Sờ ta, những điều còn chưa biết!

Nguyễn Thanh Sơn
(Raúl)

New Member
Xuất xứ các phe trong Star

PROTOSS:

Xel''Naga và lần sáng tạo đầu tiên (XEL’NAGA AND THE FIRST BORN)

Mặc dù chỉ còn một vài đoạn, tài liệu cổ của Protoss có nhắc tới một chủng tộc rất tiến bộ kiểm soát hàng ngàn thế giới (world: thế giới, thực ra là hành tinh, planet–ND) trong dải ngân hà mười triệu năm về trước. Đồn đại rằng, chủng tộc bí ẩn, thường được gọi là Xel''Naga, hay "những người du mục từ phương xa" (Wanderers from afar), đã gieo giống hàng ngàn loài khác nhau trên những hành tinh cằn cỗi và giá lạnh trong khu vực của họ. Tín ngưỡng của Protoss cho thấy Xel''Naga là một chủng tộc nhân hậu và yêu hoà bình, và họ đam mê việc nghiên cứu và nhân giống sự tiến hoá của những thực thể có khả năng tri giác trong vũ trụ. Không ai biết về nguồn gốc của Xel''Naga, trừ một việc là họ không xuất phát từ thiên hà mà họ nắm quyền thống trị (tức là đến từ thiên hà khác–ND). Ám ảnh bởi việc tạo thành một dạng sống hoàn hảo, Xel''Naga lao động để tạo ra một chủng tộc tinh thuần về hình thức (chỗ này ai đó dịch hộ nhé: that would be defined by a distinct purity of form). Trong hàng ngàn năm, họ cẩn thận dẫn đường cho quá trìng tiến hoá mong manh của loài mà họ thử nghiệm. Mặc dù những cuộc thí nghiệm kéo dài của họ tạo ra những dạng đột biến hấp dẫn, loài mà Xel''Naga nuôi dưỡng luôn còn xa mới đáp ứng được hy vọng của họ. Chán nản, Xel''Naga dồn hết những cố gắng cuối cùng còn lại của mình vào thế giới có triển vọng nhất trong những thế giới mà họ tạo ra. Trên hành tinh Aiur (phonetic: Ai-ơ), một hành tinh lớn hầu như che phủ hoàn toàn bằng rừng rậm, ở ngoài rìa thiên hà, một dạng sống phát triển rất cao đã ra đời. Dạng sống đó thích nghi một cách khó tin với môi trường sống và khí hậu khắc nghiệt. Sức mạnh và tốc độ của họ là vô song so với tất cả các chủng tộc mà Xel''Naga đã biết. Chủng tộc đó còn phát triển đến một mức xã hội bộ lạc sơ đẳng, dựa trên các nhóm đi săn và các luật lệ chiến binh. Tuy nhiên, điều khác biệt lớn nhất ở họ là họ liên lạc với nhau bằng một phương pháp thần giao cách cảm phức tạp có tính bản năng, cho phép họ có các hoạt động tập thể hiệu quả một cách đáng kinh ngạc. Vui mừng với quá trình phát triển của lần sáng tạo mới nhất của mình, Xel''Naga thừa nhận rằng chủng tộc mới này là cái đầu tiên trong những cuộc thử nghiệm của mình phát triển vượt qua những ràng buộc của dạng thức sống hoang dã. Để đánh dấu sự phát triển của mình trong trật tự thiên hà, Xel''Naga đặt tên cho chủng tộc mới là Protoss, hay "Lần sáng tạo đầu tiên". Trong hàng trăm thế hệ, Protoss sống hài hoà và tách biệt trên hành tinh Auir, không hề biết về Xel''Naga, người trông coi họ từ xa. Mặc dù Protoss là chủng tộc tiên tiến nhất từng xuất hiện, Xel''Naga vẫn không thoả mãn với tốc độ phát triển chậm chạp của họ và họ dẫn hướng cho sự phát triển của Prôts đi xa hơn nữa. Xel''Naga sử dụng một triệu năm tiếp theo để từng bước dẫn dắt những đứa con của mình, và cuối cùng họ cũng đã thành công trong việc đưa Protoss tới mức có khả năng nhận thức và tri giác hoàn toàn. Dần dần, đứa con đầu lòng trở nên rất thông minh và hướng nội, đạt đến những mức độ phát triển rất không chỉ trong văn hoá mà còn trong từng cá nhân. Hồ hởi với những biểu hiện thành công đó, cuối cùng Xel''Naga công khai chính họ cho Protoss mà không bao giờ nghĩ về những rối loạn sẽ tới.
Sự chia ly và thời đại của bất hoà. (The Departure and The Aeon of Strife)
Nền văn minh của Protoss lan ra khắp Auir chỉ trong vòng vài ngàn năm, và cuối cùng những bộ lạc đánh nhau chịu chấp nhận một sự chỉ huy chung. Trong một nỗ lực để nhận thức rõ phạm vi của sự tiến bộ của tác phẩm của mình, Xel''Naga bước xuống từ thiên đường và hoà nhập vào văn hoá của Protoss. Sự xuất hiện của Xel''Naga có vẻ như đã khiến cho những bộ lạc Protoss bị chia rẽ lại gần nhau hơn khi những người Protoss háo hức chờ đợi ở những người tạo ra mình những chân lý và hiểu biết mới(...???)(Cả câu là như thế này: The arrival of the Xel’Naga seemed to bring the scattered Tribes even closer together as the overjoyed Protoss looking to their wizened creators for new truths and insights). Xel''Naga kinh ngạc tự hỏi cái gì đã dẫn dắt Protoss thăm dò những bí ẩn của vũ trụ xung quanh họ. Protoss chứa một sự ham muốn vô hạn về hiểu biết, khiến họ phát triển một loạt những ngành khoa học cơ bản và siêu thần kinh (Meta–Neural). Khi hiểu biết và nhận thức của từng cá nhân tăng lên, Protoss trở nên quá kiêu căng và thấy nhiều ở những lợi ích cá nhân hơn là ở lợi ích của cộng đồng. Những bộ lạc tiến bộ hơn bắt đầu rời xa khỏi nhau, mỗi bộ lạc tìm kiếm cho mình một vai trò riêng, không chỉ trong xã hội của họ mà còn trong cả vũ trụ. Các bộ tộc càng tách rời khỏi nhau, Xel''Naga càng thất vọng. Họ cho rằng họ đã đẩy sự tiến hoá của Protoss đi quá xa, làm hỏng sự tinh khiết của tác phẩm của mình. Nhiều người Xel''Naga tin rằng Protoss đã đánh mất sức mạnh lớn nhất của mình, khi tính cá nhân phát triển và áp đảo mối liên kết cộng đồng (chính là mối liên kết có được thông qua khả năng thần giao cách cảm bẩm sinh), mối liên kết đã từng là chủ yếu. Những bộ lạc, theo đuổi những mục tiêu cá nhân, đã dựng lại những nguyên tắc và nghi lễ xưa của mình để tách chính họ ra khỏi những người anh em của họ càng xa càng tốt. Mặc dù rất kính sợ những người đã tạo ra mình, nhưng những nghi ngờ bắt đầu xuất hiện trong các bộ lạc, vì sự nhiệt tình, thích thú của Xel’Naga với công việc (dạy dỗ Protoss) của họ. Tháng tháng trôi qua, Protoss bắt đầu tránh né những thầy giáo Xel’Naga của mình, và trong các bộ lạc xuất hiện một câu chuyện đồn đại vu vơ vô căn cứ về sự phản bội của Xel’Naga. Cố gắng để tách mình ra khỏi phần còn lại của chủng tộc, các bộ lạc bắt đầu đánh mất mối liên hệ tinh thần nguyên thuỷ của mình (đây là khả năng liên lạc thần giao cách cảm giữa các cá thể – ND). Sự tan vỡ mối đồng cảm bẩm sinh này là giọt nước tràn ly, phá huỷ những tàn tích cuối cùng của sự thống nhất và tình anh em của người Protoss. Sự biến mất của kết nối tinh thần là dấu hiệu lớn nhất đối với Xel’Naga cho thấy Protoss đã đánh mất một cách bi kịch phần cơ bản nhất trong sức mạnh của họ. Tin rằng mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khi thúc đẩy sự phát triển của đứa con hư hỏng quá nhanh, Xel’Naga chuẩn bị rời Aiur mãi mãi. Những người Protoss đa nghi khi nghe nói về sự ra đi của đấng tạo hoá, đã phản ứng bằng một cuộc tấn công vội vàng và mạnh mẽ vào những con tàu của Xel’Naga’s (world-ships: Tàu – Thế giới, vì Xel’Naga không định cư mà sống hoàn toàn trên các con tàu của họ – ND). Nhiều trăm Xel’Naga đã bị giết bởi những người Protoss giận dữ, những người mà chỉ vài thập kỷ trước đó đã tôn thờ họ như là chúa trời vậy. Xel’Naga đẩy lùi cuộc tấn công hấp tấp và buồn bã cất cánh phần lớn những con tàu khổng lồ của họ vào khoảng không vô tận. Những bộ lạc Protoss, bối rối và bị bỏ rơi, quay sang đánh nhau trong thất vọng. Giai đoạn tiếp theo được coi là cuộc nội chiến đẫm máu nhất, dữ dội nhất từng thấy trong lịch sử thiên hà: Thời đại của bất hoà (The Aeon of Strife). Những trận chiến khủng khiếp được vô số thế hệ Protoss tiến hành suốt thời đại này, tất cả đều đổ tội cho nhau về những tội lỗi và nguyên nhân của việc họ bị bỏ rơi. Mặc dù không còn nhiều tài liệu về “giai đoạn bị mất” này của lịch sử Protoss, rõ ràng rằng Protoss chia rẽ thành những đoàn quân điên cuồng của những tên sát nhân khát máu. Hàng trăm năm với những thù hận mù quáng đối với những anh em của mình, tất cả các thế hệ của người Protoss, sinh ra và chết đi mà không hề biết đến những di sản của quá khứ của mình hay không hề biết đến sự liên kết về tinh thần mà tổ tiên của họ đã từng có. Huyền thoại kể lại rằng, mọi khu vực đất đai rộng lớn trên Aiur đã bị phá huỷ do những trận chiến giữa những bộ lạc điên cuồng. Có vẻ như toàn bộ nền văn minh đã từng phát triển rực rỡ của người Protoss đang đứng trên bờ vực của sự huỷ diệt.
Khala: Con đường Thăng hoa (KHALA: THE PATH OF ASCENSION)
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự kết thúc của Thời đại bất hoà, nhưng một phát hiện chưa từng có đã mang lại những thay đổi cơ bản của Thời đại Thứ Hai (The Second Age). Trong khi mối thù truyền kiếp cổ xưa tiếp tục kéo một thế hệ Protoss nữa tham gia vào cuộc chiến, một người Protoss bí ẩn tình cờ phát hiện ra một điều cơ bản. Con người bí ẩn, người mà tên thực đã bị quên lãng trong biên niên sử, được gọi là Khas, hay “Người mang lại trật tự” (‘he who brings order’). Khas đã học một môn học cổ xưa và bị cấm của Xel’Naga, thông qua một tinh thể cổ, được gọi là Tinh thể Khaydarin. Tinh thể đó được Xel’Naga để lại khi họ rời khỏi Auir, và là phần cơ bản trong việc tiến hành những nghiên cứu tiền gien (Proto–Genetic) của mình. Khas đã truyền năng lượng của tinh thể qua chính mình, và ông ta đã có thể sử dụng mối liên kết thần giao cách cảm nguyên thuỷ của giống nòi mình . Lần đầu tiên trong hàng ngàn năm, mối liên hệ cơ bản của Protoss được bàn đến. Tràn ngập bởi những cảm xúc phát ra từ từng thành viên trong giống nòi của mình, Khas hiểu rằng Protoss không đánh mất sự liên kết giống nòi mà chỉ đơn giản là quên mất cách để hoà vào nó. Khủng khiếp trước cái cảm giác chiến trận đã xé giống nòi của mình ra thành từng mảnh trong vô số thế kỷ, Khas bắt đầu tìm cách để chữa nỗi đau kinh niên của giống nòi. Khas tập hợp một số Protoss trẻ, đã cùng nhau dạy thế hệ chiến binh mới cách để sử dụng mối liên hệ tiềm tàng của mình. Những Protoss trẻ trung đó đột ngột cảm thấy xa lạ với cuộc chiến khủng khiếp xung quanh họ, đã có thể thấy rõ ràng rằng sự xung đột giữa họ là ngu xuẩn. Họ tin rằng Xel’Naga đã đúng khi bỏ rơi họ và khi phần cốt lõi nhất của họ bị mất, họ thực tế là một tạo vật hỏng. Họ xác nhận điều đó, tuy nhiên, những sai lầm mà họ của họ là do thừa kế chứ không phải là do chính họ, nên xung đột nội bộ và tình trạng hỗn loạn hiện nay là vô căn cứ và vô nghĩa. Khas đã đưa ra một hệ thống biện pháp cơ bản để phát triển khả năng tâm linh, ông ta hi vọng sẽ dạy dỗ được thế hệ mới và giữ họ không lặp lại những sai lầm bi kịch của tổ tiên. Đề xuất của ông ta, được gọi là Khala hay Con đường Thăng hoa (Path of Ascension), kêu gọi tất cả Protoss từ bỏ những ham thích cá nhân và hướng tới việc tái thống nhất giống nòi, vốn đã từng hùng mạnh và đầy tính cộng đồng của họ. Hy vọng lớn nhất của Khas là Khala sẽ truyền cảm giác mới về tinh tuý và sức sống trong giống nòi Protoss. Dần dần, nhiều Protoss từ bỏ mối thù cổ xưa của mình và tập trung lại vào đoàn quân liên tục lớn lên của trật tự Khala. Việc đó đánh dấu bước ngoặt trong Thời đại Bất hoà và dẫn tới sự hình thành của Thời kỳ thứ hai. Khi những cuộc chiến khủng khiếp lắng xuống và những bộ lạc một lần nữa bắt đầu dàn hoà và liên kết với nhau, những tiền đề của trật tự Khala bắt đầu thấm vào đến những nơi sâu nhất, những gốc rễ cơ bản nhất của xã hội Protoss.

