Trao đổi, giới thiệu về Maple

Nguyễn Minh Trung
(Nguyen Minh Trung)

New Member
Search với từ Maple trong phạm vi HAO thì chỉ thấy một vài topic, những trao đổi trong đó hầu hết là của những ai đang học ở nước ngoài, những người còn lại (ví dụ như khóa 01-04) thì chỉ tìm hiểu về Maple một cách tự phát. Search trong các diễn đàn người Việt thì cũng heo hút không kém, chưa có nhiều tài liệu trên mạng bằng tiếng Việt cho học sinh và sinh viên Việt Nam tham khảo.

Xuất phát từ nhu cầu của bản thân và ước muốn được trao đổi, giới thiệu một cách có hệ thống hơn về phần mềm toán học này với các bạn học sinh cấp III Ams, các sinh viên kỹ thuật còn đang học đại cương ở trong nước , tôi lập topic tập hợp những sưu tầm và ghi chú của mình về Maple, mong sẽ có ích phần nào trong việc học và ứng dụng toán học vào công việc của mọi người.

Tôi cũng chỉ biết về Maple trong được 2 tháng nên kiến thức về nó còn quá ít ỏi. Mong nhận được sự đóng góp của các anh chị, các bạn có nhiều kinh nghiệm về Maple.

Mục lục

1. Giới thiệu về Maple

2. Mục đích của việc tìm hiểu về Maple

3. Cách sử dụng Maple

4. Tài nguyên Maple


  • Sách tiếng Việt: Tính toán, lập trình và giảng dạy toán học trên MAPLE. Tác giả: Phạm Huy Điển (chính biên). NXB Khoa học và Kỹ thuật 2002. Có thể tìm thấy quyển này ở Thư viện Hà Nội.
  • Maplesoft Resources: http://maplesoft.com/resources/index.aspx
    • Research PowerTools
    • Education PowerTools
 
Chỉnh sửa lần cuối:
MỘT SỐ GIỚI THIỆU VỀ MAPLE

TRỢ THỦ MAPLE TRONG NHÀ TRƯỜNG
TS NGUYỄN QUỐC LÂN
(Bộ môn Toán ứng dụng, ĐH Bách khoa TPHCM)
Echip, số 09 năm 2003

Toán, Lý, Hoá và nhiều môn học khác trong nhà trường sẽ “dễ vô” hơn nếu học sinh nhìn thấy được các minh hoạ sinh động, rõ ràng, dễ hiểu, đồng thời không phải lặp đi lặp lại đến mức nhàm chán quá nhiều biến đổi công thức, tính toán đơn điệu. May mà trên thị trường hiện nay đã có sẵn nhiều phần mềm nổi tiếng hỗ trợ hiệu quả giáo viên, học sinh, sinh viên trong dạy–học, như Maple, Matlab, Matematica...

Đối với tôi, Maple là lựa chọn số 1 (mặc dù Matlab, Matematica,... ắt cũng thuộc hàng Ngũ nhạc kiếm phái - ngang ngửa một chín một mười!).

Hãy so sánh (rất khập khiễng) Maple với công cụ quen thuộc: máy tính bỏ túi. Nếu như máy tính bỏ túi chỉ tính toán với số cụ thể (làm sao máy bỏ túi khai triển!), Maple lại thực hiện được tính toán số lẫn tính toán hình thức. Từ rút gọn biểu thức, tính giới hạn, lấy đạo hàm hàm số tại bất kỳ, tìm nguyên hàm (không phải tích phân xác định nha) ở phổ thông, cho đến khai triển Taylor, tìm nghiệm giải tích của phương trình vi phân (dạng cơ bản), tính định thức, giải hệ phương trình tuyến tính (có tham số) ở đại học, Maple làm cái rẹt trong ε (epsilon) giây!

Còn về vẽ hình, đây là nghề của chàng. Nói chung không chỉ Maple, cả Matlab, Matematica hay hàng loạt phần mềm khác đều minh hoạ xuất sắc đồ thị hai chiều lẫn mặt cong trong không gian ba chiều, đồ thị toạ độ cực, tham số, hàm ẩn. Ác liệt hơn nữa, khả năng cho hình chạy sống động là “chuyện nhỏ” với Maple. Ở lớp học, chẳng hạn thay vì giải thích khản cổ rằng hyperbol là tiết diện sinh ra khi cắt hình nón bằng mặt phẳng song song với trục (khó tưởng tượng quá phải không?), giáo viên cứ việc cho học sinh xem hình sau đây vẽ trong Maple là xong:

maple.jpg


Do đó, khả năng hỗ trợ trực quan của Maple trong việc dạy học phải nói là rất mạnh mẽ. Các giáo viên - giảng viên trên toàn thế giới lập hẳn Maple phái, đặt trụ sở ở http://www.mapleapps.com/, nơi công bố rất nhiều worksheet soạn sẵn trong hàng chục lãnh vực khác nhau để khách lướt qua xem, tải về (download) miễn phí mà sử dụng. Người viết bài này mất trọn cả đợt nghỉ Tết vừa rồi để download sơ sơ gần 1GB (không phải 1MB!) bài giảng về nghiền ngẫm. Mệt xỉu! Nhưng chưa thấm vào đâu vì search trên Google với từ khoá Maple Math, thấy có đến 208.000 địa chỉ bổ sung (!), Teaching with Maple ra 144.000 địa chỉ nữa (!). Đọc hết, chắc chết... quá

Trên thị trường hiện có Maple bẻ khoá với các version 6.0, 7.0.

