn (4). Đó là chưa kể đến 5226 cử nhân của 47 khoa thi mà hầu hết đều sống ở làng quê. Những người làm quan dù được điều động đi nhiều địa phương khi hưu trí cũng trở về quê. Có thể khẳng định Nho sĩ Việt Nam là Nho sĩ nông thôn (5). Điều này có ý nghĩa quan trọng là các sinh hoạt nông thôn đều ít nhiều ảnh hưởng của Nho giáo- Nho sĩ. Tầng lớp sĩ ở nông thôn vừa làm thầy đồ dạy học, vừa bốc thuốc đưa ảnh hưởng Nho giáo vào làng quê.
Tầng lớp sĩ Việt Nam ở nông thôn sinh hoạt gắn với làng xã nên nhiều yếu tố của Nho giáo, đặc biệt là tổ chức gia đình và họ hàng theo chế tông pháp, thâm nhập vào nông thôn khá sâu. Tầng lớp sĩ Việt Nam là nguồn tuyển chọn quan lại cho các nhà nước phong kiến không thuần nhất, lại có số lượng khá đông đảo. Theo Lê Quý Đôn, trong Kiếu văn tiểu lục vào khoa thi hương năm Nhâm Ngọ (1462) của trấn Sơn Nam đã có hơn 4.000 sĩ tử. Khoa thi hương năm Kỷ Mùi (1499) của trấn này cũng có hơn 5000 người ứng thí. Vào thế kỷ XVIII, số lượng ứng thí thi Hương rất nhiều. Triều đình phải hạn chế bằng cách quy định số lượng theo xã huyện. Chẳng hạn kỳ thi hương năm Aát Dậu (1765) huyện lớn cho lấy 70 người, huyện vừa cho lấy 50 người, huyện nhỏ cho lấy 40 người (9). Như vậy số lượng sĩ tử ứng thí vào từng kỳ thi hương ở trấn xứ (thường có 4 trường thi) trên đồng bằng sông Hồng đến Thanh Nghệ cũng đến mấy vạn người.
Vài số liệu trên cho ta biết số Nho sinh qua học hành Nho học ở trong các làng xã thật không phải là ít và được tái sinh liên tục cho đến đầu thế kỷ này. Vào thế kỷ XIX, nhà Nguyễn lại có ý thức tăng cường vai trò của kẻ sĩ trong xã hội về tư tưởng Nho giáo bằng giáo dục- khoa cử và huấn điều.
Tuy nhiên ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam trên cơ sở một xã hội tiểu nông lúa nước với kết cấu phổ biến là gia đình nhỏ (nhiều người nói là gia đình hạt nhân) cũng phải biến chuyển. Các quan niệm hiếu, trung, nhân, lễ (cốt lõi của Nho giáo) khi vào Việt Nam thường gắn liền với nghĩa. Theo chúng tôi, trong các quan hệ họ hàng, làng xã, đất nước của người Việt đều xây dựng trên quan niệm nghĩa, trước hết là nghĩa (Đây cũng là ý kiến của cố Giáo sư Trần Đình Hượu). Nói cách khác, nghĩa là điều kiện hoá của hiếu, của trung, của nhân, của lễ. Người Việt Nam thường nói hiếu nghĩa, trung nghĩa, nhân nghĩa và lễ nghĩa, và dường như hiếu, trung, nhân, lễ phải được hiểu và ứng xử như nghĩa. Có người cho rằng ở Nhật Bản trung chiếm địa vị chủ đạo thì ở Việt Nam, theo chúng tôi nghĩa là vị trí quan trọng hơn, nổi trội hơn.
Ở Việt Nam, chữ trung – cách ứng xử theo chiều xã hội thẳng đứng – với chủ, với vua cũng không tuyệt đối cứng nhắc tạo ra những ngu trung (dường như chỉ có trường hợp Lý Trần Quán cuối thế kỷ XVIII là tiêu biểu nhất). Vào thế kỷ XVIII, chữ thời là phổ biến. Đến cuối thế kỷ XIX sau thất bại và đầu hàng của triều đình Huế trước xâm lược Pháp thì chữ trung (vua) đã bị vứt bỏ.