THE DARK TEMPLAR

Mặc dù nền văn minh mới phát triển và thịnh vượng, Hội đồng Conclave giữ một bí mật đen tối và đáng xấu hổ khỏi số đông. Có một vào bộ lạc chống đối đã từ chối chấp nhận bộ luật Khala, họ tin rằng những đặc trưng cá nhân của họ sẽ bị xoá bỏ khi theo những quy luật Judicator. Bộ lạc Rogue không tỏ ra thù địch hay phản kháng nhưng họ tin rằng chương trình nghị sự công cộng của Conclave sẽ đưa đến sự sụp đổ thực sự cho bộ lạc. Do đó những hiểu biết của bộ lạc Rogue được giấu kín, và hội đồng Conclave tin rằng tác động của sự ly khai đó sẽ lan khắp xã hội Potoss và phá huỷ tất cả những gì Khas đã làm được. Đoan chắc rằng bộ lạc Rogue là một mối đe doạ rõ ràng đối với trật tự mới (Mà chính họ là những người hưởng lợi–ND), hội đồng Conclave yêu cầu lực lượng Templar huỷ diệt những kẻ chống đối. Đội quân Templar, dưới sự lãnh đạo của một chiến binh trẻ tuổi tên là Adun (nếu bạn để ý nghe tiếng của các unit Protoss trong game thì sẽ thấy nhắc rất nhiều đến Adun, tất nhiên bằng tiếng Protoss như Adun Toridas, Entaro Adun…–ND) không thể ra tay giết hại những người anh em bướng bỉnh của mình. Thay vào đó, Adun cố gắng che dấu bộ lạc Rogue khỏi tầm mắt của hội đồng Conclave. Adun tin rằng có thể thuyết phục những người của bộ lạc Rogue tin theo Khala bằng cách dạy họ sử dụng sức mạnh tinh thần tiềm tàng của mình. Mặc dù có sức mạnh tương đương những Templar hùng mạnh, bộ lạc Rogue vẫn từ chối phục tùng. Không được rèn luyện theo Con đường Thăng hoa, sức mạnh của thành viên bộ lạc Rogue vượt khỏi tầm kiểm soát và gây ra những trận bão khủng khiếp phá huỷ khắp Aiur. Hội đồng Conclave, bị sốc vì những Templar đã không huỷ diệt bộ lạc Rogue, cố gắng giải quyết thế kẹt này. Nếu Conclave trừng phạt Adun và lực lượng Temlar vì sự không vâng lời, hội đồng sẽ phải bắt buộc công khai hoá sự tồn tại cả các bộ lạc cứng đầu. Do đó Conclave quyết định trục xuất những bộ lạc đó khỏi Aiur mãi mãi. Những Templar của Adun phải thề giữ im lặng và những bộ lạc kia được đưa lên một con tàu cổ xưa nhưng vẫn hoạt động của Xel’Naga và bị phóngvào vũ trụ. Kể từ đó, những bộ lạc Rogues được gọi là Dark Templar. Theo thời gian, huyền thoại vè Dark Templar lan khắp Aiur. Để thể hiện sự khinh bỉ dành cho Conclave và những đầy tớ Judicator của họ, Dark Templar cắt bỏ (???????To show their disdain for the Conclave and their Judicator lackeys, the Dark Templar ceremoniously cut off their nerve-appendages, effectively severing themselves from the basic communal link that all Protoss share). Có chuyện đồn rộng rãi rằng, vì những thợ săn của bóng đêm đó cắt bỏ mối ràn buộc nguyên thuỷ của mình, họ buộc phải lấy năng lượng tinh thần của họ từ chân không tối tăm, lạnh lẽo. Câu chuyện này, hơn tất cả, đã buộc tội cho những chiến binh lang thang mãi mãi. Bị chính những người anh em của mình săn đuổi và ghê sợ, Dark Temlar chỉ sống trong những con tàu du hành không gian của họ. Di chuyển strong không gian giá lạnh, họ không bao giờ thôi thương nhớ Aiur và họ làm mọi việc để bảo vệ quê hương, quê hương mà từ lâu họ đạ mất, bằng những cách bí mật mà họ tìm thấy.

