Đặng Trần Hiếu
(lt2hieu2004)
Thành viên danh dự
Trong tất cả các hệ điều hành Unix-derivitive, tốt nhất là FreeBSD, thứ 2 là Slackware. Có 3 lý do:
Trình cài đặt của Slackware khá dễ sử dụng tuy nhiên sau khi đã hoàn thành việc cài đặt Slackware, thiết lập để Slackware hoạt động đúng là cả 1 vấn đề khác - đó là đặc điểm chung của cả Slackware và FreeBSD do cố giống Unix tối đa.
Hiển thị unicode trên Slackware:
Slackware hỗ trợ unicode out of the box, chỉ có điều Slackware ko có font nèo có thể hiển thị unicode cả ---> muốn hiển thị unicode trên Slackware phải làm theo các bươc sau:
Chạy mysqld trên Slackware:
Sau khi mới cài đặt xong Slackware, nếu khởi động mysqld, mysqld chỉ chạy khoảng 2 ---> 3s sau đó sẽ tự động kết thúc.
Cài Fluxbox 0.9.10 trên Slackware:
Fluxbox là 1 WM giống như Gnome hay KDE cho Linux hay Avalon WM của Windows Longhorn. Lý do dùng fluxbox thay cho các WM phổ dụng hơn như Gnome hay KDE là vì fluxbox chạy nhanh hơn gấp vài chục lần (ko hề nói quá) Gnome hay KDE, fluxbox ít dependency hơn Gnome hay KDE ---> hệ thống sẽ gọn nhẹ hơn nhìu, fluxbox nhỏ hơn nhìu Gnome hay KDE (fluxbox chỉ có chưa đến 1MB!!!), cuối cùng là vì fluxbox đẹp hơn (ý kiến riêng của tui, miễn bình luận).
Có thể chọn cài đặt fluxbox làm WM chính khi cài đặt Slackware, tuy nhiên bản fluxbox đi kèm với Slackware là bản stable 0.1.4. Bản 0.9.10 có nhiều tính năng hơn hẳn & cũng khá stable.
Thay wallpaper & edit menu cho fluxbox:
- Cả 2 OS trên đều cố gắng càng giống Unix càng tốt, ko cố gắng tự ý thay đổi mọi thứ theo ý mình như các distrobution khác như Fedora Core (trước là Red Hat Linux) hay Mandrake,... ---> người dùng có kinh nghiệm sẽ thấy Slackware & FreeBSD dễ dùng hơn hẳn.
- FreeBSD sử dụng ports làm package control system, giúp người dùng tránh khỏi đụng chạm đến dependency của mỗi software ---> rất tiện lợi. Gentoo Linux có portage cũng tương tự như ports, Debian có apt, Mandrake có urpmi nhưng ko có cái nèo có thể sánh được với ports.
- Cả 2 đều cho người dùng 1 số lượng software tối thiểu (mà vẫn vừa đủ để bắt đầu) ---> người dùng có được 1 hệ thống đúng với ý mình nhất 1 cách dễ dàng nhất.
Mặc dù FreeBSD có phần mạnh hơn Slackware (theo ý kiến riêng tui thì FreeBSD mạnh hơn bất cứ Linux distro nèo) nhưng FreeBSD ko phải là Linux, nó là *BSD ---> nếu là lập trình viên thì nên chọn Slackware vì nhiều người dùng Linux hơn hẳn ---> viết phần mềm dưới Linux phần mềm sẽ được phổ dụng hơn.- FreeBSD sử dụng ports làm package control system, giúp người dùng tránh khỏi đụng chạm đến dependency của mỗi software ---> rất tiện lợi. Gentoo Linux có portage cũng tương tự như ports, Debian có apt, Mandrake có urpmi nhưng ko có cái nèo có thể sánh được với ports.
- Cả 2 đều cho người dùng 1 số lượng software tối thiểu (mà vẫn vừa đủ để bắt đầu) ---> người dùng có được 1 hệ thống đúng với ý mình nhất 1 cách dễ dàng nhất.
Trình cài đặt của Slackware khá dễ sử dụng tuy nhiên sau khi đã hoàn thành việc cài đặt Slackware, thiết lập để Slackware hoạt động đúng là cả 1 vấn đề khác - đó là đặc điểm chung của cả Slackware và FreeBSD do cố giống Unix tối đa.