Maple 8.0 đã được hãng gốc tung ra từ cả năm nay, nhưng xem ra các “thợ bẻ khoá” Việt Nam vẫn đầu hàng (hay chưa thèm rờ đến?). Vài năm trước, theo hiểu biết nông cạn của người viết, mới chỉ có một cuốn sách hướng dẫn sử dụng Maple bằng tiếng Việt, nhưng bây giờ cũng đã thuộc hàng thất truyền. Nếu sau khi viếng thăm http://www.mapleapps.com/ và muốn thử sử dụng, sau khi cài đặt Maple, hãy vào phần Tutorials ở địa chỉ trên và download về tập bài giảng Maple Essentials (dạng nén, chỉ có 78,8kB). Mọi hướng dẫn đã được trình bày tỉ mỉ. Bạn chỉ cần một chút kiên nhẫn để làm quen và sử dụng thuần thục Maple.

Nói về Maple trong vài trăm chữ cũng như... bỏ muối xuống biển. Tốt nhất, bạn hãy tự xem và rút ra kết luận. Thực tế, Maple và các phần mềm khác đang làm thay đổi cách suy nghĩ, dạy và học Toán ở nhà trường đến mức nghe đâu sẽ có hẳn hòi một cuộc hội thảo về “Dạy và học Toán trong thời đại mới” vào cuối năm nay ở Việt Nam!
 
MỘT SỐ GIỚI THIỆU VỀ MAPLE

Tính toán, lập trình và giảng dạy toán học trên Maple
Tác giả: Phạm Huy Điển (chính biên) - NXBKHKT

Trích "Lời giới thiệu" của cuốn sách

Lời giới thiệu

Ngày nay, mọi người đều biết đến vait rò tiên phong của Toán học trong cách mạng khoa học công nghệ nói riêng, và trong nền kinh tế tri thức nói chung. Một thực tế là ở đâu biết sử dụng toán học như một công cụ làm việc thì ở đó thường thu được những kết quả bất ngờ. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay toán học vẫn còn ít được sử dụng trong công việc thường ngày. Một trong những rào cản khiến cho những thành quả của toán học cao cấp chưa thâm nhập sau sắc vào thực tiễn sản xuất là vì chúng chưa dễ dàng sử dụng. Thực tế cho thấy không mấy kỹ sư, cử nhân tốt nghiệp đại hcọ có thể tự mình giải quyết một bài toán nảy sinh từ thực tiễn công việc. Toán học cao cấp chỉ có thể đi vào cuộc sống thường ngày nếu các phép tính phức tạp của nó trở nên khả thi và dễ dàng, tương tự như các phép tính trên máy bấm tay, mà không đòi hỏi các kiến thức về lập trình trên máy tính, vốn xa lạ với hầu hết mọi người. Đây là vấn đề bức xúc đặt ra không chỉ riêng ở Việt nam mà là ở khắp nơi, kể cả các nước phát triển. Nhờ những nỗ lực chung của rất nhiều chuyên gia trên thế giới mà một số phần mềm tính toán đã ra đời, ngày càng mạnh và ngày càng thân thiện với người sử dụng.

...

Qua cuốn sách, người đọc sẽ thấy các tính toán cao cấp không đòi hỏi sự hiểu biết về lập trình máy tính mà chỉ cần những kiến thức toán học cơ bản, vốn không khó tiếp thu và có thể tìm thấy trong bất cứ cuốn sách giáo khoa chuẩn mực nào. Với cong cụ tính toán dễ dàng sử dụng, những học sinh bình thường sẽ có đủ năng lực giải quyết hàng loạt bài toán khó mà ngay cả những học sinh rất giỏi cũng không thể nào giải nổi, nếu chỉ dùng các mẹo mực tính toán thủ công. Có thể nói, với phần mềm tính toán trên máy, Toán học thực sự trở thành công cụ cho mọi người.

Cuốn sách này là một tài liệu tham khảo tốt cho các thầy và là cẩm nang tốt cho sinh viên các trường tổng hợp, sư phạm, bách khoa và các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật.

GS.TSKH. Trần Đức Vân



~ o ~ o ~ o ~ o ~ o ~ o ~ o ~ o ~ o ~



Trích "Lời nói đầu"

Lời nói đầu

Một thực tế đã được biết từ lâu là những bài toán đặt ra trong thực tiễn thường không thể giải quyết bằng những mẹo mực tính toán mang tính thủ công, mà phải dùng tới năng lực tính toán của máy tính điện tử. Phần mềm tính toán ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, đưa các tính toán phức tạp (kể cả phổ thông lẫn cao cấp) trở thành công cụ làm việc dễ dàng cho mọi người.

Toán học là thống nhất nên các phần mềm tính toán cũng có cấu trúc cơ bản gần giống nhau. Vì vậy, nếu biết sử dụng một phần mềm nào đó thì cũng dễ dàng sử dụng được các phần mềm khác. Trong tài liệu này, chúng tôi giới thiệu phần mềm tính toán Maple, hiện đang được dùng rất phổ biến ở các trường đại học và trung học trên thế giới.

Điều đáng lưu ý là việc sử dụng các phần mềm tính toán hiện đại không đòi hỏi người sử dụng phải có kỹ năng lập trình (như trước đây không lâu), mà chỉ yêu cầu họ nắm vũng các kiến thức lý thuyết cơ bản. Qua đây, ta sẽ thấy đã đến lúc cần xác định cho đúng cái gì cần phải dạy và học. Những kiến thức lý thuyết vốn không khó tiếp thu như các mẹo giải bài tập luyện thi, nhưng khi biết sử dụng qua các chương trình tính toán trên máy thì sẽ trở thành sức mạnh vô song mà không lò luyện nào có thể sánh được, nhất là trong việc xử lý các bài toán nảy sinh từ thực tiễn. Những kiến thức về thực hành tính toán trên máy chắc chắn cũng không khó tiếp thu hơn các kiến thức lý thuyết, và đây chính là điều mà tác giả tài liệu này hy vọng người đọc sẽ tự mình kiểm nghiệm.

Mục đích cuối cùng của cuốn sách, và cũng là mong muốn cao nhất của các tác giả, là để người đọc tự mình kiểm định một điều đơn giản: thời nay, Toán học không còn là huyên bí.