Nho học – Nho giáo có nội dung uyển chuyển, linh hoạt, có thể thích nghi với các tập đoàn chính trị, nhiều đất nước trong khu vực Á Đông, nhiều tộc người ở Đông Á và Đông Nam Á nhiều trường hợp, thậm chí đối nghịch. Trong lịch sử Việt Nam có Nho học- Nho giáo của Nhà Mạc, nhà Lê, có Nho giáo của Nhà Lê, của nhà Tây Sơn, của nhà Nguyễn và vào nửa đầu thế kỷ XX lại có Nho của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng và của Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim. Chúng tôi cho rằng trong xã hội hiện đại có thể sử dụng tốt nhiều yếu tố Nho học – Nho giáo.
4. TÍNH THỜI SỰ
Ở Việt Nam, Nho học được gọi là Nho giáo. Có lẽ do người Việt tiếp nhận những yếu tốc có tính tôn giáo của Nho học. Bản thân tôi, từ năm 1984 đã phát biểu: “Nho giáo (Việt Nam) cũng giống như là một dạng tôn giáo đặc biệt. Nho giáo tuy ít bàn đến vấn đề sống và chết mà chủ yếu nói đến gia đình tông tộc, đến vua tôi, nhưng rất đề cao tín ngưỡng, đặc biệt tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nho giáo không chủ trương xuất gia, nhưng lại có một hệ thống luân lý hạn chế dục vọng rất chặt chẽ, bắt mọi người phải giữ đúng những quy định, khuôn phép và nghi lễ nghiêm ngặt như một tín đồ” (10). Cho đến bây giờ, về cơ bản tôi vẫn duy trì ý kiến này.
Trong xã hội tiểu nông tự cấp tự túc truyền thống thời Lê Nguyễn với hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ mà nông dân là tuyệt đại bộ phận trong nhân dân. Trên địa bàn nông thôn thì sự tiếp nhận những ảnh hưởng của Nho giáo dưới những lý thuyết triết lý phức tạp thật không dễ dàng. Người nông dân không hiểu nhiều những khái niệm “thiên mệnh”, “Tính lý”, nhưng họ tiếp nhận những ảnh hưởng Nho giáo qua những quan niệm “hiếu, trung”, “lễ, nghĩa” ý thức về củng cố gia đình, họ tộc và cộng đồng qua những hoạt động có tính tôn giáo. Vào thế kỷ XIX, ở nhiều làng quê người Việt Nam xứ Bắc đã có văn chỉ thờ Khổng Tử, người được coi là Thánh, các tiên hiền và các bậc Khoa bảng địa phương. Lời nói của Khổng Mạnh là của Thánh nhân, là tín điều phải tuân thủ nghiêm khắc (như tín điều kinh thánh), không cần bàn luận. Những tín điều Khổng, Mạnh, Trình, Chu dạy bảo trước hết là rèn luyện nhân cách theo hiếu và trung, biết hy sinh cho gia đình, họ tộc và ứng xử với nhau theo lễ và nghĩa trong cộng đồng, xã hội. Con người Nho giáo là con người cộng đồng, con người nghĩa vụ; chuẩn giá trị của Nho giáo không phải ở sự giàu có cá nhân mà là sống có nghĩa vì mọi người khác, vì cộng đồng.
Trong sách Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam (1998) tôi có bàn đến tính thời sự của Nho giáo trong ba điểm sau:
1. Xây dựng gia đình, họ hàng và cộng đồng.
Trong ngũ luân của Nho giáo; quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấn hữu tự, huynh đệ hữu cung, bằng hựu hữu tín thì đã có ba là thuộc vào gia đình. Hơn bất cứ một học thuyết nào khác, Nho giáo coi trọng gia đình.
Như trên đã trình bày, Việt Nam cũng có chế độ Tông pháp trong tờ cúng tổ tiên, trong tang ma – cưới xin và nhiều công việc khác (các dân tộc thiểu số ở Việt Nam không có kiểu Tông pháp ở người Việt). Chế độ Tông pháp trong người Việt là biểu hiện của một cấu trúc xã hội mà phần lớn chịu ảnh hưởng của Nho giáo và văn hoá Đông Á.
Điều kiện kinh tế – xã hội để thực hiện chế độ Tông pháp là chế độ kế kế thừa tài sản – chủ yếu là ruộng đất theo nhiều con (cũng giống như ở Trung Quốc) nhưng lại mở rộng cả phụ nữ (có khác với Trung Quốc: chỉ có nam giới). Chế độ Tông pháp Việt Nam có điểm không giống với Trung Quốc, nói chung không chặt chẽ lắm. Tông pháp Trung Quốc thực hiện phụ quyền gia trưởng nghiêm ngặt, địa vị người phụ nữ rất thấp. Tông pháp Việt Nam rộng thoáng hơn, phụ nữ được phân chia tài sản, tục thờ cúng tổ tiên vừa tiến hành trong gia tộc, vừa tổ chức trong gia đình cá thể (11).