Loài người và sự xuất hiện của Zerg(HUMANITY AND THE COMING OF THE ZERG)

Protoss đóng vai trò nhân chứng câm lặng đối với sự xuất hiện kỳ lạ của loài người ở biên thế giới của mình. Mặc dù Protoss không rõ về nguồn gốc của Terran, nhưng họ biết rằng, loài yếu ớt sống ngắn này là một đối tượng nghiên cứu thú vị. Hai thế kỷ trôi qua và Protoss theo dõi quá trình định cư của Terran. Terran đã thành công trong việc xây dựng căn cứ trên một tá hành tinh trong khu vực biên giới của Protoss. Mặc dù kỹ thuật của Terran thấp hơn kỹ thuật của Protoss, nhưng họ thích nghi được với thế giới mà họ sống và phát triển. Protoss thấy thú vị với Terran ở chỗ họ thường xuyên đánh nhau trong khi vẫn phát triển và khoa học công nghệ của Terrran thì phát triển theo bước nhảy.
Protoss nhận thấy Terran sử dụng hết tài nguyên thiên nhiên trên các hành tinh của họ rất nhan chóng. Có vẻ như Terran không hề lưu ý đến sự mong manh của cân bằng tự nhiên, họ chỉ việc đi từ hành tinh này sang hành tinh khác, để lại đằng sau những hoang mạc cằn cỗi do hoạt động của họ. Bị ngăn cấm bởi các điều luật chặt chẽ của Dae’Uhl, Protoss không thể can phiệp trực tiếp với những con người hấp tấp đó, mặc dù họ rất muốn làm như vậy. Mối quan hệ tách rời giữa hai loài kéo dài nhiều năm. Cho đến khi một phi vụ trinh sát hằng ngày của Protoss thấy bằng chứng cho thấy sự huỷ diệt rõ ràng của Terran bất hạnh.
Một High Templar tên là Tassadar, cùng với lực lượng Viễn chinh Templar nổi tiếng của mình, đã tìm thấy một số vật thể sống trôi nổi gần biên giới của lãnh thổ Protoss. Khi nghiên cứu kỹ hơn, Tassadar nhận thấy rằng vật thể sống chưa từng ghi nhận đó thực tế là những hệ thống do thám khoảng không. Mặc dù Tassadar không thể kết luận được nguồn gốc của chúng, nhưng rõ ràng chúng đang hướng tới khu vực Koprulu của vùng định cư Terran.
Tassadar mang những máy do thám sống về Aiur để nghiên cứu khẩn cấp. Vật thể lạ đó không giống bất cứ cái gì mà Protoss đã từng thấy trước đây. Con vật đó hình như được tạo ra để đi trong khoảng không và do thám. Cố gắng để tìm ra mục đích chính của vật lạ, Protoss tập trung năng lượng của Tinh thể Khaydarin qua bộ não tí hon của nó. Và Protoss đã bị sốc khi sinh vật lạ trả lời nhanh chóng và tự nhiên đối với năng lượng của tinh thể. Họ bị sốc bởi vì thực tế chỉ có những loài vật được tạo ra từ công nghệ tiền gen của Xel’Naga mới có thể trả lời trước năng lượng của tinh thể đó. Mọi việc càng nghiêm trọng hơn khi bộ não tí hon của vật lạ đó liên tục nhắc lại “Tìm loài người”, “Huỷ diệt” “Học”, “Tiến hoá”…
Protoss kết luận rằng những sinh vật thăm dò đó là điềm báo trước một mối đe doạ mới, rõ ràng, đối với khu vực của họ trong ngân hà. Nếu loài vật đó được tạo ra bằng kỹ thuật của Xel’Naga, chúng sẽ là rất tiên tiến và vô cùng mạnh. Đối với Protoss, có vẻ như loài mới đó là một mối đe doạ nghiêm trọng đối với tất cả các dạng sống, và trong khi xung quanh đó còn rất nhiều loài sinh vật sống, chúng vẫn tìm kiếm loài người.
Protoss bắt đầu cử những thiết bị do thám tiên tiến cày nất những vùng không gian xuang quanh để tìm kiếm sinh vật lạ. Tassadar cho rằng theo mệnh lệnh Dae’Uhl, Protoss có trách nhiệm bảo vệ những loài mà họ trông coi. Tuy nhiên, theo Hội đồng Conclave, nếu loiaf người “vô giá trị” đó đã bị lây nhiễm thì chúng cần phải bị bỏ vào lửa và huỷ diệt. Một cuộc tranh cãi lớn đã nổ ra giữa hội đồng Conclave và lực lượng Templar về vấn đề họ phải làm gì trước những việc sắp xảy ra.
Có một vấn đề mà cả hai đẳng cấp đều thống nhất, đó là việc loài vật mới được Xel’Naga tạo ra là không thể chối cãi được. Và nếu nó quả thực được những nhười cổ đó tạo ra thì tốt nhất là Protoss nên đề phòng. Và cả hai bên thống nhất là sẽ cử Tasssadar và lực lượng viễn chinh Protoss đến theo dõi thế giới của Terran và cố gắng xác định mức độ nghiêm trọng của mối nguy hiểm sắp đến. Kết thúc, Tassadar chỉ huy chiếc tàu chỉ huy của ông ta, chiếc Gantrithor (Đây là một chiếc Carrier, nếu ai chơi Campaign của StarCraft chắc đều biết, nó là một trong vài tàu chỉ huy trong trò chơi: Carrier Gantrithor của Tassadar, Battle Cruiser Hyperion của Jim Raynor, Battle Cruiser Norad II của Edmund Duke, Battle Cruiser Alexsandra của Alexei Stukov…–ND) và một đoàn tàu chiến hộ tống khổng lồ tiến về phía khu vực Koprulu của Terran.

Sự bắt đầu của sự kết thúc(THE BEGINNING OF THE END)

Ngay khi đến khu vực Terran, những trinh sát của Tassadar đã tìm thấy những bằng chứng về việc loài vật bí ẩn nọ đã gây thiệt hại cho những khu định cư của Terran. Khi kiểm tra kỹ hơn, Tassadar phát hiện ra rằng khu định cư trên Chau Sara thực tế là đã bị nhiễm bởi loài vật lạ. Toàn bộ bề mặt hành tinh bị bao phủ bởi một lớp chất độc dầy và nó vẫn đang tiếp tục xói mòn vỏ hành tinh đó. Tệ hơn, loài sinh vật lạ đã lây nhiếm và giết chết phần lớn những người định cư. Kinh sợ bởi sự phá huỷ của hành tinh, Tassadar chỉ biết ngạc nhiên tại sao Terran vẫn chưa cuống lên để giúp đỡ cái thế giới bị vây hãm của họ.
Hội đồng Conclave, khi nghe nói về số phận của khu định cư, đã ngay lập tực yêu cầu Tassadar thiêu huỷ hoàn toàn hành tinh cũng những thứ trên đó. Hiểu rằng việc thiêu huỷ sẽ tiêu diệt mọi vật thể sống trên hành tinh, Tassadar buồn rầu tuân lệnh chỉ huy của mình. Những con tàu của Protoss nạp năng lượng cho vũ khí và tấn công lên khu định cư. Cuộc tấn công đáng giá này đã thành công trong việc thiêu huỷ sự lây nhiễm của loài sinh vật lạ, nhưng không nghi ngờ gì nữa, vài hành tinh xung quanh đó cũng đã bị nhiễm. Tassadar được yêu cầu thiêu huỷ tất cả những hành tinh đó và bất kỳ khu định cư nào của Terran có dấu hiệu bị nhiễm, dù chỉ là nhỏ nhất. Khi hạm đội Protoss đang di chuyển đến hành tinh thứ hai, Mar Sara, Tassadar bắt đầu nghi ngờ tính đạo đức của những mệnh lện mà ông ta nhận được.
Những chiến binh Terran, bị bất ngờ hoàn toàn bởi cuộc tấn công đầu tiên của Protoss trên Chau Sara, đã điều một phi đội tàu chiến để chặn phi đội của Tassadar. Phi đội Terran chuẩn bị để bảo vệ khu định cư khỏi Protoss, đúng lúc Tassadar ra lệnh cho những con tàu của mình phi tránh ra và rút lui. Đấu tranh với những nghi ngờ trong thâm tâm, Tassadar không thể ra lệnh huỷ diệt Mar Sara hay phi đội đến để bảo vệ nó. Ông ta tìm cách để đánh bại loài sinh vật lạ mà không phải xoá sổ loài người. Do đó, Tassadar từ chối tuân theo mệnh lệnh diệt chủng của những chỉ huy của mình. Ở nguyên tại chỗ cùng cả phi đội của mình, xa ngoài tầm của những radar của Terran, Tassadar chờ đợi và theo dõi sự hiện diện của sinh vật lạ, vẫn đang tiếp tục xâm lấn khắp các vùng đất của Terran.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Re: Game T2