Các tác giả
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tớ cũng có dùng qua Maple và Matlab.
Maple thì đã từng dùng để giải pt vi phân, vẽ nghiệm, tính tích phân...
Matlab thì đã từng dùng để viết mấy thuật toán giải tích số!
Nói chung vẫn chỉ ở mức làm bài tập ( vớ vẩn :) ) chứ chưa đến mức độ sử dụng để nghiên cứu, nên cũng không biết nhiều lắm để nói. :-?
Chỉ thấy hơi lạ sao người ta lại xây dựng được phần mềm tính toán hình thức được thì cũng giỏi thật!!! Hình như là nếu muốn dùng Maple tính nguyên hàm , nếu như nguyên hàm đó là biểu diễn được qua các hàm sơ cấp thì thể nào Maple cũng tính ra!! :x. Chỉ có điều nếu như nguyên hàm đó không biểu diễn được qua các hàm sơ cấp thì Maple sẽ cho ra một số kết quả khá khôi hài :D ( cái này đọc sách )
 
Sử dụng Maple trong dạy và học Toán

5.1. NHẬN XÉT CHUNG

5.1.1. Phần mềm toán học và vai trò của người thầy

Một số người ít tiếp xúc với máy tính thường tưởng rằng máy tính vào nhà trường sẽ làm cho học sinh lười học toán và làm cho các thầy dạy toán "mất thiêng". Nếu quan niệm rằng "học toán là để làm bài tập, còn dạy toán là dạy cách làm bài tập" thì đúng như vậy. Trên thực tế, máy tính sẽ làm cho các mẹo mực, tiểu xảo giải bài tập trở thành "tầm thường". Trình độ toán học của mỗi người sẽ được thể hiện (đánh giá) bằng khối lượng kiến thức cơ bản và khả năng xử lý các bài toán thực tiễn (mà không qua mẹo mực làm bài tập, như lâu nay người ta vẫn lầm tưởng). Điều này tất yếu đưa đến định hướng việc dạy và học vào những kiến thức Toán học cơ bản và, theo định hướng này, vai trò người thầy sẽ được nâng cao lên đúng tầm của mình: người thầy của sự nghiệp truyền bá "văn hóa toán học" chứ không phải là "thợ chữa bài tập".

Không ít người vẫn có ảo tưởng về những phần mềm có thể thay thế người thầy trong giảng dạy toán học. Nhưng cho đến nay, với các khả năng tính toán và biểu diễn tuyệt vời, phần mềm và máy tính vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng này. Ngoại trừ một số chủ đề sơ đẳng được thể hiện bằng những phần mềm dạng "học mà chơi - chơi mà học", việc giảng dạy những kiến thức cơ bản của Toán học vẫn đòi hỏi công sức và tài năng sư phạm của người thầy, còn máy tính và phần mềm chỉ có thể là công cụ đắc lực cho người thầy phát huy tài năng đó.

Ngày nay, trong nhà trường (kể cả các trường phổ thông ở nông thôn), máy tính không còn là xa lạ, những việc để cho máy tính điện tử (cùng các phần mềm) thực sự trở thành công cụ cho việc giảng dạy của thầy và học tập của trò vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng lý do cơ bản là thiếu những phần mềm và phương pháp thiết thực phù hợp với đối tượng và nội dung chương trình sách giáo khoa hiện hành ở nước ta. Khi không còn ảo tưởng rằng phần mềm có thể làm nên tất cả, người ta sẽ thấy rằng một trong những vấn đề cần phải đặt ra một cách nghiêm túc là: Không thể chỉ biết sử dụng những gì có sẵn, mà còn phải biết gia công các chương trình hiện có, hướng chúng vào việc phục vụ cho nội dung, phương pháp giảng dạy của mình, và chỉ có như thế, người thầy mới phát huy được các ưu thế sở trường của mình.

Như vậy, với phần mềm và máy tính, người giáo viên chẳng những không được phép ỷ lại một cách thụ động vào những gì có sẵn, mà phải chủ động phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình. Qua đó, vai trò của người thầy không hề bị máy móc lấn lướt, mà được nâng lên tầm cao hơn: Người thầy của sự sáng tạo trong thời đại công nghệ mới, mà không phải của sự nhồi nhét các loại tiểu xảo thông thường.

5.1.2. Maple chưa phải đã sẵn sàng cho mọi việc

... Tuy nhiên, Maple là một hệ thống mở, nó cho phép chúng ta tạo lập được những công cụ mới bổ sung cho những gì nó chưa đề cập tới ...

5.1.3. Maple đã sẵn sàng cho nhiều việc

Trích Tính toán, lập trình và giảng dạy toán học trên MAPLE

--------------------------------

Nguyễn Hoàng Dũng đã viết:
Tớ cũng có dùng qua Maple và Matlab.
Maple thì đã từng dùng để giải pt vi phân, vẽ nghiệm, tính tích phân...
Matlab thì đã từng dùng để viết mấy thuật toán giải tích số!
Nói chung vẫn chỉ ở mức làm bài tập ( vớ vẩn :) ) chứ chưa đến mức độ sử dụng để nghiên cứu, nên cũng không biết nhiều lắm để nói. :-?
Chỉ thấy hơi lạ sao người ta lại xây dựng được phần mềm tính toán hình thức được thì cũng giỏi thật!!! Hình như là nếu muốn dùng Maple tính nguyên hàm , nếu như nguyên hàm đó là biểu diễn được qua các hàm sơ cấp thì thể nào Maple cũng tính ra!! :x. Chỉ có điều nếu như nguyên hàm đó không biểu diễn được qua các hàm sơ cấp thì Maple sẽ cho ra một số kết quả khá khôi hài :D ( cái này đọc sách )
Cảm ơn anh đã vào cho ý kiến. Em cũng chưa biết gì nhiều về Maple nên mọi chỉ dẫn của mọi người đều đáng quý. :). Mà mục đích cuối cùng của topic không phải là "dạy" Maple mà chỉ là "phổ biến" thôi.
 