Hiển thị unicode trên Slackware:
Slackware hỗ trợ unicode out of the box, chỉ có điều Slackware ko có font nèo có thể hiển thị unicode cả ---> muốn hiển thị unicode trên Slackware phải làm theo các bươc sau:
- Mở xterm ---> mkdir /usr/share/fonts
- Copy font unicode từ 1 bản windows nèo đó vào thư mục /usr/share/fonts (tui copy các fonts ARIAL*, TIMES*, TAHOMA*, VERDANA*)
- fc-cache
Sau khi thực hiện các bước trên, Slackware sẽ hiển thị được unicode.- Copy font unicode từ 1 bản windows nèo đó vào thư mục /usr/share/fonts (tui copy các fonts ARIAL*, TIMES*, TAHOMA*, VERDANA*)
- fc-cache
Chạy mysqld trên Slackware:
Sau khi mới cài đặt xong Slackware, nếu khởi động mysqld, mysqld chỉ chạy khoảng 2 ---> 3s sau đó sẽ tự động kết thúc.
- Mở xterm ---> install_mysql_db
- mv /etc/my-small.cnf /etc/my.cnf
- chown -R mysql:mysql /var/lib/mysql
- chmod +x /etc/rc.d/rc.mysqld
Sau khi restart máy, mysqld sẽ tự động được khởi động và hoạt động tốt.- mv /etc/my-small.cnf /etc/my.cnf
- chown -R mysql:mysql /var/lib/mysql
- chmod +x /etc/rc.d/rc.mysqld
Cài Fluxbox 0.9.10 trên Slackware:
Fluxbox là 1 WM giống như Gnome hay KDE cho Linux hay Avalon WM của Windows Longhorn. Lý do dùng fluxbox thay cho các WM phổ dụng hơn như Gnome hay KDE là vì fluxbox chạy nhanh hơn gấp vài chục lần (ko hề nói quá) Gnome hay KDE, fluxbox ít dependency hơn Gnome hay KDE ---> hệ thống sẽ gọn nhẹ hơn nhìu, fluxbox nhỏ hơn nhìu Gnome hay KDE (fluxbox chỉ có chưa đến 1MB!!!), cuối cùng là vì fluxbox đẹp hơn (ý kiến riêng của tui, miễn bình luận).
Có thể chọn cài đặt fluxbox làm WM chính khi cài đặt Slackware, tuy nhiên bản fluxbox đi kèm với Slackware là bản stable 0.1.4. Bản 0.9.10 có nhiều tính năng hơn hẳn & cũng khá stable.
- Download fluxbox 0.9.10 từ http://www.fluxbox.org
- tar -zxvf <file_fluxbox_0.9.10_vua_download>
- cd <thu_muc_fluxbox>
- ./configure && make && make install
- vim .xinitrc
- Xoá tất cả bắt đầu từ dùng # start some nice programs
- thêm vào cuối file dòng: startfluxbox
- Save file & thoát vim
- startx
- tar -zxvf <file_fluxbox_0.9.10_vua_download>
- cd <thu_muc_fluxbox>
- ./configure && make && make install
- vim .xinitrc
- Xoá tất cả bắt đầu từ dùng # start some nice programs
- thêm vào cuối file dòng: startfluxbox
- Save file & thoát vim
- startx
Thay wallpaper & edit menu cho fluxbox:
- chạy xterm
- vim ~/.fluxbox/init
- tìm dòng session.screen0.rootCommand:
- thêm vào cuối dòng fbsetbg -l
- save file & thoát
- fbsetbg <path_den_file_wallpaper>
- sửa file ~/.fluxbox/menu để thay đổi các mục chọn trong menu của fluxbox, syntax của file khá dễ hiểu.
- vim ~/.fluxbox/init
- tìm dòng session.screen0.rootCommand:
- thêm vào cuối dòng fbsetbg -l
- save file & thoát
- fbsetbg <path_den_file_wallpaper>
- sửa file ~/.fluxbox/menu để thay đổi các mục chọn trong menu của fluxbox, syntax của file khá dễ hiểu.