ZERG:

Sự ra đời của Zerg(THE BIRTH OF THE ZERG)

Di chuyển hàng ngàn năm ánh sáng vào trong nhân cháy rực của thiên hà, cuối cùng Xel''Naga dừng lại trên hành tinh nóng bỏng biến đổi nhanh Zerus. Xel''Naga có kế hoạch tiếm tục cuộc thử nghiệm vĩ đại của mình, chỉ khác là lần này họ từ bỏ nguyên lý về thực chất và tập trung chủ yếu theo đuổi sự tinh kiết về tinh thần. Sống trong những con tàu khổ lồ của mình cao trên ngọn lửa của Zerus, một lần nữa Xel''Naga bắt đầu thách thức tự nhiên.
Dự án thứ hai này của Xel''Naga thành công hơn mức họ có thể tưởng tượng. Xel''Naga lao động để thúc đẩy sự tiến hoá của dạng sống kém cỏi nhất trên Zerus, một loài dạng giun thu nhỏ được đặt tên là Zerg. Qua xử lý tiền gien của Xel''Naga, Zerg sống sót dưới những cơn bão lửa liên tục của Zerus và phát triển. Mặc dù rất nhỏ, có dạng sâu, và không có khả năng nào để thay đổi môi trường xung quanh, Zerg vẫn thích nghi để sống sót. Chúng phát triển khả năng chui vào trong thịt của những loài bản địa có khả năng chịu đựng cao hơn. Sống trong dịch não tuỷ của vật chủ, Zerg học cách để ký sinh và hợp nhất với loài vật chủ đó. Một khi có khả năng điều khiển sự trao đổi chất và vận động của vật chủ, Zerg sử dụng thân thể mới của mình để tác động lên môi trường xung quanh. (như vậy Zerg lúc đầu là một loài vật nhỏ, sống ký sinh trong cơ thể những loài lớn hơn và tìm cách gắn vào hệ thần kinh của vật chủ để điều khiển vật chủ–ND)
Khi Zerg hợp nhất với ngày một nhiều vật chủ vào tay mình, chúng bắt đầu đồng hoá những tiến trình khác và những dòng gene khác nhau của các loài vật chủ. Zerg bắt đầu đột biến và thích nghi tuỳ thuộc vào lượng vật chất di truyền được xử lý. Tuy nhiên, trong khi có nhiều vật chủ, chúng chỉ sử dùng những loài có trình độ phát triển cao nhất mà chúng gặp. Loài Zerg bẩm sinh đã lựa chọn loài để tiêu hoá, đảm bảo cho tại mọi giai đoạn phát triển của mình, chúng luôn luôn trên đỉnh của cây thức ăn. Những loài nào được cho rằng không đáng để tiêu hoá sẽ bị huỷ diệt để giữ tinh khiết cho dòng gene của Zerg.
Xel''Naga phát hiện ra một vấn đề đáng chú ý. Khó có thể nhận ra loài nguyên gốc chỉ vài thế hệ sau khi chúng bị tiêu hoá bởi Zerg. Bằng cách nào đó, loài Zerg có thể tăng tốc và dẫn hướng quá trình tiến hoá của vật chủ của chúng. Loài vật chịu tác động của những đột biến mà khiến cho tất cả các loài khác nhau đều phát triển những gai có khả năng xuyên mạnh, những càng sắc, và những loại vỏ giáp rất dày. Chỉ sau một khoảng thời gian ngắn bất ngờ, những dòng khác nhau phát triển và tập hợp lại thành một loài thống nhất và hung dữ.
(Như vậy Zerg sau khi tiêu hoá được nhiều vật chủ đã có khả năng trao đổi gene của các vật chủ cho nhau và khiến cho tất cả các loài chúng có bị biến đổi theo cùng một cách, sao cho chúng ngày càng mạnh hơn–ND)

OVERMIND

Xel''Naga nhớ rất rõ, thất bại của họ với Protoss là do họ đẩy sự nhận thức của loài mà họ tạo quá nhanh, nên quyết định đi theo một đường khác đối với loài Zerg non trẻ này. Để loại bỏ sự xung đột tiềm tàng giữa những cá nhân khác nhau, Xel''Naga hợp nhất trí tuệ của toàn bộ Zerg thành một thể thống nhất gọi là “Overmind”. Overmind kết hợp thành một thực thể nửa tri giác, là hiện thân của những vận động chính và bản năng của tất cả các cá thể Zerg. Thời gian trôi qua và ở Overmind hình thành nhận thức cá nhân sơ khai và nó ngày càng thông minh hơn.
Mặc dù Overmind điều khiển hoạt động của tất cả sinh vật trong bầy, nó thực hiện việc đó thông qua những nhân vật phụ trợ. Overmind tạo ra một loài Zerg mới để có thể dễ dàng thực hiện những ý muốn của nó. Những Cerebrate là phiên bản cỡ lớn của sinh vật dạng sâu Zerg nguyên gốc và được tạo ra để thực thi những mục đích khacs nhau của Overmind. Mỗi Cerebrate có một nhiệm vụ riêng, ví dụ như “bảo vệ tổ”, “tìm kiếm những loài tiềm năng”, “tạo cá thể mới” hay “huỷ diệt mọi dạng sống”. Cerebrate được quyền xây dựng Hive Cluster (đám tổ, giống như căn cứ chính) riêng của mình và giải quyết những vấn đề theo cách riêng. Dần dần chúng dúng phát triển tính cá nhân tuỳ thuộc vào công việc chính của chúng. Tuy nhiên, từ trong gene, Cerebrate không thể chống lại mệnh lệnh của Overmind.
Chuỗi mệnh lệnh của Zerg kéo dài thêm khi ngày càng nhiều loài bị hợp vào trong đàn. Cerebrate cũng bắt đầu cần đến những loài để trợ giúp cho việc truyền mệnh lệnh của mình. Để củng cố việc phòng thủ và sản xuất của Hive, Cerebrate tạo ra Queen để nối dài sự điều khiển của nó trong bầy. Queen giám sát hoạt động của Drone và theo dõi cần thận những khu vực mới phát triển của bầy. Trong trận chiến, Cerebrate yêu cầu Overlord trwucj tiếp truyền mệnh lệnh của nó tới những chiến binh. Overlord không chỉ chở những chiến binh của Zerg vào trận chiến mà còn điều khiển cuộc tấn công chống lại kẻ địch. Giống như Cerebrate đối với Overmind, Queen và Overlord không thể chống lại mệnh lệnh của Cerebrate. Hệ thống mệnh lệnh chặt chẽ này khiến cho bầy Zerg hoạt động đạt hiệu quả tối đa.
Trong khi bầy tiếp tục phát triển và mạnh lên, Overmind chuyển sang suy nghĩ về tương lai của của chính nó. Nó nhận thấy rằng chỉ trong vài thế kỷ ngắn ngủi, loài của nó đã đồng hoá tất cả những loài vật bản địa trên Zerus. Nó biết rằng, để có thể phát triển cao hơn nữa, Zerg cần phải rời khỏi Zerus. Overmind bắt đầy nhìn ra xung quanh với những giác quan của nó, tìm kiếm cái gì đó – bất cứ cái gì – có thể chở nó ra khỏi thế giới này. Cơ hội đó đên khá sớm. Một loài khổng lồ, đi được trong chân không đi ngang qua hệ thống Zerus, và Overmind gọi chúng. Bị hấp dẫn bởi tiếng gọi đó, chúng nhanh chóng bị đông hoá vào trong bầy. Sự bao gồm vỏ siêu dày và khả năng tồn tại trong chân không đã khiến cho nguồn gene của Zerg trở nên hoàn hảo. Không lâu sau đó mọi các thể của Zerg đều có khả năng tồn tại trong môi trường khắc nghiệt của không gian.
Thời điểm quan trọng trong sự phát triển của Zerg này không loạt qua khỏi mặt của Xel''Naga. Zerg, mặc dù có những thiếu sót nghiêm trọng vầ khả năng vật lý, đã thành công không chỉ trong tồn tại, mà còn trong duy trì khả năng tư duy khủng khiếp của mình. Xel''Naga biết rằng mình đã đạt được mục đích.