5.2. MỘT SỐ ỨNG DỤNG TRỰC TIẾP

5.2.1. Maple là công cụ minh họa hoàn hảo
1. Những minh họa thông thường
2. Một số đồ thị không đơn giản
5.2.2. Maple gỡ bỏ sự huyền bí cho một số chủ đề
1. Lệnh vẽ dãy điểm: công cụ nền tảng trong đồ họa phẳng
2. Giải phương trình và phương pháp đồ thị
3. Maple cho phép đề cập những chủ đề hóc búa và khuyến khích tìm tòi sáng tạo
5.2.3. Maple hỗ trợ giảng dạy các chủ đề khó

Một nét nổi bật của các phần mềm tính toán hiện đại là chúng không chỉ biết giúp ta tính toán, mà còn có khả năng hỗ trợ đắc lực cho tư duy, suy luận, và do đó nó rất hữu ích trong giảng dạy cũng như nghiên cứu khoa học. Nó là công cụ hỗ trợ cho ta vượt qua các điểm khó trong chương trình, các chủ đề liên quan đến những khái niệm cơ bản Toán học, như: giới hạn, hàm số, đạo hàm, tích phân, … Cái khó ở đây không phải là ơ chỗ giải cho được các bài tập toán, mà là ở chỗ giảng sao cho học sinh hiểu được bản chất của các khái niệm này cũng như các phương pháp tư duy, lý luận do chúng mang lại. Cho đến nay, đây vẫn là công việc mà hầu hết các thầy dạy Toán đều ngại và muốn né tránh. Với sự hỗ trợ của Maple, chúng ta có thể từng bước khắc phục được tình trạng này. Sau đây là một số ví dụ minh họa.

1. Chủ đề giới hạn

2. Chủ đề Hàm số
3. Chủ đề Tích phân
5.2.4. Phần mềm hỗ trợ khả năng thu gọn chương trình một cách hợp lý

Tính toán, lập trình và giảng dạy toán học trên MAPLE
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Chủ đề Tích phân

Chủ đề Tích phân

Tích phân xác định cũng là một khái niệm khó. Tuy nhiên, máy tính có thể góp phần làm giảm bớt khó khăn trong quá trình nhận thức bản chất của khái niệm này.

a) Minh họa cho định nghĩa

Tổng Riemann là một khái niệm khá "mơ hồ" đối với những người mới tiếp xúc lần đầu. Việc minh họa nó bằng tổng diện tích các hình chữ nhật nhỏ (ứng với các số hạng của tổng) phần nào đã làm giảm bớt tính trừu tượng của nó. Tuy nhiên, cho đến nay, một cuốn sách giáo khoa tốt, hay một thầy giáo giỏi về khả năng minh họa thì cũng mới chỉ đưa ra được những minh họa tương tự như là vẽ hình vẽ sau đây:

52311.jpg


Tổng diện tích các hình như nhật “mảnh mai” trong hình vẽ trên chính là tổng Riemann của hàm

sin(x[sup]2[/sup]+x-1)-cos(x[sup]2[/sup]-x+1)+3

trên đoạn [-3,3], với phân hoạch được họn gồm 15 đoạn bằng nhau và các điểm được chọn là điểm giữa các đoạn con trong phân hoach. Rõ ràng, nếu chỉ với một hình vẽ minh họa này, học sinh khó mà hình dung được rằng khi phân hoạch càng mịn thì tổng diện tích mớ hình chữ nhật lổn nhổn này lại có thể gần tới diễn tích của hình thang cong (xác định bởi hàm số). Muốn thấy được điều này ta cần đưa ra một dãy hình vẽ minh họa thể hiện rằng quá trình xấp xỉ hình thang cong đạt độ chính xác càng cao khi phân hoạch càng mịn. Rất khó thực hiện việc này bằng thủ công, nhưng với máy tính thì lại là chuyện dễ. Bằng cách lấy bề rộng phân hoạch bước sau bằng nửa bước trước, chỉ cần qua 3 bước ta đã có được kết quả như ý muốn:

[> middlebox(sin(x^2+x-1)-cos(x^2-x+1)+3,x=-3..3,30);
middlebox(sin(x^2+x-1)-cos(x^2-x+1)+3,x=-3..3,60);
middlebox(sin(x^2+x-1)-cos(x^2-x+1)+3,x=-3..3,120);

52313.jpg


52314.jpg


52315.jpg


Để cho thuyết phục hơn, ta có thể đưa ra hang loạt ví dụ khác phức tạp hơn nữa, nhưng cũng sẽ thu được kết quả tương tự. Điều này chỉ có thể khả thi khi có sự hỗ trợ của máy tính.


b) Tính toán tích phân xác định


Thói quen thiên về tính toán thủ công thường làm cho người ta không thích tiếp xúc với một công thức cồng kềnh như tổng Riemann. Nhưng với máy tính thì việc tính tổng này (và tìm giới hạn của nó) lại chẳng có gì khó khăn. Nếu một việc bình thường như khai căn một số ta vẫn cần nhờ máy tính thì sao việc này lại không ? Nhất là khi việc bảo máy tính tích phân xác định cũng đơn giản như bảo là nó khai căn một số. Thí dụ, ta dễ dàng cho máy lấy tích phân của hàm x.ln(x) trên đoạn ơ1,2] bằng một lệnh như trong ngôn ngữ đời thường:

[> int(x*ln(x),x=1..2);

tichphan1.jpg


Đành rằng, đối với một số hàm cụ thể thì việc tính tích phân bằng mẹo (qua nguyên hàm) có thể đơn giản hơn là tính theo định nghĩa (qua tổng Riemann), nhưng ta cũng biết rằng số các hàm này chẳng đáng là bao trong cái thế giới mênh mông của những hàm khả tích (cũng như là tập các số chính phương trong thế giới số thực).