Trong xã hội cận hiện đại, chế độ tông pháp có nhiều nhược điểm như gia trưởng, hạn chế tự do dân chủ bình đẳng, coi khinh phụ nữ, thậm chí ở đây đó trong thôn quê còn tạo ra cục bộ bè phái đưa đến mâu thuẫn xích mích. Điều này được báo chí Việt Nam đề cập và phê phán chính xác. Song khách quan mà nói ở Việt Nam không nên cường điệu quá những hạn chế – nhược điểm trên, bởi lẽ những hạn chế này không cực đoan và phổ biến.
Hiện nay, ở Việt Nam yêu cầu xây dựng và củng cố gia đình như một đơn vị xã hội là công việc cần thiết và lâu dài. Gia đình được củng cố là điều kiện tiên quyết để xã hội được ổn định. Giáo dục gia đình sẽ góp phần ngăn chặn những tệ nạn xã hội. Không nên cho rằng việc củng cố gia đình hiện nay là thuộc chức năng của Nho giáo, nhưng tôi nghĩ rằng ảnh hưởng tích cực của Nho giáo cũng có ý nghĩa quan trọng. Còn những quan hệ thân tộc và một bộ phận của tông pháp còn được duy trì hiện nay là có ý nghĩa tích cực trong các hoạt động kinh tế, trong giáo dục và văn hoá.
Đòi hỏi Nho học – Nho giáo tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế là không thực tế, bởi lẽ Nho giáo trước hết là học thuyết chính trị – xã hội (hơn nữa nó đã xuất hiện cách ngày nay hơn 2000 năm). Nhung Nho học- Nho giáo lại có thể góp phần tích cực tạo ra sự ổn định xã hội một điều kiện quan trọng để phát triển trong nền cảnh văn hoá Đông Á.
2. Nho giáo và giáo dục
Hơn bất cứ một học thuyết cổ đại truyền thống nào, Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”.
Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học – Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục kinh học của Nho giáo đã qua rồi, nhưng phương châm giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức tức là coi trọng nhân cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hoá con người đặc biệt về văn hoá, sử học, triết học. Các sĩ tử cần biết làm thơ phú, kinh nghĩa, hiểu biết lịch sử Trung Quốc và Việt Nam.
Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã thành truyền thống của văn hoá Á Đông trong đó có Việt Nam, thật đáng trân trọng kế thừa.
3. Tư tưởng khoang dung
Đã một thời, nhiều học giả cho rằng học thuyết Nho giáo có nhiều quan niệm xoá nhoà đấu tranh giai cấp, che mờ các mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp, che mờ các mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp. Có là như vậy, nhưng đó là ý kiến lớn trong một giai đoạn lịch sử.
Tư tưởng khoang dung là một trong những tư tưởng lớn của Khổng – Mạnh. Những quan niệm: tứ hải giai huynh đệ, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, dĩ hoà vi quý, kỷ dục lập nhi lập nhân – Kỷ dục đạt nhi đạt nhân trong Luận ngữ thì thực sự là những mệnh đề có ý nghĩa tích cực thể hiện một tinh thần khoang dung nhân hậu.
Xã hội hiện đại, trong một nước, một khu vực chứa bao nhiêu hiện tượng khác biệt thậm chí là mâu thuẫn như: giàu – nghèo, sang – hèn, lạc hậu – tiến bộ, cá nhân – cá nhân, sắc tộc, chủng tộc, chế độ chính trị, nước lớn nước nhỏ… Tất cả những mâu thuẫn trên dù to nhỏ khác nhau đều tạo ra khả năng mất ổn định xã hội, thậm chí còn xung đột.
Trong điều kiện như trên, những tư tưởng của Khổng Tử toát lên tinh thần khoan dung, sống có trách nhiệm với nhau. Tư tưởng đại đồng có ý nghĩa thực tiễn cao.
Trên đây là sơ lược về vấn đề Nho giáo Việt Nam, vừa có điểm chung trong khu vực Đông Á, và có điểm riêng Việt Nam. Nho giáo – trong bộ phận và trên một ý nghĩa xã hội nhất định vẫn còn có ý nghĩa tích cực cần duy trì và phát huy.