Sự sụp đổ của Xel''Naga (THE FALL OF THE XEL’NAGA)

Niềm kiêu hãnh với những gì đã đạt được đã đưa đến sự suy vong chết người của Xel''Naga. Overmind, khi từ từ mở rộng tầm của nó ra khoảng chân không xung quanh, đã biết về những con tàu vĩ đại của Xel''Naga bay lượn một cách đáng ngại bên trên bầu trời Zerus. Xel''Naga, vẫn thường xuyên theo dõi Overmind, đã hoảng sợ khi phát hiện ra Overmind đã cắt bỏ mối liên hệ về tư duy (với Xel''Naga), để che giấu chính nó khỏi tầm nhìn của Xel''Naga. Overmind đã mở một cuộc tấn công vào người Xel''Naga. Chủng tộc cổ xưa đó đã làm mọi cách để ngăn chặn cuộc tấn công đó, nhưng kết quả của những cố gắng đó chỉ là số không. Từng đợt, từng đợt tấn công của Zerg nhằm vào những con tàu của Xel''Naga và không hề có dấu hiệu yếu đi. Chỉ trong vòng vài giờ Zerg đã áp đảo những người đã tạo ra nó và huỷ diệt phi đội của Xel''Naga.
Khi phần lớn Xel''Naga bị vòng xoáy gene khủng khiếp của Zerg tiêu hoá và thu nhận, Overmind đã chiếm được hiểu biết và nhận thức của ông chủ của mình. Overmind đã nhập hàng ngàn thực thể tư duy vào nó và trở nên mạnh mẽ hơn cả mức mà nó có thể tưởng tượng. Nó biết về bí mật của tinh thể Khaydarin và bắt đầu hợp năng lượng đó vào trong tay. Với những kiến thức sâu sắc về tiến hoá và sinh học tiền gene lấy được từ Xel''Naga, Overmind đã có thể tăng cường khả năng nhận thức của những dòng Zerg cao cấp trong khi vẫn giữ chúng hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của nó.
Nhờ nghiên cứu ký ức của Xel''Naga, Overmind biết về vô số loài đã bị Xel''Naga chi phối. Xel''Naga giữ những thông tin chi tiết về gene của từng loài, những thông tin đó cho phép Overmind hiểu rõ về sức mạnh cũng như điểm yếu của từng loài. Quan trọng nhất, Overmind đã biết về một loài cực kỳ mạnh, sống ở rìa thiên hà, tên là Protoss. Overmind biết rằng Protoss và Zerg nhất định sẽ gặp nhau trong một cuộc chiến tranh huỷ diệt không thể tránh khỏi.

Quyết định (THE DETERMINANT)

Zerg rời khỏi hành tinh Zerus nóng bỏng không còn sự sống và huỷ diệt bất cứ hành tinh nào mà chúng thấy trên con đường tới quê hương của Protoss. Trong khi chúng tiến một cách chậm chạp qua khoảng không trống rỗng giữa các vì sao, Zerg chỉ tiêu hoá những loài mạnh nhất mà chúng gặp. Bầy Zerg vẫn tiếp tục phát triển vững chắc, cả về số lượng và sức mạnh. Đồng thời, Overmind phái đi nhiều đơn vị thăm dò để trinh sát phía trước cho bầy và tìm hành tinh mới để tấn công.
Mặc dù đã chiến thắng rất nhiều trận, Overmind vẫn rất lúng túng. Nó biết rằng Protoss đã trở thành một loài có sức mạnh tinh thần (sức mạnh của bộ não) phi thường, có thể điều khiển cho những công trình xuất hiện theo ý họ (chẳng biết dịch như thế nào: able to bend and warp the very fabric of reality to their whims, chẳng qua là cách xây dựng của Protoss: gọi công trình đến). Nó cố tìm một cách để chống lại sức mạnh khủng khiếp của Protoss những không thấy được gì trong những dòng gene mà nó có.
Bên bờ của tuyệt vọng, Overmind phát hiện ra một điều đặc biệt. Một trong những đơn vị do thám của nó mang về thông tin về vị trí và khả năng của một loài sở hữu một loạt những hành tinh không tên ngay dưới bóng của Protoss.
Loài mới này, được gọi là Humanity (loài người), chỉ còn một ít thế hệ nữa trước khi phát triển thành một loài có sức mạnh tinh thần ghê gớm. Nhưng Overmind cũng biết rằng loài này vẫn trong giai đoạn ẵm ngửa, khó có thể tự mình chống lại lực lượng của Zerg. Mặc dù là một loài sống ngắn và có vẻ mỏng manh, nhưng Overmind biết rằng loài người sẽ là vấn đề quyết định thành bại giữa nó và Protoss. Nếu nó có thể tiêu hoá tiềm năng súc mạnh tinh thần của loài người, Overmind sẽ đủ sức mạnh để chiến đấu với Protoss.
Do đó, bầy Zerg chậm rãi tiến về phía thế giới loài người. Hàng trình đó kéo dài sáu mươi năm nhưng cuối cùng bầy Zerg khổng lồ cũng đến nơi. Gửi đi một bầy (Brood: bầy, chỉ một đơn vị của Zerg có một Cerebrate lãnh đạo, trong khi toàn bộ lực lượng của Zerg gọi là Swarm) trinh sát, Overmind phát hiện ra loài người phát triển trên hơn một tá hành tinh trong khu vực. Cấy vào khí quyển của hanh tin Chau Sara những mầm của tổ Zerg (Hive), Overmind bắt đầu triển khai kế hoạch chính để thu phục loài người. Những mầm đó dần dần rơi xuống bề mặt hành tinh Chau Sara và tạo ra trong đất những chất độc của Zerg. Loài người không hề biết rằng Zerg đã nhiễm vào tầng đất mặt của hành tinh của họ, và Zerg bắt đầu hạ cánh xuống hành tinh và xây dựng những công trình kỳ quái của chúng cũnh như hệ thống tổ. Một khi quá trình nhiễm một hành tin diễn ra tốt đẹp, Overmind tiếp tục điều những thuộc hạ phàm ăn của nó đến những hành tin khác gần đó. Âm thầm và lặng lẽ, những đứa con của Overmind nhanh chóng nhiễm vào Chau Sara, Mar Sara, Brontes và Dylar IV mà không bị những người trên những hành tinh đó phát hiện ra.
Tuy nhiên, từ khoàng không lạnh lẽo, một phi đội hùng mạnh của Protoss đến để tấn công vào lực lượng xâm lược của Zerg. Overmind, lo lắng tìm hiểu khả năng của lực lượng Protoss bí ẩn, quyết định để cho Protoss làm chậm quá trình lây nhiễm. Giữ lực lượng của mình tại chỗ, Overmind theo dõi Protoss huỷ diệt hành tinh Chau Sara. Có vẻ như Protoss biết rằng toàn bộ hành tinh đã bị nhiễm và để cố gắng ngăn ngừa những sự lây nhiễm khác, nên đã thiêu huỷ cả hành tinh.
Hài lòng trước hành động kiên quyết đó, Overmind chỉ còn ngạc nhiên làm sao mà Protoss lại có thể thực hiện sự huỷ diệt hoàn toàn mạnh và đẹp đến vậy. Biết rằng trận chiến sắp tới là thử thách lớn nhất đối với sự tồn tại của mình, Overmind triệt thoái lực lượng của nó và xem xem Protoss và loài người phản ứng như thế nào.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
TERRAN:

Chủng tộc đầu tiên mà chúng ta phải nhắc tới trong câu chuyện StarCraft chính là dân tộc Terran. Chủng tộc Terran có xuất xứ từ loài Người trên Trái đất. Trải qua hàng triệu năm, sự sống trên Trái đất đã đi từ dạng thức hoang sơ đầu tiên, qua những bước tiến hoá của tự nhiên để hình thành Con Người với những thuộc tính nhất định. Quãng thời gian tiến hoá hàng triệu năm đó hầu như chỉ diễn ra một cách tự nhiên, con người hiện đại vào cuối thế kỷ 20 sau Công lịch là sản phẩm tiến hoá của tự nhiên. Tuy nhiên, với khả năng sáng tạo mạnh mẽ, con người đã dần nắm được cơ chế điều khiển gen, tự mình can thiệp vào quá trình tự nhiên vĩ đại, từ đó, nhiều giống người mới đã hình thành …

Sự suy tàn của nền văn minh phương Tây

Trong suốt thế kỷ 20, loài người đã có những bước phát triển cực nhanh, nền văn hoá toàn cầu và công nghệ đã có những thành tích vượt bậc, tuy nhiên, sự tiến hoá tự nhiên đó đã bị lu mờ bởi những bước đột phá liều lĩnh mà loài người vẫn theo đuổi. Vào cuối thế kỷ 21, nhân loại đã được chứng kiến những sự thay đổi liều lĩnh chưa từng thấy trên toàn thế giới. Các công nghệ hạt nhân mới được giới thiệu với tỷ trọng không ngờ, khiến cho ngay cả các dân tộc nghèo nhất trên trái đất cũng có thể thâm nhập mạnh mẽ vào các cơ sở dữ liệu thông tin và mạng máy tính. Trong công cuộc tiễu trừ chủ nghĩa Cộng sản ở các quốc gia phương Đông, vũ khí hạt nhân đã trở nên phổ biến. Cấu trúc quyền lực quốc tế, sau khi được xác định dứt khoát dựa trên việc chiếm hữu tư bản và sức mạnh quân sự vượt trội, đã bị phá hoại từng phần do các quốc gia thuộc thế giới thứ 3 đứng lên chống lại ý định thống trị thế giới của các siêu cường quân sự và siêu cường kinh tế.
Do việc áp dụng mạnh mẽ thành tựu của điều khiển học, nhân bản vô tính và nối ghép gen vào đời sống xã hội, các chiến sỹ theo chủ nghĩa nhân văn và các nhóm tôn giáo cuồng tín đã tập họp nhau để chống lại các quyền về lợi ích cá nhân của các tập đoàn được hưởng lợi từ các thí nghiệm về gen. Rất nhiều người đã được cải biến cơ thể nhờ vào việc cấy ghép các chíp điều khiển trong cơ thể, trong khi một số đông cá nhân khác bắt đầu tiếp cận với kỹ thuật công nghệ sinh học, bản thân cơ thể họ cũng có những đột biến, từ việc tăng cường các giác quan đến khả năng thần giao cách cảm đặc biệt. Những thay đổi mạnh mẽ trong cấu trúc gen của nhân loại đã gây nên sự sợ hãi sâu sắc trong nhiều nhóm nhân văn.
Công nghệ tiếp tục được phát triển và trải rộng khắp dẫn tới tốc độ tăng dân số chóng mặt. Vào gần cuối thế kỷ 20, chỉ có 6 tỷ dân trên địa cầu. Trong 300 năm tiếp theo, dân số trái đất đã tăng tới khoảng 23 tỷ người. Dân số đông đúc cùng với sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và các nguồn năng lượng đã khiến cho các nhà lãnh đạo thế giới phải tìm cách ngăn chặn đà tăng trưởng dân cư của đất nước mình. Quan điểm phổ biến được đưa ra là địa cầu đã rơi vào một thảm hoạ không tránh được do sự quá tải về dân số và do sự cải biến gen tràn lan.
Trong khi đó, tình trạng căng thẳng lan tràn trên khắp thế giới bắt nguồn từ việc lạm dụng kỹ thuật điều khiển học cùng và kỹ thuật biến đổi gen, đã khiến cho hạt nhân của các hệ thống kinh tế thế giới phải tự co lại và cuối cùng là bị sụp đổ. Hoạt động khủng bố dữ dội và bạo lực tràn lan nổ ra giữa các phái nhân văn với khu vực công ty khiến cho lực lượng cảnh sát phải tăng cường hoạt động trên toàn cầu. Sự tuyên truyền của hệ thống truyền thông thiếu trách nhiệm về các hoạt động cảnh sát hung bạo đã kích thích nội chiến nổ ra tràn lan ở nhiều quốc gia lớn. Cuối cùng, sự cân bằng tạm thời của các tác nhân quyền lực thế giới đã bị tiêu tan trong địa ngục toàn cầu.

Trật tự mới

Ngày 22 tháng Mười một năm 2999, Liên đoàn các quyền lực liên kết (United Powers League - UPL) được thành lập. Liên đoàn này được Liên Hợp quốc thành lập ra và trở thành hiện thân cuối cùng của mong ước về nhân loại thống nhất. Tổ chức mới này bao gồm và điều khiển khoảng 98% dân số Trái Đất, chỉ loại trừ khoảng một vài bang Nam Mỹ thiếu ổn định. Liên đoàn thành lập dựa trên “chủ nghĩa xã hội giác ngộ”, nhưng thường phải nhờ đến các hành động sen đầm phát xít, khắc nghiệt nhằm duy trì trật tự công cộng. Sau gần 80 năm duy trì sự kiểm soát hành tinh, Liên đoàn bắt đầu một kế hoạch tàn nhẫn nhằm thống nhất các nền văn hoá của nhân loại, một kế hoạch chưa từng có trên Trái Đất. Một số phần chi tiết lớn của kế hoạch này đã được thực hiện nhằm trừ bỏ những tàn tích cuối của chủ nghĩa ly khai cấp tiến, và Uỷ ban Nhất thể hoá đã ra lệnh cấm nhiều tôn giáo cổ xưa nhất của Trái Đất. Tiếng Anh được chỉ định là ngôn ngữ chung của hành tinh, thay cho nhiều loại ngôn ngữ cổ đại vốn đã lần lượt bị cấm sử dụng tại các quốc gia.
Mặc dù Liên đoàn đã chính thức ra lệnh cấm đoán các tôn giáo, tổ chức này đã giữ lại một đức tin đầy nhiệt huyết về sự thần thánh của loài người. Kiểu tín ngưỡng độc đoán này đưa ra lời kêu gọi phải xoá bỏ ngay lập tức khỏi Quỹ gen của loài người thuần chủng mọi sự cải biến hoặc lắp ghép bộ phận cơ thể được coi là không cần thiết cho sự sống. Những người đề xuất kiên quyết của Liên đoàn và các học giả tranh cãi không nghỉ với nhau về công nghệ điều khiển học và sự biến đổi gen cũng như việc sử dụng các loại thuốc hướng thần kinh, tất cả đều dẫn tới sự suy thoái của loài người. Các nhà lãnh đạo Liên đoàn đưa ra một kế hoạch táo bạo nhằm đảm bảo rằng nhân loại nên kiên trì, tránh bị ảnh hưởng trước sự mong muốn áp dụng các công nghệ tiên tiến.

Cuộc tẩy rửa vĩ đại:

Giống như các phiên toà dị giáo đẫm máu đã tàn phá châu Âu 800 năm trước, Liên đoàn đã chọn một trong những kế hoạch tàn nhẫn nhất mà nhân loại chưa bao giờ tưởng tượng nổi, đó chính là “Đề án tẩy rửa”. Cuộc Thập tự chinh mang tính diệt chủng lần này chính là biện pháp cuối cùng của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề tẩy sạch những mặt thoái hoá khỏi loài người. Binh lính của Liên đoàn sục sạo khắp các quốc gia trên Trái Đất, bắt giữ những người bất đồng quan điểm, các hacker, các cá nhân được chế tạo tổng hợp, những kẻ cướp công nghệ và các loại tội phạm khác. Trên toàn bộ hành tinh đã loại trừ được gần 400 triệu dân. Hãng thông tấn thế giới, nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Liên đoàn, giấu nhẹm đi các vụ bạo lực kinh hoàng và giữ công chúng trên trái đất trong vòng u mê để họ khỏi chống lại các hành động hung bạo đáng bị lên án.
Mặc dù các hoạt động của Liên đoàn thật là ghê tởm, nhưng họ cũng đã thành công trong việc giành được nhiều công nghệ cơ bản. Các lĩnh vực nghiên cứu vốn phải nằm im nhiều thập kỷ được tái khởi động dưới sự kiểm soát của Liên đoàn. Các chương trình khai thác Vũ trụ vốn có từ giữa thế kỷ 20 nhưng bị Hoa Kỳ và Nga từ bỏ do ngân sách bị cắt giảm nghiêm trọng và do sự phá hoại liên tục về mặt chính trị, đã trở thành cơ sở cho một kỷ nguyên mới hướng tới việc khai thác tài nguyên vũ trụ phục vụ loài người. Việc nối lại công nghệ sử dụng chất làm lạnh để thực hiện tình trạng “ngủ đông” và công nghệ lái xuyên vũ trụ đã cho phép con người thực hiện các cuộc viễn hành giữa các vì sao. Trong vòng 40 năm, Liên đoàn đã lập nên nhiều thuộc địa mới ở Mặt Trăng và nhiều hành tinh khác trong hệ mặt trời.
Suốt thời gian này, một nhà khoa học trẻ tuổi nhưng có tài tên là Doran Routhe đã lập các kế hoạch nhằm tăng cường quyền lực của bản thân trong Liên đoàn. Không tham dự vào vào các hoạt động bẩn thỉu của dự án Tẩy rửa, Routhe bị ám ảnh bởi ý tưởng thành lập các thuộc địa trên thiên hà ngoài lãnh địa của Terran. Routhe tin tưởng rằn việc khám phá ra các loại khoáng sản mới, các loại nhiên liệu thay thế sẽ khiến anh ta trở thành một trong số những người có nhiều quyền lực nhất trên Trái Đât. Thông qua các mối liên hệ chính trị và tài sản cá nhân, Routhe đã có thể có được hàng ngàn tù nhân của Liên đoàn và sử dụng họ như những con chuột thí nghiệm phục vụ các chương trình bí mật của hắn.
Các tù nhân, vốn được liệt vào danh sách sẽ hành quyết hàng loạt trong Đề án Tẩy rửa, được chuyển đến các phòng thí nghiệm riêng của Routhe. Routhe, dự kiến sẽ gửi các tù nhân này đi lập thuộc địa ở các thế giới xa xôi, đã lập các đội khoa học để chuẩn bị cho gần 50.000 người thực hiện việc ngủ đông trong thùng lạnh. Sau khi liệt kê hàng loạt tù nhân thuộc diện biến đổi gen và cấy ghép bộ điều khiển nâng cao, Routhe nhập toàn bộ dữ liệu này vào một siêu máy tính tiên tiến, còn gọi là Hệ thống phân tích logic viễn cảm nhân tạo (Artificial Tele-empathic Logistics Analysis System – ATLAS), y dùng siêu máy tính này để xử lý các thông tin về gen để có thể dự đoán được tù nhân nào sẽ sống sót sau cuộc viễn hành sắp tới. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có khoảng 40.000 tù nhân là có thể sống sót được sau khi trải qua cuộc viễn hành với những điều kiện khắc nghiệt nhất. 40.000 tù nhân này sẽ được đưa lên 4 siêu hạm tự động khổng lồ và được đưa vào một giấc ngủ đông trong buồng lạnh, các con tàu siêu hạm nói trên cũng được trang bị đầy đủ nguồn dự trữ thực phẩm, quân trang, thiết bị nhằm giúp tù nhân khi họ đã đến đích theo lịch trình. Máy tính hoa tiêu được lập trình với toạ độ đến là hành tinh xa xôi có tên Grantris VI. Tất cả đã có vẻ như đã được chuẩn bị tốt, thậm chí Routhe cũng không hề nghĩ đến việc những tù nhân này sẽ lên đường đến với cái chết chắc chắn trong giải Ngân hà.

Sự đày ải và giấc ngủ dài

Siêu máy tính ATLAS được cài đặt trên con tàu siêu hạm thứ nhất có tên Nagglfar. Ba tàu siêu hạm còn lại gồm các tàu Argo, Sarengo và tàu Reagan được lập trình để đi theo sau tàu Nagglfar ngay khi chúng được phóng vào khoảng không vũ trụ và hướng về phía hành tinh Gantris VI. Trong suốt thời gian của cuộc hành trình mà các thế hệ sau này vẫn gọi là “Giấc ngủ dài”, siêu máy tính ATLAS liên tục kiểm soát tình trạng của các tù nhân đang bị giữ trong những thùng đầy ứ chất làm lạnh. Qua đánh giá một số biến đổi và sự nâng cấp tìm thấy trong quỹ gen của các tù nhân, ATLAS bắt đầu nhận ra một chiều hướng biến đổi gen mạnh mẽ tồn tại trên DNA của các tù nhân. Trong khi sự biến đổi này được tìm thấy trong khoảng dưới 1% số tù nhân, thì tỷ lệ biến đổi dường như tăng lên một cách mạnh mẽ và tiềm tàng trong não người. Siêu máy tính ATLAS tính toán rằng nếu các tù nhân này sống sót trong môi trường mới thì nhiều người trong số họ sẽ có thể được hưởng lợi từ việc biến đổi này, và những lợi ích đó sẽ có tác dụng trong chỉ một vài thế hệ. Các kết quả tính toán được ghi lại và gửi ngược về Trái Đất, thẳng vào văn phòng của Doran Routhe.
Mặc dù lịch trình ban đầu của chuyến đi là 1 năm, nhưng trên thực tế, các con tàu đã gặp phải tình huống xấu khi trong suốt cuộc hành trình, hệ thống hoa tiêu nối với ATLAS đã bị tắt một vài lần khiến cho toạ độ của hành tinh Gratris và toạ độ của Trái đất bị xoá mất. Bốn con tàu, mang theo số “hàng hoá” kém may mắn trong khoang, đã thực hiện một chuyến du hành mò mẫm trong không gian gần 30 năm.
Cuối cùng, các động cơ xuyên vũ trụ của 4 siêu hạm này cũng đến lúc hết nhiên liệu và phải ngừng hoạt động trong tình trạng tồi tệ. Sau 28 năm du hành, các con tàu khổng lồ đã xâm nhập vào vùng không gian gần rìa của một hệ thống hành tinh có thể sinh sống được, cách Trái Đất khoảng 60.000 năm ánh sáng. Các động cơ của tàu bị phá huỷ và nguồn dự trữ hỗ trợ sự sống trên tàu gần như bị cạn kiệt, 4 con tàu liền phóng các tín hiệu cấp cứu và nhào xuống hành tinh gần nhất có thể có sinh quyển trong hệ thống hành tinh.
Tàu Reagan và tàu Sarengo hạ cánh mạnh xuống vùng đất gọi là Umoja. Sarengo, vốn phải chịu nhiều hỏng hóc hệ thống trong quá trình giảm áp, đã đâm mạnh vào bề mặt hành tinh Umoja, giết chết toàn bộ 8000 hành khách đang say ngủ trên tàu. Tàu Reagan may mắn hơn, đã tạo được một quá trình giảm áp có kiểm soát và hạ cánh an toàn. Khi con tàu đã hạ cánh, các buồng ngủ đông trên tàu không hoạt động nữa và các hành khách sống sót thức dậy một cách chậm chạp. Các hành khách trên tàu cố phân biệt xem họ đang ở đâu và đã “ngủ” bao nhiêu lâu, cuối cùng họ phát hiện ra hệ thống máy tính ATLAS đã xoá hầu hết dữ kiện về chuyến hành trình ra khỏi bộ nhớ.
Tàu Argo hạ cánh trên hành tinh đỏ Moria. Hành khách trên tàu này cũng gặp phải các tình trạng tương tụ như những người còn sống sót của tàu Reagan, nghĩa là toàn bộ thông tin liên quan đến tình hình hiện tại đều bị xoá sạch. Chỉ có các hành khách trên tàu Nagglfar là có thể thâm nhập vào hệ thống máy tính trên tàu mình để biết được thông tin về chuyến bay. Họ thâm nhập trực tiếp vào hệ thống ATLAS và khẳng định được mối nghi ngờ đang dâng lên trong suy nghĩ, rõ ràng là họ sẽ không bao giờ có thể quay về Trái đất được nữa. Mặc dầu đã hạ cánh trên hành tinh Tarsoniss có khí hậu ôn hoà nhưng con tàu đã bị hỏng quá nặng, không thể phục hồi. Cuộc sống đày ải của những kẻ sống sót đều có ở trên 3 haành tinh, họ bắt đầu thu thập nhặt nhạnh các mảnh vỡ của con tàu trong một nỗ lực nhằm cố tìm ra nơi trú ngụ trên mảnh đất mới của mình.

Liên bang và Thế giới mới (THE CONFEDERACY AND THE NEW WORLD)

Cư dân trên mỗi hành tinh đều lao động cật lực để sống sót trong môi trường mới, nơi mà họ đặt tên là “Thế giới mới”. Không hề biết rằng các đồng bào của mình cũng phát triển thịnh vượng trên các hành tinh khác trong cùng hệ hành tinh, những người Terran lang thang này sử dụng mọi nguồn tài nguyên dù là nghèo nàn nhất mà họ có thể tìm được. Do bị mất phương tiện liên lạc có thể vượt qua khoảng cách liên hành tinh xa xôi khi những con tàu chở họ bị phá huỷ để khai thác các vật liệu cần thiết (cho việc sinh tồn), Terran đã phải sống cô lập trong nhiều thập kỷ. Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, cả 3 nhóm Terren cách biệt đều thành lập các vùng định cư (colony) trên hành tinh của mình, các vùng định cư riêng biệt này tồn tại thêm khoảng 60 năm trước khi chúng được thống nhất nhờ và các cuộc du hành vượt không gian. Trong thời gian đó, các nhóm Terran đã phát triền thành các cộng đồng tự cung tự cấp thịnh vượng. Nhóm Terran trên hành tinh Tarsonis là nhóm đông nhất và có trình độ công nghệ cao hơn cả đã phát triển được thế hệ động cơ xuyên không gian (sub-warp engine) thế hệ thứ hai. Loại động cơ này cho phép các con tàu của họ thực hiện được những chuyến khai phá vô số hành tinh cằn cỗi trong hệ thống sao xung quanh, và cuối cùng đã đưa họ tìm đến những nhóm người sống sót còn lại sau “Giấc ngủ dài”.

Sau khi đã được thống nhất, cả 3 nhóm thuộc địa đều hưởng lợi từ các cuộc giao thương và các hiệp ước thương mại. Mặc dầu Tarsonis luôn ép Umoja và Moria phải gia nhập một chính phủ kết hợp, hai thuộc địa này nhanh chóng từ chối. Trong khi đó các hạm đội của hành tinh Tarrsonis tiếp tục khai thác các khoảng không của dân Terran, sau đó được gọi là khu vực Koprulu.

Việc Tarsonis thành lập được nhiều khu định cư trên bảy hành tinh khác trong hệ thống sao cho phép sức mạnh quân sự của Tarsonis phát triển vượt bậc. Một chính phủ mới, được đặt tên là Liên Bang Terran, đã được thành lập dựa trên các thuộc địa của Tarsonis. Động thái này đã khiến cho nhóm Terran sống trên hành tinh Moria, vốn có hoạt động khai thác tài nguyên mạnh nhất Koprulu, bắt đầu cảm thấy lo sợ trước nguy cơ quyền lực của chính phủ mới sẽ vươn cánh tay của họ tới để điều hành các hoạt động khai thác đầy lợi nhuận của mình. Do đó họ thành lập Kel-Morian Combine (Liên hợp Kel-Moria), một tổ chức liên hiệp mờ ám, sẽ cung cấp những trợ giúp về quân sự cho bất cứ nhóm khai thác đang nào bị áp lực từ chính sách của Liên Minh. Do vậy, căng thẳng gia tăng giữa Liên Bang và Liên hợp Kel-Moria, châm ngòi cho cuộc chiến Guild Wars (cuộc chiến giữa các phường hội khai thác, chẳng qua chỉ là tên một cuộc chiến).

Cuộc chiến tranh này kéo dài khoảng 4 năm, cuối cùng Liên Bang đã phải "đàm phán" hoà bình với Liên hợp. Mặc dù Tổ hợp vẫn tiếp tục giữ lại quyền tự trị của mình nhưng hầu hết các nhóm khai thác mà họ ủng hộ đều bị rơi vào tay Liên minh.

Cộng đồng Terran trên hành tinh Umoja khi nhận ra cái Liên bang ăn cướp ấy mạnh như thế nào đã thành lập Chế độ bảo hộ Umoja (Umojan Protectorate). Lực lượng dân quân Umoja theo xung hướng dân tộc này có nhiệm vụ giữ các thuộc địa của mình tự do trước chính thể chuyên chế của Liên minh. Cuối cùng, cuộc chiến Guild Wars đã xác lập vị trí thống trị của Liên Bang trong cơ cấu quyền lực Terran.

Sức mạnh của Liên Bang tiếp tục phát triển do những "người thăm dò" của Liên Bang liên tiếp chiếm lĩnh hết hành tinh này đến hành tinh khác với chủ nghĩa bành trướng liều lĩnh. Các nhóm không tặc và các tổ chức dân quân cấp tiến bắt đầu nảy nở liên tục do việc các cơ quan quyền lực của Liên Minh tiếp tục vi phạm nhân quyền đối với dân chúng. Một trong những ví dụ lớn nhất trong các cuộc khởi nghĩa chống lại chính sách của Liên Bang chính là cuộc Nổi loạn của Korhal.

Cuộc nổi loạn của Korhal (THE REBELLION OF KORHAL)

Korhal là một trong những hạt nhân của Liên Bang, vốn do các người khai hoang của Tarsonis thành lập. Là một hành tinh sung túc, giàu có, Koral đóng góp rất nhiều vào sức mạnh quân sự và tiến bộ khoa học của Liên Bang. Mặc dù Liên Bang được hưởng nhiều lợi ích từ phía Korhal, nhưng thói tham nhũng thường xuyên của các nghị sĩ Liên Bang đã khiến cho cộng đồng cư dân của Korhal cảm thấy rất phẫn nộ. Để cố giành lại sự độc lập của mình, dân chúng Korhal xúi bẩy, tổ chức hàng loạt cuộc nổi loạn chống lại lực lượng quân sự của Liên Bang đồn trú tại hành tinh. Liên Bang phản ứng lại một cách tử tế và công bố tình trạng chiến tranh trên toàn hành tinh này. Việc này chỉ khiến cho dân chúng Korhal vốn đã bị khích động lại càng khích động hơn, làm tình trạng hỗn loạn, vốn đã lan tràn, lại càng nóng hơn.
Liên Bang tin rằng nếu thuộc địa giàu có và được nuông chiều nhất của họ mà còn nổi loạn chống lại họ, thì rốt cục tất cả các thuộc địa khác cũng có thể nổi dậy. Chính vì thế Liên Minh đã quyết định phải dập tắt cuộc khủng hoảng Korhal bằng mọi biện pháp cần thiết. Vụ Korhal phải trở thành một bài học ví dụ cay đắng nhất cho tất cả các thuộc địa khác trong Liên minh.

Một nghị viên năng nổ người Korhal tên là Angus Mengsk đã tự mình nhận lãnh trách nhiệm đối với nguyện vọng và tình cảm của nhân dân Korhal. Lời kêu gọi tự do của dân Korhal là không thể phủ nhận được khi Mengsk tuyên chiến chống lại Liên Bang. Bằng việc lôi kéo toàn dân Korhal vào một cuộc chiến ái quốc điên rồ, Thượng nghị sỹ Mengsk đã thành công trong việc chiếm lĩnh và kiểm soát những tiền đồn của Liên bang ở Korhal. Bằng việc tuyên bố rằng Liên Bang không còn giữ quyền đòi hỏi gì nữa đối với hành tinh Korhal, Mengsk đã thành công trong việc giành được sự chú ý và thán phục của các khu định cư đang đấu tranh khác.

Liên Bang, trong nỗ lực kiềm chế tình hình, đã rút lực lượng cùng với hạm đội của mình ra khỏi bầu trời Korhal. Mengsk và các lãnh tụ khác của cuộc khởi nghĩa tin rằng họ đã giành được độc lập, ăn mừng chiến thắng trước Liên Bang. Trong khi đó, Liên Bang thừa biết việc họ nhận thua tại Korhal sẽ đồng nghĩa với việc kích động các thuộc địa khác khởi nghĩa, đã đặt kế hoạch chiếm lại hành tinh này thông qua các biện pháp khôn khéo xảo quyệt hơn.

Liên Bang bí mật phái tới Korhal 3 thích khách lợi hại nhất mà họ có, được biết đến với cái tên “Ghost”, để tiêu diệt Mengsk cùng các đồng sự của ông ta. Thi thể không đầu của Mengsk, nằm chung với xác của vợ và con gái được phát hiện ngay sáng hôm sau trên ban công toà biệt thự kiên cố của ông ta, nơi vẫn được sử dụng như tổng hành dinh của cuộc khởi nghĩa. Cái đầu của Mengsk không bao giờ được tìm thấy. Vụ ám sát này tuy đã làm suy yếu cuộc khởi nghĩa Korhal nhưng cũng đồng thời đổ thêm dầu vào ngọn lửa hận thù, để cuối cùng tạo nên một một kẻ đối địch vĩ đại nhất mà Liên Bang chưa bao giờ biết tới.
( còn tiếp )​
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Back
Bên trên