Việc tính tích phân theo biểu thức định nghĩa có vẻ như cồng kềnh, nhưng luôn luôn khả thi, và vì vậy có tính “vạn năng”. Bằng cách này, máy tính được cả tích phân của những hàm mà các mẹo mực, tiểu xảo phải đầu hàng. Ví dụ sau đây là một minh chứng. Hàm số dưới dấu tích phân có nguyên hàm không thể tìm được nhờ các loại mẹo mực và tiểu xảo (và do đó việc tính tích phân này thông qua nguyên hàm là không thể thực hiện được), nhưng việc tính trực tiếp qua định nghĩa thì lại chẳng có vấn đề gì.

[> int(sin(x)/(x+sqrt(x)),x=0..1);

tichphan2.jpg


[> evalf(%,50);

0.36157920777170109600854710939684229748998403592973


c) Bản chất quan hệ giữa tích phân xác định và nguyên hàm

Khi không có máy, việc tính tích phân xác định thông qua nguyên hàm (dùng công thức Newton-Leibnitz) là biện pháp phổ biến (chủ yếu là để giải các bài tập trong sách giáo khoa). Không ít người đã "tuyệt đối hóa" giải pháp bất đắc dĩ này, coi nó là con đường "tất yếu". Nhận thức sai lệch đó đã khiến cho người ta xem nhẹ vai trò của khái niệm tích phân xác định, thậm chí coi nó chỉ như một thứ được “dẫn suất” từ nguyên hàm.

Bây giờ, với máy tính, ta thấy rằng con đường tưởng là "thứ yếu" lại hóa ra giải pháp vạn năng, còn biện pháp kia tưởng là "phổ biến" thì lại chỉ là công cụ giải quyết một số ví dụ cá biệt. Hơn thế, ta còn nhận ra một điều có tính bản chất: Tích phân xác định chính là công cụ vạn năng để tính nguyên hàm. Thật vậy, một trong những định lý cơ bản của phép tính tích phân xác định khẳng định rằng khi hàm số f liên tục thì nó có tích phân xác định trên mọi đoạn (và, như ta đã thấy, là luôn luôn tính được). Nghĩa là, hàm số

tichphan3.jpg

được xác định (tính được) tại mỗi x, và quá trình chứng minh định lý Newton-Leibnitz đã chỉ ra rằng hàm này có đạo hàm là f(x), hay cũng có nghĩa nó là một nguyên hàm của f(x).

Chính điều này đã cho thấy rằng mọi hàm liên tục đều có nguyên hàm, và như vậy sự tồn tại nguyên hàm của một hàm liên tục là hệ quả của sự tồn tại tích phân xác định đối với hàm liên tục. Rõ ràng, những nguyên hàm không thể tính được bằng mẹo mực, tiểu xảo thì đều có thể tính được qua tích phân xác định.

Thí dụ: Không có mẹo này có thể giúp ta tìm được nguyên hàm của hàm số

tichphan4.jpg


nhưng ta có thể tìm được nó qua phép tính tích phân xác định, bằng cách đặt

[> G(x):=int(sin(t)/(t+sqrt(t)),t=0..x);

tichphan5.jpg


Máy tính cho ta biết mọi thông tin về hàm này, đầy đủ và phong phú như bất kỳ một hàm quen thuộc nào khác. Ta có thể bảo máy cho xem giá trị của hàm tại bất kỳ điểm nào, và hơn thế, ta có thể cho máy vẽ đồ thị của hàm trên một đoạn bất kỳ, bằng lệnh:

[> plot(G(x),x=0..10);

52316.jpg



d) Dạy tích phân thế nào cho hợp lý


Do khuynh hướng ngại tiếp xúc với tổng Riemann, đã xuất hiện những “giải pháp” né tránh nó (một cách gián tiếp). Thông thường nhất là người ta đưa ra phép tính nguyên hàm (như phép tính ngược của phép lấy đạo hàm) rồi xem tích phân xác định như một khái niệm dẫn suất từ phép tính nguyên hàm (bằng hiệu của giá trị nguyên hàm tại 2 đầu cận lấy tích phân). Rất tiếc rằng những người nghĩ ra giải pháp khôn ngoan này lại không đưa ra tra lời cho những câu hỏi không tránh khỏi như:



  • Với những hàm không tính được nguyên hàm một cách trực tiếp bằng định nghĩa (như đã thấy ở trên) thì giải quyết như thế nào ? Sẽ tính qua cái gì nếu như ta không có trước khái niệm tích phân xác định ?
  • Một người thầy nghiêm ttúc thì chỉ nên bắt học sinh thừa nhận những gì mà bản thân thầy biết chắc là chứng minh được. Khi yêu cầu học sinh thừa nhận rằng mọi hàm liên tục đều có nguyên hàm, thì liệu người thầy có chắc rằng mình chứng minh được điều này (mà không dùng đến định lý về sự tồn tại tích phân xác định của một hàm liên tục) ?
Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là những câu hỏi bức xúc nhất của người thầy giáo. Vấn đề đáng băn khoăn nhất vẫn là : Việc từ chối khái niệm tổng Riemann cũng là từ chối các ứng dụng có tính bản chất của tích phân xác định như: tính diện tích, tính thể tích, tính moment … Như vậy, học sinh biết tính tích phân để làm gì nếu như họ không biết được bản chất đích thực của nó là bắt nguồn từ các tính toán ứng dụng trong cơ, lý … ? hơn nữa, cách dạy lộn ngược như thế này sẽ gây khó khăn như thế nào cho các em khi tiếp xúc với các khái niệm tích phân một cách bài bản, như trong các trường đại học trên thế giới ? chắc chắn một học sinh chưa biết gì về tích phân (theo kiểu này) sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.

Thực ra, không cần thiết phải né tránh khái niệm tổng Riemann, khi ta đã có phương tiện tính toán nó một cách dễ dàng. Vấn đề chỉ là làm sao để nó trở nên dễ hiểu hơn đối với từng loại đối tượng. Có lẽ, cái thường làm cho người ta bối rối khi tiếp xúc với tổng Riemann là ở chỗ nó có vẻ như bất định (với bể rộng cho trước, ta muốn chọn phân hoạch thế nào cũng được). Nhiều người đã nhận xét rằng, với học sinh phổ thông, có thể chỉ nên xét các phân hoạch đều (dĩ nhiên người thầy có thể gọi tổng này bằng một cái tên khác, nếu ai đó dị nghị rằng đây chưa phải là tổng Riemann theo đúng nghĩa). Dù sao, ta có thể hoàn toàn yên tâm rằng đây cũng là một dạng riêng của tổng Riemann và nếu hàm là khả tích thì tích phân của nó cũng bằng giới hạn của dãy tổng Riemann kiểu này. Như vậy, tuy chưa thật chặt chẽ, nhưng ta vẫn cho học sinh cảm nhận được bản chất của tích phân xác định, và quan trọng hơn cả là ta đã đi theo đúng phương pháp của phép tính tích phân, để rồi sau này khi tiếp xúc với định nghĩa theo đúng bài bản thì học sinh sẽ không còn gì phải ngỡ ngàng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Chủ đề giới hạn

a) Các phương pháp biểu diễn dãy điểm

Bằng lệnh vẽ dãy điểm, Maple có thể minh họa một dãy số dưới dạng một tập điểm trên trục số như ta vẫn thường làm. Thí dụ, ta minh họa 100 điểm đầu của dãy

limit1.jpg


bằng lệnh sau đây (sau khi gọi công cụ vẽ bằng lệnh with(plots)):

[> pointplot([seq([1/(n+3),0],n=1..100)],symbol=box,color=red);


5231.jpg



Ta thấy mỗi điểm hiện ra như một ô vuông nhỏ màu đỏ (dĩ nhiê, ta có thể gán cho điểm nhiều loại hình thù và màu sắc khác nữa). Cách biểu diễn truyền thống này có một ưu điểm là cho phép ta dễ dàng phát hiện ra các điểm tụ rồi tính ra tính hội tụ của dãy (nếu điểm hội tụ chỉ có duy nhất một thì dãy hội tụ, còn ngược lại thì dãy không hội tụ). Thí dụ, đối với dãy

limit2.jpg


ta có minh họa 100 phần tử đầu tiên như sau:

5232.jpg

Tuy nhiên, phương pháp minh họa này có một nhược điểm là không cho ta thấy được thứ tự các phần tử trong dãy (việc đánh dấu tên các điểm không thể thực hiện được khi các điểm ở quá gần nhau). Ngoài ra, khi hai phần tử (phân biệt) của dãy có giá trị bằng nhau thì chỉ được biểu diễn bằng 1 điểm, do đó nếu có rất nhiều phần tử có giá trị như nhau thì cũng chỉ được biểu diễn bởi 1 điểm, và trên hình vẽ ta sẽ không nhận ra được nó là điểm hội tụ hay điểm cô lập.

Có một cách minh họa khác, khắc phục được các nhược điểm của phương pháp minh họa trên, cho phép ta phân biệt được các phần tử có cùng giá trị. Phương pháp này cũng được dựa vào lệnh vẽ dãy điểm, nhưng cho phép các điểm rải trên mặt phẳng 2 chiều, mà không buộc chúng nằm trên trục hoành. Thí dụ, với dãy như trên ta có minh họa sau:

[> pointplot([seq([n,(-1)^n+sin(n)/(n+3)],n=1..100)],symbol=cross,color=red);

5233.jpg


Ta dễ dàng nhận ra rằng, hoành độ của mỗi điểm (trong cách biểu diễn này) cũng chính là chỉ số của phần tử tương ứng trong dãy. Nếu chiếu các điểm lên trục tung thì ta sẽ nhận được tập điểm biểu diễn dãy theo phương pháp minh họa thứ nhất.


Ta sẽ quy ước gọi cách biểu diễn thứ hai này là biểu diễn 2 chiều (và cách biểu diễn trước là biểu diễn 1 chiều). Từ đây về sau ta sẽ chỉ dung cách biểu diễn 2 chiều để tránh các "nhập nhằng" có thể xảy ra.

b)Dãy hội tụ


Phương pháp minh họa dãy số bằng một dãy điểm giúp ta dễ dàng hình dung ra được thế nào là một dãy số hội tụ đến 0. Thí dụ, để xem xét tính hội tụ của dãy số

limit3.jpg


ta dung lệnh vẽ 100 điểm của dãy (từ thứ 1 đến thứ 100):

5234.jpg


Kết quả cho ta thấy một dãy các điểm, tuy "dao động" xung quanh trục hoành nhưng có tính chất rất rõ ràng là càng xa gốc tọa độ (ứng với n càng lớn) thì càng gần sát vào trục hoành (tức là càng gần với 0). Có thể vẽ bất cứ một "khúc đuôi" nào của dãy ta cũng sẽ thấy rằng, nếu càng xa gốc tọa độ, chúng càng cùng nhau bám sát quanh trục hoành. Thí dụ, bằng một lệnh tương tự như trên, ta có thể xem các điểm ở khúc đuôi với chỉ số từ 200 đến 9000, và ta sẽ thấy (sau khi phóng đại theo chiều dọc để so sánh)

5235.jpg


Rõ ràng là các điểm ở khúc sau này còn bám sát trục hoành hơn là các điểm khúc trước. Có thể vẽ bất cứ khúc đuôi nào khác ta cũng đều thấy tính chất như vậy (càng ở xa thì càng sát trục hoành). Đó chính là bản chất cả dãy số hội tụ đến 0.


c) Dãy không hội tụ


Tương tự như trên, ta có thể cho được một hình dung dễ dàng về dãy không hội tụ tới 0, đó chính là những dãy mà ta luôn tìm được những điểm ở xa gốc tọa độ mà vẫn không bám gần trục hoành.

Thí dụ, với dãy số

limit4.jpg


Ta quan sát 150 điểm đầu của dãy và thấy rằng

5236.jpg


Rõ ràng, mặc dù phần lớn các điểm có thể nằm gần trục hoành, nhưng ta luôn tìm thấy (ngay cả ở xa gốc tọa độ) có những điểm không gần trục hoành. Nếu lấy một khúc đuôi xa hơn nữa tình hình cũng cứ như thế (chỉ xin lưu ý rằng khúc đuôi nên lấy đủ dài để không “lọt” các phần tử “lẻ loi” này, vì chúng khá thưa).

Đó chính là bản chất của dãy không hội tụ về 0.

Một ví dụ khác, phức tạp hơp chút, nhưng cho ta hình dung rõ nét hơn về bản chất của dãy không hội tụ. Trong ví dụ này, các phần tử “vô tổ chức” ở các khúc đuôi không thưa thớt, mà khá đông đúc. Xét dãy số


Nhờ lệnh vẽ dãy điểm ta có được các minh họa của sau đây về 1000 phần tử đầu

5237.jpg


Và các khúc đuôi của dãy (từ 1000 đến 2000, và từ 2000 đến 3000) cũng được thể hiện như sau:

(Minh họa khúc đuôi của dãy từ phần tử thứ 1000 đến phần tử thứ 2000)

5238.jpg


Lưu ý rằng phần lớn các phần tử của dãy là nằm gần sát trục hoành, cho nên ta thấy trục hoành như một vạch đen (mà không như một đường thẳng).

Nếu hiểu được thế nào là một dãy số hội tụ về 0 thì sẽ dễ dàng hiểu được thế nào là một dãy số hội tụ về một số a nào đó, vì rằng dãy {u[sub]n[/sub]} hội tụ tới a khi và chỉ khi dãy v[sub]n[/sub]=u[sub]n[/sub]-a là hội tụ tới 0.

Rõ ràng, bằng phương pháp tương tự, ta dễ dàng minh họa bản chất của 2 nguyên lý cơ bản trong phép tính giới hạn, đó là: nguyên lý về giới hạn của dãy đơn điệu bị chặn và nguyên lý về giới hạn của dãy bị kẹp giữa 2 dãy có cùng giới hạn. Bạn đọc hãy tự mình thực hiện điều này.
 
Chủ đề Hàm số

a)Khái niệm hàm số

Hàm số là một chủ đề không dễ dạy trong chương trình phổ thông, và có không ít thầy cô muốn bỏ qua chủ đề này. Cái khó là ở chỗ: chủ đề này luôn được xem là then chốt, mà lại chẳng có gì để dạy. Ngoài câu định nghĩa khá trừu tượng “hàm số” là một phép cho tương ứng mỗi số x (trong miền xác định) với một số y (trong miền giá trị) …” người thầy chỉ còn biết viện ra vài biểu thức đại số quen biết để minh họa (thường là các đa thức, phân thức với biến x), và kết quả là phần lớn học sinh luôn hiểu nhầm hàm số là một biểu thức đại số. Muốn cho học sinh có được cái nhìn toàn diện hơn về hàm số thì phải có được các minh họa có tính thuyết phục hơn, phải cho học sinh thấy được phép ứng là một khái niệm tổng quát hơn là việc tính giá trị của biểu thức đại số thông thường. Máy tính là một công cụ hỗ trợ rất tốt cho thầy trong tình huống này. Sau đây là ví dụ về một hàm số “chưa quen thuộc” nhưng thể hiện một cách rất rõ nét bản chất “phép ứng” của hàm số (dĩ nhiên các thầy có thể tìm nhiều hàm đơn giản hơn cho học sinh dễ hiểu, ở đây chỉ trình bày một thiứ dụ có tính điển hình và phục vụ cho việc đi xa hơn sau này).

Trong phần giới hạn dãy số chúng ta đã biết rằng với mỗi số x thì giới hạn của dãy số sau đây là tồn tại

hamso2.jpg


Như vậy, ta có thể thiết lập được một phép ứng: cho mỗi số x tương ứng với giá trị của giới hạn dãy số nêu trên. Khi ấy, theo định nghĩa, ta có được một hàm số và có thể ký hiệu nó là E(x), tức là:

hamso1.jpg


Cho đến nay, những hàm số kiểu này còn ít được xem xét là vì việc tính giá trị của nó (bằng thủ công) thường rất khó khăn, ngoại trừ tại một số điểm rất đặc biệt. Máy tính chính là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho ta khắc phục vấn đề này. Máy dễ dàng tính cho ta giá trị của hàm tại bất kỳ điểm nào. Trước hết ta dạy cho máy biết định nghĩa của hàm số bằng câu lệnh theo đúng ngôn ngữ toán học đời thường:

[> E:=x->limit((1+x/n)^n,n=infinity);

hamso1.jpg


Sau khi cho thực hiện lệnh (cũng tức là khai báo xong hàm số), ta có thể tính giá trị của hàm số tại bất kỳ điểm nào. Chỉ xin lưu ý rằng giá trị của hàm thường là những số vô tỷ "lạ hoắc" mà ta chưa từng biết đến (và do đó chưa có ký hiệu biểu diễn), cho nên muốn nhận biết nó thì cần dung lệnh xem xấp xỉ thập phân (với độ chính xác do ta tùy chọn), như ta vẫn thường làm với các số vô tỷ quen biết khác. Thí dụ, muốn biết giá trị của hàm tại một số điểm như x=1.25, x=2.3, x=-0.7 … (với độ chính xác tới 50 chữ số thập phân chẳng hạn) ta sử dụng các lệnh:

[> evalf(E(1.25),20);
3.4903429574618413761

[> evalf(E(2.3),20);

9.9741824548147207400

[> evalf(E(-0.7),20);

0.49658530379140951470

Cứ như vậy, ta có thể tính giá trị của hàm tại bất kỳ điểm nào. Và như vậy, hàm số E(x) đã được xác định theo đúng bài bản định nghĩa.

Một điều cần lưu ý là máy tính xử lý các hàm số không quen thuộc kiểu này cũng giống hệt như các hàm số bình thường. Nghĩa là ta có thể tính giới hạn, xét tính liên tục, lấy đạo hàm, vẽ đồ thị … của nó một cách dễ dàng. Ví dụ, ta cho máy vẽ đồ thị của hàm trên đoạn [-2,3] bằng lệnh

[> plot(E(x),x=-2..3);

52310.jpg


Thực ra, những hàm số phải tính nhờ máy (như hàm kiểu này) không phải là ít gặp. Các hàm lượng giác là những ví dụ khá điển hình, và quen thuộc hơn nữa hơn là những hàm có chứa căn thức.

b)Hàm số mũ

Những người tìm hiểu sâu về toán đều biết rằng hàm số mũ là một chủ đề khó, khó ngay từ khâu định nghĩa lũy thừa bậc vô tỷ của một số. Trong các sách giáo khoa phổ thông (lớp 11-12) hiện nay việc định nghĩa hàm số mũ chỉ mang tính phiến diện, cốt sao cho học sinh thừa nhận rằng lũy thừa bậc vô tỷ cũng giống như lũy thừa bậc hữu tỉ. Các sách giáo khoa đại học ở ta thì lại coi hàm số mũ là một khái niệm đã biết từ phổ thông nên cũng không cho một định nghĩa chính xác. Vấn đề đặt ra: Liệu có thể định nghĩa một cách nghiêm túc về mặt toán học hàm số mũ trong chương trình phổ thông hay không ?

Câu trả lời là có thể !

Về mặt lý thuyết thuần túy, điều này thực hiện được nhưng không phải là dễ dàng, nhất là với các học sinh dưới trung bình.

Bằng sự hỗ trợ của phần mềm và máy tính, ta có thể làm cho việc này trở nên dễ dàng hơn đối với mọi đối tượng. Hãy nhớ lại hàm số E(x) mà ta định nghĩa trong phần trên. Máy tính đã giúp ta tính mọi giá trị của nó một cách dễ dàng. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, máy còn có thể kiếm chứng một số tính chất (định tính) rất thú vị của nó, mà việc chứng minh trực tiếp (bằng thủ công) là không dễ chút nào.

Trước hết, chúng ta hãy kiểm định một sô tính chất sau đây:

Tính chất 1:
(i)....E(0) =1
(ii)...O < E(x) với mọi x
(iii)...E(x+y)=E(x)E(y)
(iv)...E(-x)=1/E(x)
Kiểm định. Các tính chất (i) và (ii) kiểm tra dễ dàng bằng định nghĩa mà không cần tới máy tính (xin các bạn hãy tự kiểm đinh).

Tính chất (iii) và (iv) là không dễ chứng minh, cho nên ta sẽ cần tới sự trợ giúp của máy tính. Muốn vậy, ta sẽ hỏi máy rằng (với định nghĩa hàm E như trên) phải chăng các tính chất này là đúng ? Câu lệnh cũng được viết hoàn toàn theo ngôn ngữ đời thường (bằng tiếng Anh):

[> is(E(x+y)=E(x)*E(y));

true

[> is(E(-x)=1/E(x));

true

Sau khi cho thực hiện, ta thấy máy cho trả lời là đúng (true). Điều này cũng có thể chứng minh được một cách trực tiếp, nhưng phải là một học sinh giỏi (thậm chí phải rất giỏi) mới có thể tự chứng minh được điều này (xin các bạn hãy tự kiểm tra).

Ta đã biết cách định nghĩa khái niệm lũy thừa bậc hữu tỉ của một số bất kỳ (thông qua phép nâng lên lũy thừa bậc nguyên dương và phép khai căn) và biết các tính chất đặc thù của nó, thí dụ như

a[sup]p+q[/sup]=a[sup]p[/sup]a[sup]q[/sup] và a[sup]-p[/sup]= 1/a[sup]p[/sup] với mọi số hữu tỉ p và q

Rõ ràng, do (iii) và (iv), hàm số E(x) cũng có những tính chất đặc thù giống như là lũy thừa của một số. Tính chất sau đây còn cho thấy rõ hơn điều này.

Tính chất 2

Ký hiệu E(1) là e. Khi ấy ta có

E(x) = e[sup]x[/sup], nếu x là số hữu tỷ

(Tính chất này có thể chứng minh trực tiếp nhờ phép qua giới hạn dưới dấu lũy thừa và căn thức mà không cần tới sự trợ giúp của máy tính, xin các bạn hãy tự kiểm định điều này).

Tính chất trên mach bảo cho ta cách khai triển khái niệm lũy thừa của số e từ miền các số hữu tỉ ra toàn bộ trục số, bằng cách đặt giá trị của nó tại các điểm còn lại (vô tỷ) là giá trị của hàm E(x). Tức là

e[sup]x[/sup] = E(x) với mọi số thực x

Tính chất 1 cho thấy rằng lũy thừa e[sup]x[/sup] trên toàn bộ trục số cũng có những tính chất đặc thù giống như là trên tập các sỗ hữu tỷ, cụ thể là

e[sup]x+y[/sup]=e[sup]x[/sup]e[sup]y[/sup] và e[sup]-x[/sup]=1/e[sup]x[/sup]

Như vậy ta đã có được định nghĩa của hàm số mũ (cơ số e) trên toàn bộ trục số, theo đúng bài bản và logic. Không khó khăn lắm, ta có thể chứng minh được tính đồng biến của hàm e[sup]x[/sup] và do đó ta có thể định nghĩa được hàm ngược của nó, ký hiệu là ln(x) và đặt tên là hàm logarit tự nhiên.

Dễ dàng thấy rằng hàm số mũ với cơ số a bất kỳ (cũng như lũy thừa bậc vô tỷ của một số a bất kỳ) có thể được định nghĩa (biểu diễn) thông qua hàm số e[sup]x[/sup] và hàm logarit tự nhiên, như đã biết trong các sách giáo khoa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên