Nhật Bản

Mai Ngọc Bích
(narisie)

CTV Ban Thông Tin
Cái này em search và tổng hợp trên mạng. :D Ai thấy thiếu thì bổ sung cho em :D
1. Người Nhật
Hiện vẫn chưa chắc chắn về xuất xứ và thời gian xuất hiện những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật Bản. Tuy nhiên, hầu hết các học giả đều cho rằng họ đã có mặt tại quần đảo từ xa xưa và định cư liên tục từ đó cho đến thời nay. Những phát hiện trong nghiên cứu cổ vật, xương ... đã củng cố thêm sự nghi ngờ đối với thuyết trước kia cho rằng người Nhật là con cháu của những người xâm chiếm đến sau "thổ dân" Ainu và đã đẩy bộ tộc này ra khỏi quần đảo. Ngày nay, người ta tin rằng tổ tiên của người Nhật là những người đã làm nên đồ gốm mang tên Jomon. Những người này được biết là đã có mặt trên quần đảo ít nhất từ năm 5000 TCN, sau đó theo thời gian, pha trộn với các giống người khác, phát triển qua lịch sử thành dân tộc Nhật Bản ngày nay.
Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hoá của cả phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc hệ thống ngôn ngữ Antai của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hoá trồng lúa nước vốn có nguồn gốc ở phía Nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường xuống hạ giới thì có nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.
Những năm gần đây, các cuộc khai quật di tích khảo cổ ở nhiều khu vực khác nhau trên khắp đất nước cho thấy khả năng tồn tại của một nền văn hoá tiền đồ đất nung ở Nhật Bản trước văn hoá Jomon, có thể là thời đại đồ đá cũ. Các di chỉ khai quật tại Iwaijuku thuộc tỉnh Gumma năm 1949 cho ta biết những đồ dùng bằng đá không kèm theo đồ đất nung từ lớp đất sét Kanto, được coi là thuộc về thời đại đồ đá cũ. Những vật dụng tương tự cũng được tìm thấy trong khi khai quật di chỉ Chausuyama thuộc thành phố Suwa và tại Moro thuộc quận Itabashi của Tokyo.
Khảo sát các di chỉ thời kì đồ đá mới cho thấy văn hoá Jomon tồn tại từ khoảng năm 5000 TCN đến năm 200 TCN vốn là thời kì du mục săn bắt và hái lượm, sau đó là văn hoá Yayoi tồn tại từ khoảng năm 200 TCN đến năm 200, có thể đã được khởi đầu bằng một đợt di cư của cư dân từ lục địa đến và họ mang theo nền văn hoá định cư và trồng trọt. Vào khoảng cuối thế kỷ III đến cuối thế kỷ VI, nổi lên nền văn hoá được gọi là văn hoá "nấm mồ" do có đặc tính xây lăng bằng đất đồ sộ cho các vua.
Từ cuối thời văn hoá Yayoi đến thời văn hoá "Mộ tàng" là thời kì thực sự hình thành đất nước Nhật Bản. Văn bản ghi chép của Trung Quốc thời đó giúp ta có thêm thông tin về thời kì này, chẳng hạn, phần nói về nhà nước Yamatai và nữ hoàng Himiko có trong tư liệu "Về dân tộc Hoà" trong "Lịch sử thời nhà Vệ" của Trung Quốc. Qua tài liệu này, ta có thể biết được tình hình Nhật Bản ngay trước khi lập nên triều đại Yamato.
 
2. Hệ thống hoàng tộc
Dòng dõi hoàng tộc của Nhật Bản, khởi nguồn từ huyền thoại một vị thần được coi là ông tổ của hoàng tộc từ thiên đường xuống hạ giới, đã có sự nối dõi liên tục chưa hề đứt quãng trong lịch sử kể từ đời các hoàng đế xa xưa.
Qua một quá trình dài, đã xảy ra những tranh chấp trong gia đình hoàng tộc về quyền nối ngôi dẫn đến ám sát, lưu đày, giam cầm hoặc thậm chí Nhật hoàng phải tự sát song ngai vàng vẫn luôn nằm trong tay một thành viên của hoàng tộc. Ngoài ra, trải qua những thăng trầm của các hoàng đế và các triều đại, hoàng tộc vẫn được người dân ủng hộ do sự tôn kính và tin tưởng đối với vua. Điều đó vẫn tồn tại cả khi "chính quyền Mạc Phủ" ra đời. Cha truyền con nối làm cho quyền lực của Nhật hoàng chỉ là danh nghĩa, và thậm chí ngay cả khi các Nhật hoàng phạm sai lầm về chính trị nhưng vẫn nắm giữ ngai vàng. Những cuộc lật đổ hoặc âm mưu phá vỡ hệ thống ngôi vua đều bị kết thúc thất bại.
Các học giả Nhật Bản cho rằng điều cha truyền con nối của dòng dõi hoàng tộc ở Nhật Bản dài lâu hơn bất cứ nước nào trên thế giới là do các Nhật hoàng đều anh minh, cai trị dân một cách hiền hoà, không dùng bạo lực, điều mà ta ít thấy ở những hoàng đế của một số nước khác. Tuy nhiên, có một nhân tố khác là, trong khoảng 1500 năm kể từ khi lập nên hệ thống truyền nối ngôi vua, chỉ có một thời gian ngắn Nhật hoàng trực tiếp điều khiển chính sự. Họ thực hiện quyền lực lớn nhất trong khoảng 2 thế kỷ thuộc thời Asuka (593-708) - thời kì Cải cách Taika và sự ra đời bộ luật Ritsuryo, kéo dài từ thời Nhật hoàng Temmu và hoàng hậu Joto, qua thời Nara cho đến đầu thời Heian vào đầu thế kỷ IX.
Trong khoảng hơn 1000 năm sau đó, chính quyền nằm trong tay các nhiếp chính hoặc về sau, thời Shogun (Tướng quân), thuộc "chính quyền Mạc Phủ" mà Minamoto - no - Yoritomo là người thiết lập nên. Trong suốt thời gian đó, hoạt động của các Nhật hoàng và triều đình tại Kyoto đều giới hạn ở những vấn đề có tính chất văn hoá hơn là chính trị. Ngoài ra, triều đình cũng buộc phải thoả hiệp trước yêu cầu của các dòng họ có thế lực và chế độ Shogun. Mặc dù một vài Nhật hoàng trong thời kì đó cố khôi phục quyền lực chính trị, nhưng họ hoàn toàn thất bại hoặc chỉ thành công ngắn ngủi. Phải tới thời Minh Trị, mô hình Nhật hoàng trực tiếp điều hành mới thay thế cho chế độ phong kiến của "chính quyền Mạc Phủ" đã kéo dài quá lâu. Nhật hoàng Minh Trị cai trị từ 1868 đến 1912 thực tế đã tham gia tích cực vào việc thảo luận chính sách với những người lãnh đạo nhà nước vốn là những người đã đem lại cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân. Tuy nhiên, những người kế vị ông đã kém tích cực hơn. Với việc gia tăng sức mạnh chính trị của lực lượng lãnh đạo nhà nước nhưng vẫn tư tưởng cũ, và sau đó, trong những năm 1920 và 1930, quyền lực rơi vào tay phái quân sự, không những Nhật hoàng mà cả các đảng phái chính trị mới thành lập và nghị viện một lần nữa lại ngày càng bị yếu thế. Hầu hết người dân Nhật Bản cho đến thời điểm đó vẫn trung thành và tôn kính Nhật hoàng. Thậm chí sau chiến tranh, Nhật hoàng vẫn giữ ngôi vua như là một biểu tưởng quốc gia, trên thực tế, là một vị trí tương tự như vị trí của các Nhật hoàng nối ngôi từ thế kỷ X về sau.
Một yếu tố khác giúp cho việc giữ gìn dòng dõi hoàng tộc là vị trí và đặc điểm của lãnh thổ Nhật Bản. Là một quốc đảo rất ít tiếp xúc và tranh chấp với các dân tộc khác, Nhật Bản không chịu áp lực nào từ bên ngoài đe doạ hệ thống cai trị. Nhật hoàng cũng không cần giữ vai trò chỉ huy quân đội để tượng trưng cho sự thống nhất dân tộc trước các dân tộc khác. Vì nhiều lí do, dòng dõi hoàng tộc đã tồn tại trong suốt nhiều thời kì.
 
3. Chính quyền Mạc Phủ
Chính quyền Mạc Phủ hoặc chính quyền Thogun (tiếng Nhật là Bakufu - có nguồn gốc là từ Mạc Phủ chỉ tướng cận vệ hoàng gia tại Trung Quốc) lần đầu xuất hiện khi vị tướng Minamotono - no -Yoritomo tự phong chức vị Seii - Taishogun (Chinh di đại tướng quân) vào năm 1192, bảy năm sau khi đã kiểm soát đất nước trên thực tế. (Chức vị này khởi nguồn từ năm 801, được phong cho vị tướng đã chinh phục quân man di ở Bắc Nhật Bản cho Nhật hoàng thời Yamato. Tuy nhiên vị tướng này, có tên là Sakanoue - no - Tamuramaro, đã không tìm cách thâu tóm quyền lực vào tay mình).
Một số gia tộc được gọi là buke hoặc bumon không thuộc số võ sĩ thông thường, mà được coi là một chi của dòng dõi hoàng tộc. Cuối thời Heian, ngày càng xảy ra nhiều rối loạn ở các tỉnh do quý tộc ngày càng yếu kém và bất lực, vì vậy những dòng họ giàu có hoặc các nhà chùa có trong tay thái ấp riêng bắt đầu sử dụng quân vệ binh, vũ trang để tự bảo vệ, duy trì trật tự xã hội. Những ai có đội Samurai hay cận vệ lớn được gọi là toryo (thủ lĩnh). Những người có quan hệ huyết thống với hoàng gia hoặc quý tộc sống tại các tỉnh trở thành toryo với sự hậu thuẫn của các võ sĩ địa phương trên cơ sở địa vị xã hội hoặc dòng dõi quý tộc (như dòng họ Heike hay Taira và dòng họ Genji hay Minamoto, những dòng họ về sau tranh nhau quyền kiểm soát đất nước, là con cháu của các Nhật hoàng Kammu và Seiwa). Đầu tiên, các thủ lĩnh địa phương ấy yếu thế hơn triều đình và giới quý tộc triều đình, phải chịu phụ thuộc, song đến cuối thời Heian, họ nắm vai trò trung tâm, với quyền lực thực sự, được giới quân sự hậu thuẫn. Trong các cuộc nội chiến thời Hogen và Heike, những người này đóng vai trò chính trị nòng cốt như dòng họ Fujiwara trước kia.
Mục đích của dòng họ Heike là thay thế dòng họ Fujiwara kiểm soát hoàng gia hơn là lập nhà nước Shogun của riêng họ. Thế nhưng, sau cuộc giành giật kéo dài khoảng 20 năm, họ bị dòng họ Genji tiêu biểu là anh em nhà Minamoto - no - Yoritomo đánh bại và tiêu diệt. Yoritomo giao cho các em chiến đấu còn mình ở lại căn cứ tại Kamakura, lập ra các cơ quan cai trị để giúp ông nắm quyền lãnh đạo, đứng đầu tất cả các nhóm võ sĩ. Về sau, ông quay lại chống người em mình là Yoshitsune, và lấy cớ bảo vệ triều đình trước Yoshitsune, yêu cầu vị Nhật hoàng đã đi tu phải bổ nhiệm các quan chức gọi là shugo hay thẩm phán tại mỗi tỉnh và những chức khác gọi là jito hay quan địa chính tại tất cả các vùng đất công và tư, với danh nghĩa để truy lùng Yoshitsune nếu ông ta tìm cách lẩn trốn. Vì vậy, các Shugo chịu trách nhiệm về chính sách và kiểm soát tất cả samurai trong khu vực, còn nhiệm vụ của các Jito có việc giám sát đất đai và thu thuế - được đóng bằng gạo - theo quy mô từng khu vực.
Trong mọi việc trên, Yoritomo đều chính thức xin phép Nhật hoàng và thực thi kế hoạch với danh nghĩa Nhật hoàng. Sử dụng các chức vụ và hệ thống có sẵn từ trước - ví dụ, Jito nguyên là chức sắc địa phương do các thái ấp bổ nhiệm - Yoritomo đã đạt được mục tiêu của mình chỉ bằng cách thâu tóm quyền bổ nhiệm các chư hầu của mình vào những chức vụ này trên toàn quốc. Các shugo được chọn từ các Jito, có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của triều đình trong thời bình và lãnh đạo các chư hầu chiến đấu trong thời chiến. Song, thông qua những việc trên, Yoritomo củng cố quyền lực quản lý, giám sát và bành trướng thế lực ra toàn quốc, trở thành người cai trị về thực chất. Sau khi tiêu diệt Fujiwara Yoshihira - con của Fujiwara Heidehira, người đã che giấu Yoshitsune và dập tắt kháng cự trên cả nước, Yoritomo tiến về Kyoto. Năm 1190, Yoritomo tự phong là uỷ viên Hội đồng quốc gia và cuối cùng làm Seii - Taishogun năm 1192. Như vậy, chính quyền Shogun ra đời để lấp khoảng trống quyền lực do sự yếu kém bất lực của triều đình và các nhiếp chính để lại. Vì vậy, trong thời kỳ đầu, chế độ Shogun và triều đình không đối lập nhau. Sự đối đầu tranh chấp chỉ bùng lên với sự kiện Jokyu, sau khi Shogun Minamoto thứ ba là Sanetomo bị ám sát và dòng dõi Minamoto chấm dứt cuối năm 1219. Dòng họ Hojo - thân quyền của vợ Yoritomo là Masako - làm nhiếp chính lúc đó, phong cho một họ hàng xa của Yoritomo là Kujo Yoritsune mới 2 tuổi làm Shogun và trên thực tế vẫn nắm dây cương quyền lực trong tay. Đây là tín hiệu báo cho triều đình của Nhật hoàng Gotoba lập mưu lấy lại quyền bính. Năm 1221, triều đình ra sắc lệnh cách chức nhiếp chính Hojo Yoshitoki - em của Masoko. Song, lực lượng hoàng tộc nhanh chóng bị đánh bại, 3 vị Nhật hoàng đã đi tu bị lưu đày, và Nhật hoàng mới - Goshirakawa - được cử lên thay. Việc này đã củng cố vị trí của chế độ Shogun Kamakura trở nên mạnh hơn triều đình, được quyền can thiệp vào việc nối ngôi Nhật hoàng, chọn hoặc thay đổi Nhật hoàng theo quan điểm riêng của họ.
Năm 1318, Nhật hoàng Godaigo nối ngôi, sự kém cỏi của Hoji Takatoki một lần nữa thúc đẩy ông khôi phục quyền lực Nhật hoàng. Được võ sĩ Ashikaga Takauji giúp đỡ, ông đánh bại Hojo, và thực hiện Cải cách Kemmu. Song, không đầy ba năm sau, chính quyền mới sụp đổ khi Ashikaga Takauji quay lại chống Nhật hoàng. Godaigo chạy trốn, và lập một triều đình tị nạ ở núi Yoshino. Trong khi đó, Ashikaga Takauji cử Komyo làm Nhật hoàng và lập triều đình mới. Trong hơn 50 năm, hai triều đình dưới hai Nhật hoàng cùng tồn tại, một trên núi Yoshino, gọi là triều đình phía Nam, và một gọi là triều đình phía Bắc. Ashikaga Takauji tự phong Shogun nhân danh là nhà vua và ra đời chế độ Shogun Muromachi. Chế độ này đặt sở chỉ huy tại Muromachi ở Kyoto, sát gần triều đình. Song trong hơn 50 năm đối địch của hai triều đình trước khi sáp nhập, quan hệ giữa triều đình phía Bắc với chế độ Shogun là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Hơn nữa, chế độ Shogun của Ashikaga chưa bao giờ hùng mạnh, và đến đời Shogun thứ 8 - Ashikaga Yoshimasa - mất hầu hết quyền kiểm soát đất nước, gây ra tư tưởng bè phái mà trong cuộc chiến tranh Onin mới kết thúc. Trong cuộc chiến liên tục trên toàn đất nước, các shugo hay thẩm phán dần dần phát triển thành lãnh chúa phong kiến gọi là Daimyo hoặc shugo - Daimyo. Chỉ sau một thời gian hoà bình ngắn ngủi, đất nước đã lâm vào cảnh nội chiến hàng 100 năm, kéo dài cho đến giữa thế kỷ XVI, khi nỗ lực tái thống nhất đất nước của Oda Nobunaga thành công. Phần lớn các thủ lĩnh võ sĩ tham gia tái thống nhất lúc đó, kể cả Oda Nobunaga, đều mong muốn đến Kyoto để được Nhật hoàng và Shogun tiếp kiến. Rõ ràng họ mong những hành động của họ được chấp nhận như biểu hiện của lòng trung thành với Nhật hoàng và sự giúp đỡ chế độ Shogun Ashigaga yếu kém bằng cách tái thống nhất đất nước nhân danh Nhật hoàng và theo yêu cầu chính thức của Nhật hoàng.
Oda Nobunaga, người cuối cùng đã đạt được mục đích của mình, cùng với người kế vị Toyotomi Hideyoshi đã trung thành với Nhật hoàng, không lập ra chế độ Shogun dưới quyền mình. Tuy nhiên, thành viên cuối cùng của dòng Shogun Ashikaga là Yoshiaki do chống đối Nobunaga nên đã bị trừng phạt.
Người kế tục và kế vị của Toyotomi Hideyoshi là Tokugawa Ieyasu lập sở chỉ huy tại Edo và lập một chế độ Shogun mới dưới quyền mình. Đó là chế độ Shogun cuối cùng kéo dài hơn hai thế kỷ rưỡi. Ieyasu đã kiểm soát chặt chẽ các dòng họ Daimyo, đặc biệt những ai đã chống lại sự ham muốn quyền lực của ông ta. Họ buộc phải đóng phần lớn thu nhập ở các lãnh địa của mình để làm đường sá và các dự án cải tạo khác thì mới có thể giữ được cơ ngơi tại Edo và nơi có lãnh địa của họ. Họ để vợ và con làm con tin ở Edo, còn mình thì qua lại giữa hai nơi. Điều đó làm cho các Daimyo suy yếu đến độ khó mà tổ chức được bất cứ sự chống đối nào có hiệu quả với chế độ Shogun, ngay cả khi họ dám hi sinh gia đình của mình. Trong hệ thống đó, dân chúng bị cai trị bởi chế độ Baku Han, hay chế độ do Shogun và các lãnh chúa lơn Daimyo kiểm soát kép. Đồng thời, một sự kiểm soát có vẻ ôn hoà nhưng thực ra chặt chẽ và kĩ lưỡng đối với Nhật hoàng và triều đình được thực hiện. Chế độ Shogun Tokugawa trở nên hùng mạnh hơn các chế độ Shogun trước đến mức họ không do dự can thiệp vào mọi hoạt động của triều đình. Họ ra những pháp lệnh kiểm soát mọi hành vi của gia đình Nhật hoàng và các quý tộc, quy định Nhật hoàng và triều đình được hưởng lợi tức do tài sản nào. Thời kì này, Nhật hoàng không có mối liên hệ nào với chính quyền hoặc những vấn đề chính trị. Việc "bổ nhiệm" Shogun của Nhật hoàng cũng hoàn toàn chiếu lệ. Cho đến 260 năm sau, không có phong trào chống Shogun nào có đủ sức mạnh để mang lại thắng lợi.
Tuy nhiên, cuối cùng, "Daimyo ngoại" (những người thuộc các gia đình bị chế độ Shogun trừng trị vì không ủng hộ Tokugawa cầm quyền) cùng với các cận vệ samurai liên minh với các quý tộc đã lật đổ được chế độ Shogun. Shogun cuối cùng là Tokugawa Keiki, đã sáng suốt thấy trước điều không thể tránh khỏi và đã tự nguyện trả lại quyền cai trị cho Nhật hoàng trước khi bị phong trào ép buộc. Bằng cách đó, ông đã tránh được sự diệt vong hoàn toàn như các chế độ Shogun Kamakura và Muromachi trước kia. Dẫu vậy, dòng họ Tokugawa sau đó vẫn bị tước mọi quyền bính và phần lớn tài sản. Nhật hoàng được khôi phúc sau khoảng 700 năm gián đoạn và trở lại nắm quyền thống trị. Đó chính là Nhật hoàng Minh Trị.
 
waao, một bài tổng hợp thông tin rất tuyệt ;)
nghe nói ngày xưa dân tộc Nhật Bản cũng là bắt đầu từ người Hoa. Trung Quốc sang chiếm quần đảo Nhật Bản rồi lập thành một bộ tộc riêng. Do sống hoàn toàn cách biệt với Trung Hoa lục địa nên lối sống cũng như tính cách của người Nhật và người TQ khác hẳn nhau.
anh đọc qua, thấy có thiếu một phần khá quan trọng trong lich sử NB, đó là việc chiếm quần đảo Okinawa. Nhiều người nghĩ Okinawa từ trước đến nay là lãnh thổ của NB. Nhưng Okinawa trước đây là một đất nước hoàn toàn riêng biệt, do vương triều Ryukyu cai trị. Người Okinawa bây giờ vẫn tin rằng họ là người Ryukyu (tất nhiên không phải là tất cả) mặc dù mang quốc tịch Nhật. Ryukyu có ngôn ngữ riêng và bây giờ vẫn được lưu truyền :)
 
Việc chiếm quần đảo Okinawa em vẫn chưa search được. Trên em mới chỉ post 1 đoạn về 1 số lĩnh vực. Còn đây mới là phần lịch sử của Nhật Bản ạ:
Lịch sử Nhật Bản

Nhật Bản buổi bình minh
• Thời đồ đá cũ (15.000 năm đến 5.000 năm trước CN)
Sống du mục, săn bắt và hái lượm.
• Thời đồ gốm Jomon 縄文時代 (5.000 năm đến 200 năm trước CN)
Chuyển sang trồng lúa và hình thành việc định cư. Vào cuối thời kỳ, có xu hướng đi đến thống nhất.
• Thời Yayoi 弥生時代 (200 năm trước CN đến năm 200 sau CN)
Yayoi là xã hội nông nghiệp trọn vẹn đầu tiên ở quần đảo Nhật Bản. Lúa được trồng ở những vùng đầm lầy đất phù sa, kê, lúa mạch và lúa mì được trồng ở những vùng đất cao hơn. Cả đồ đồng, thiếc và sắt đã được mang tới từ lục địa và được sử dụng phổ biến.
• Thời văn hoá "Nấm mồ" 古墳時代 (Kofun, cuối thế kỷ thứ 3 đến cuối thế kỷ thứ 6)
Vương quốc Yamato (大和) thiết lập sự thống trị trên quá nửa phía tây quần đảo Nhật Bản, kể cả phía nam của Triều Tiên. Sau này, việc kiểm soát phía nam Triều Tiên bị suy yếu, và sự tranh ngôi trong gia đình Nhật Hoàng đã đe dọa quyền lực của Yamato. Đạo Phật và đạo Khổng được du nhập.
• Thời Asuka 飛鳥時代 (Cuối thế kỷ thứ 6 đến đầu thế kỷ thứ 8)
Hoàng tử Shotoku (聖徳太子) phục hồi quyền lực của vương quốc Yamato. Các cố gắng đầu tiên để tạo nên hiến pháp và một hệ thống giai cấp chính thức. Shotoku quảng bá cho đạo Phật. Một số chùa Phật giáo được xây dựng (Shitenno-ji 四天王寺, Horyu-ji 法隆寺). Gia đình Soga (曽我) trở nên rất có quyền lực, tuy nhiên sau này đã bị Fujiwara-no-Kamatari (藤原鎌足) dưới quyền hoàng tử Naka-no-Oe (中大兄皇子) lật đổ. Cải cách Taika (大化の改革) theo những ý tưởng trước đây của hoàng tử Shotoku. Chấm dứt sự cai trị của người Nhật Bản ở Triều Tiên. Tinh thần của cải cách Taika được thể hiện trong bộ luật gọi là Ritsuryo (律令) dưới thời Temmu (天武), sau này được cải tiến dưới thời Mommu (文武), cháu nội của ông ta.
• Thời Nara 奈良時代 (Đầu thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ 8)
Nara trở thành thủ đô, bộ luật Ritsuryo được hoàn thành. Nhật Hoàng có uy quyền lớn. Văn hoá thời nhà Đường của Trung Hoa được du nhập. Đạo Phật hưng thịnh. Hai cuốn lịch sử dân tộc Kojiki (古事記) và Nihon Shoki (日本書記) cũng như Manyoshu (万葉集), một tuyển tập các bài thơ Nhật Bản, được biên soạn. Nền văn hoá đạt tới mức cao nhờ việc kết hợp các yếu tố Trung Hoa và Nhật Bản. Đúc được các đồng tiền bằng bạc và đồng đỏ. Một số chùa gỗ trong đó có chùa Todaji (東大寺) và kho báu hoàng gia Shosoin (正倉院) được xây dựng.
 
Nhật Bản thời trung cổ

Thời Heian 平安時代
• Đầu Heian (Cuối thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ 9)
Nhà nước chuyển tới thủ đô mới Heian-Kyo (Kyoto). Thành lập các giáo phái Phật giáo mới đã Nhật Bản hoá (là Tendai và Shingon - chủ yếu hội nhập những yếu tố tiến bộ). Hệ thống các điều luật Ritsuryo được sửa đổi. Lối viết thơ văn theo kiểu Trung Hoa rất hưng thịnh ở triều đình. Dòng họ Fujiwara nắm quyền hành đằng sau ngai vàng.
• Giữa Heian (Cuối thế kỷ thứ 9 đến cuối thế kỷ 11)
Với sự gia tăng quyền lực của dòng họ Fujiwara, việc cai quản chính quyền bằng quan nhiếp chính trở thành luật lệ. Triều đình mất quyền kiểm soát đất nước mà chỉ còn nắm vai trò nghi thức đơn thuần. Phúc lợi công cộng bị coi nhẹ. Người đứng đầu các tỉnh trở nên tham nhũng và lười nhác. Chủ nhân của các khu trang ấp (shoen) thành lập các nhóm võ sĩ để tự vệ, tạo ra sự mở đầu của hệ thống samurai (cận vệ có vũ trang). Thơ ca Nhật Bản phát triển vững chắc, đặc biệt là waka (thể thơ 31 âm tiết). Kokinshu và các tuyển tập waka khác được biên soạn. Những tác phẩm viết khác gồm có tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, cuốn Genji Mongatari do một mệnh phụ triều đình viết, cuốn Ise Mongatari, Tosa Nikki và Makura-no-Soshi.
• Cuối Heian (Cuối thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 12)
Bắt đầu một thế kỷ các Nhật hoàng đi tu nhưng vẫn cai quản công việc triều chính. Triều đình suy đồi, dần biết thành một nhà không có thực quyền, quan liêu xa vời thực tế, không chăm lo đến các phúc lợi công cộng mà chỉ bận tâm tới việc xây dựng chùa chiền và truyền bá tư tưởng Phật giáo. Tầng lớp quý tộc trong triều đình suy đồi và vô dụng. Giáo phái Phật giáo Jodo (Tịnh Thổ) phát triển. Quyền lực của các phe cánh địa phương với nền tảng là hệ thống samurai tăng lên. Dẫn đầu trong số họ là các gia đình Minamoto (Genji) và Taira (Heike hoặc Heishi). Các chùa chiền cũng duy trì lực lượng tự vệ. Những cuộc tranh giành quyền lực trong hoàng tộc và các yếu tố khác cuối cùng đã đem lại uy thế cho gia đình Taira, nhưng sau một phần tư thế kỷ nắm quyền, rốt cuộc Taira lại bị Minamoto đánh bại.

Thời Kamakura 鎌倉時代
(Cuối thế kỷ 12 đến cuối thế kỷ 14)
Minamoto-no-Yoritomo bổ nhiệm Seii-Taishogun (Chinh di đại tướng quân). Thành lập Mạc Phủ hay chế độ shogun đầu tiên ở Kamakura. Phát triển nông nghiệp nhờ sử dụng súc vật kéo. Thu hoạch vụ mùa nửa năm một lần. Bổ nhiệm chức vụ shugo và jito. Giáo phái Phật giáo Jodo phát triển. Giáo phái Zen du nhập vào từ Trung Quốc. Sau cái chết của Yoritomo, gia đình Hojo trở thành các quan nhiếp chính trong chế độ shogun. Dòng dõi Minamoto chẳng bao lâu kết thúc, nhưng gia đình Hojo vẫn tiếp tục làm các quan nhiếp chính, kiểm soát cả các Nhật hoàng lẫn các shogun. Giáo phái Phật giáo Nichiren (hoặc Hokke) phát triển. Heike Monogatari được viết. Samurai ngày càng trở nên có nhiều quyền lực ở các vùng trang ấp. Vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, Nhật hoàng Godaigo nhanh chóng khôi phục lại luật lệ hoàng gia nhưng thất bại trong việc đạt được quyền kiểm soát thích đáng và bị lật đổ bởi người trước đó đã từng giúp ông là chiến binh Ashikaga Takauji - người đã đưa Komyo lên ngai vàng thay thế Godaijo. Godaigo bỏ trốn và lập ra một triều đình ở Yoshino kình địch với triều đình Komyo ở Kyoto. Hai triều đình, Bắc và Nam, sau đó tiếp tục tồn tại trong 57 năm.

Thời Muromachi 室町時代
(Đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15)
Chế độ shogun Ashikaga (hoặc Muromachi) bắt đầu bằng việc triều đình phía Bắc phong cho Ashikaga Takauji tước hiệu Seii-Taishogun. Tổng hành dinh được thành lập tại Muromachi ở Kyoto. Với việc hai triều đình Nam hợp nhất lại vào năm 1392, chế độ tướng quân này cuối cùng hoàn toàn được thừa nhận. Samurai dù sao vẫn tiếp tục làm xói mòn quyền lực của giai cấp quý tộc tại các thái ấp (shoen). Chính quyền shogun bổ nhiệm một số người giữ chức shugo như đã có từ thời chính quyền shogun Kamakura. Tuy nhiên, những người này không phải là tuỳ tùng của Ashikaga, họ hành động vì lợi ích của chính họ, phát triển thành các thủ lĩnh shugo-daimyo của samurai địa phương với quyền hành riêng. Uy quyền của chế độ shogun không ngừng bị giảm sút do ảnh hưởng bởi sự yếu kém của triều đình. Tuy vậy, các môn nghệ thuật như cắm hoa, trà đạo, v.v... lại phát triển. Các môn Kịch Nô, Kyogen, v.v... phát triển đến độ chín mùi. Phát triển nghệ thuật vẽ tranh mực Tàu và tranh nhiều màu sắc rực rỡ theo trường phái Kano. Kết thúc thời kỳ này là cuộc chiến tranh Onin. Sau đó chế độ shogun hầu như mất toàn bộ quyền kiểm soát, dẫn đến thời kỳ của các cuộc nội chiến. Mặc dù vậy, thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển của nghề cá, khai thác mỏ, buôn bán, v.v... Các thị trấn phát triển xung quanh các thành trì, đền chùa và bến cảng, v.v...
 
Nhật Bản thời đụng độ với Phương Tây

Thời Azuchi-Momoyama 安土桃山時代
(Cuối thế kỷ 15 đến hết thế kỷ 16)
Thời kỳ của các cuộc nội chiến. Quyền lực dần dần chuyển từ trên xuống dưới: Shogun -> gia đình Hosokawa (cấp dưới của shogun) -> gia đình Miyoshi (cấp dưới của Hosokawa) -> gia đình Matsunaga (cấp dưới của Miyoshi). Quyền lực của shugo-daimyo tăng lên, thay thế tầng lớp quý tộc cũ kiểm soát các thái ấp. Họ cố thủ trong các khu vực của mình và tìm cách mở rộng quyền lực. Việc này cuối cùng dẫn tới một xu hướng thống nhất quốc gia dưới một người lãnh đạo có quyền lực cao nhất. Trong thời kỳ này, những người châu Âu đầu tiên đã đến Nhật Bản, mang theo súng ống và Cơ đốc giáo. Việc buôn bán với nước ngoài bắt đầu. Oda Nobunaga trục xuất viên shogun Ashikaga cuối cùng và thành công trong việc thống nhất một khu vực quan trọng của đất nước. Sau khi ông chết do bị phản bội, công việc của ông được người tuỳ tùng trung thành tên là Toyotomi Hideyoshi hoàn thành. Đạo Cơ đốc và việc buôn bán với nước ngoài phát triển mạnh mẽ dưới thời Nobunaga và vào đầu thời Hideyoshi, nhưng cuối cùng Hideyoshi nghi ngờ những tham vọng về đất đai của người châu Âu và đã ra lệnh trục xuất những người truyền giáo. Việc buôn bán vẫn tiếp tục. Hideyoshi phái quân đội xâm chiếm Triều Tiên. Cuộc viễn chinh thất bại. Trường phái hội hoạ Kano và trà đạo phát triển tới đỉnh điểm. Sau khi Hideyoshi chết, quyền lực bị Tokugawa Ieyasu thâu tóm.

Thời Edo 江戸時代
• Đầu Edo (Đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18)
Tokugawa bổ nhiệm shogun thông qua Nhật hoàng (cả Nobugana lẫn Hideyoshi đều không cố gắng trở thành shogun mà chỉ duy trì quyền lực qua các vị trí chính thức tại triều đình). Các daimyo chống đối gia đình Tokugawa đều bị chuyển tới các thái ấp ở những vùng xa trung tâm và bị ép phải dùng phần lớn của cải của họ để làm đường và các dự án khác, bị buộc phải luân phiên di chuyển hàng năm giữa Edo và thái ấp của mình, để lại gia đình làm con tin lâu dài ở Edo. Các thái ấp được những người tuỳ tùng của shogun cai quản, tuy nhiên quyền lực ở đây rất lớn. Thành lập bộ luật hợp pháp cho các gia đình quý tộc, tạo điều kiện cho chế độ shogun kiểm soát triều đình và hoàng đế. Hệ thống 4 đẳng cấp (1. võ sĩ, 2. nông dân, 3. thợ thủ công, 4. nhà buôn) được thừa nhận, cùng với việc hôn nhân giới hạn trong những người ở cùng một đẳng cấp. Ở từng đẳng cấp, mối quan hệ chủ-tớ phong kiến được thiết lập. Chế độ shogun Tokugawa được thiết lập vững chắc trên hệ thống này và được biết tới dưới tên gọi bakuhan (kết hợp shogun và chủ thái ấp). Buôn bán và đạo Cơ đốc một lần nữa lại phát triển thịnh vượng trong thời gian ngắn, tuy nhiên, cũng như Hideyoshi, Ieyasu cuối cùng đã nhìn thấy nguy cơ của đạo Cơ đốc và bắt đầu những biện pháp đàn áp với mức độ ngày càng tăng. Tới thời kỳ của shogun Tokugawa thì việc cấm đạo Cơ đốc và buôn bán hầu như đã hoàn thành. Những người Nhật Bản tin vào đạo Cơ đốc bị hành hình. Các thương gia, trừ người Hà Lan và người Trung Hoa, đều bị cấm tới Nhật Bản, và người Hà Lan bị hạn chế chỉ cho phép đến một hòn đảo nhỏ ở cảng Nagasaki. Quyền lực của chế độ shogun được củng cố, việc cai trị tập trung, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được cải thiện, đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn mọc lên ngày càng nhiều và rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô thị quanh cung điện. Giới thương gia trở nên giàu có, và từ tầng lớp này xuất hiện những hình thức nghệ thuật mới, bao gồm thơ haiku (Matsuo Basho), thể loại tiểu thuyết (Ihara Saikaku), kịch rối (Chikamatsu Monzaemon), các bản in tranh khắc gỗ ukiyoe, v.v... Kịch Kabuki được dàn dựng lần đầu tiên ở Kyoto vào đầu thời kỳ này, sau đó hạn chế chỉ dành cho diễn viên nam, bắt đầu được diễn ở Edo và Osaka vào cuối thế kỷ 17.
• Giữa Edo (Đầu thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19)
Hệ thống bakuhan không ngừng suy yếu do sự tập trung của cải vào tay giới thương gia. Chế độ shogun gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nông dân rơi vào cảnh nghèo khó. Đã có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ shogun, nhưng do vẫn duy trì chính sách thả lỏng việc tư nhân kinh doanh nên tình trạng suy vong ngày càng nặng nề. Nạn đói kém và thảm hoạ thiên nhiên, cộng thêm sưu cao thuế nặng (đối với lúa gạo) mà chế độ shogun và daimyo bắt người dân gánh vác đã biến những người nông dân và các tầng lớp dân thường khác thành nghèo khổ. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân xuất hiện. Trong lĩnh vực văn hoá, chứng kiến sự nở rộ cuối cùng của nền văn hoá Edo. Các truyện ngắn theo xu hướng phóng đãng, truyện tình lịch sử, nghệ thuật đóng kịch Kabuki, các loại tranh và bản in gỗ gồm nishiki-e (bản in tranh nhiều màu) được phát triển. Giáo dục được truyền bá vào tầng lớp thương gia và thậm chí cả những nông dân tại terakoya. Phát triển các trường kokugaku (Quốc học), một xu hướng giáo dục thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa và trở lại các truyền thống quốc gia. Rangaku (Hà Lan học) - việc nghiên cứu các tác phẩm khoa học khác nhau du nhập từ phương Tây qua các thương nhân Hà Lan như địa lý, y học, thiên văn, vật lý, hoá học, v.v... cũng dần dần được phát triển.
• Cuối Edo (Đầu thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 19)
Suốt thời kỳ đầu Edo, những người nước ngoài đủ loại đã đặt chân lên đất Nhật Bản, nhưng tiếp theo chuyến viếng thăm của thuyền trưởng Perry năm 1853 nhân danh Tổng thống Mỹ đòi hỏi mở cửa đất nước để buôn bán, các lực lượng trong và ngoài Nhật Bản đã dần dần ép nhà nước phải từ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng. Chế độ Shogun quyết định buôn bán với các dân tộc khác. Mặc dù xung đột quyền lực giữa shogun và các lực lượng hoàng gia đã đem lại thắng lợi cho những người ủng hộ Nhật hoàng - những người đã công khai chống đối chính sách này - nhưng sau khi shogun sụp đổ, họ đã ủng hộ chính sách buôn bán với nước ngoài và việc đổi mới đất nước.
 
Nhật Bản thời cải cách Minh Trị

Thời Minh Trị 明治時代
• Đầu Minh Trị (Cuối thế kỷ 19)
Các thái ấp phong kiến bị bãi bỏ và thay thế bằng hệ thống quản lý hành chính theo cấp tỉnh. Các đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị huỷ bỏ. Quân đội quốc gia và việc tuyển quân, chế độ thuế mới, hệ thống tiền tệ theo hệ thập phân, mạng lưới đường sắt, cùng các hệ thống thư tín, điện thoại, điện báo được thiết lập. Công nghiệp hiện đại được khởi đầu với các nhà máy do nhà nước xây dựng và điều hành, sau này được chuyển sang sở hữu tư nhân. Việc cải cách gặp phải sự chống đối đáng kể nhưng đều bị dẹp yên. Quan hệ buôn bán với Triều Tiên và Trung Quốc được thiết lập. Nhà nước đã nỗ lực hết sức để sửa đổi những hiệp ước không công bằng đã được ký kết với các nước phương Tây. Đạo Phật và Thần đạo, sau thời gian dài hợp nhất, đã chính thức tách ra. Thần đạo được lấy làm nền tảng tư tưởng cho điều lệ của hoàng gia. Việc cấm đạo Cơ đốc được huỷ bỏ. Các trường học mới, theo phong cách phương Tây, được lập nên ở khắp nơi, không phân biệt đẳng cấp, tài sản hay giới tính. Các lý tưởng về tự do, chủ nghĩa xã hội, bình đẳng, v.v... cũng du nhập vào từ phương Tây và khá hưng thịnh trong một thời gian ngắn. Việc ăn mặc và nhiều vấn đề khác trong đời sống hàng ngày chịu ảnh hưởng của phương Tây. Việc kêu gọi thành lập một chính phủ lập hiến dẫn tới sự ra đời của Nghị viện quốc gia và việc ban hành hiến pháp. Nghị viện tuy nhiên chỉ có ít quyền lực thực tế. Năm 1894, hiệp ước bất bình đẳng với Anh trong buôn bán được sửa đổi và các hiệp ước với những quốc gia khác cũng sửa đổi theo cho phù hợp. Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra. Sau thắng lợi của Nhật, Nga, Đức và Pháp ép Nhật phải từ bỏ một số lãnh thổ đã chiếm đóng, tạo ra mâu thuẫn lâu dài và sâu sắc giữa Nhật và các nước trên. Liên minh Nhật - Anh hình thành. Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ.
• Cuối Minh Trị (Đầu thế kỷ 20)
Trong giai đoạn đầu, cuộc cách mạng công nghiệp ở Nhật Bản chủ yếu tập trung vào công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, ở giai đoạn thứ hai, việc xây dựng công nghiệp nặng đã được tăng cường, tập trung trước hết vào công nghiệp sắt thép (đặc biệt với sự sẵn có của nguồn quặng sắt và than Mãn Châu sau khi Nhật giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật). Các con tàu lớn, cơ động và các thiết bị đường sắt khác, v.v... được sản xuất trong nước.
 
Nhật Bản thời chiến tranh
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần 5 lần diện tích quốc gia.

Thời Taisho 大正時代
(Đầu thế kỷ 20)
Thời kỳ này chứng kiến cuộc Thế chiến thứ nhất. Cuộc chiến tranh này đã thúc đẩy kinh tế và buôn bán của Nhật Bản phát triển. Nhật Bản đồng thời cũng chiếm được đất đai ở Trung Hoa và Nam Thái Bình Dương, nhưng lại làm cho các quốc gia phương Tây ngờ vực. Nhật Bản đầu tư vốn vào Trung Hoa. Trong chiến tranh, các cuộc thương lượng ngoại giao quốc tế được tiến hành để cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực. Ở Nhật Bản, các đảng phái chính trị trở nên mạnh hơn và các lý tưởng dân chủ chiếm ưu thế. Sau cùng, dù sao, sự khủng hoảng của nền kinh tế hậu chiến trên thế giới đã ảnh hưởng bất lợi tới các nhà kinh doanh Nhật Bản, đồng thời trận động đất Kanto dữ dội vào năm 1923 đã làm cho nên kinh tế thêm khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, đồng lương sụt giảm và tranh chấp việc làm luôn xảy ra. Phong trào xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế.

Thời Showa 昭和時代
• Đầu Showa (Đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20)
Suy thoái kinh tế và bế tắc ngoại giao. Xuất khẩu giảm sút. Phá sản xảy ra thường xuyên, nhiều người thất nghiệp. Chính sách kiềm chế của Mỹ đối với Nhật Bản gia tăng. Hiệp định Ishii-Lansing, thừa nhận quyền lợi đặc biệt của Nhật Bản ở Trung Hoa đã chấm dứt. Các dự thảo luật chống người nhập cư Nhật Bản ra đời và phong trào trục xuất người Nhật ở Trung Hoa lan rộng. Nội các không thể đối phó được vì các nhà chính trị và các Daibatsu đã chiếm độc quyền, bị thu hút bởi các lợi ích tài chính, mà quên mất quyền lợi quốc gia và sự đau khổ của nhân dân. Rắc rối lên đến đỉnh điểm ở cánh hữu gây ra những vụ ám sát và các hoạt động quân sự, dẫn tới chính sách mở rộng xâm lược ở Trung Hoa, rút khỏi Hội Quốc liên và chủ nghĩa bành trướng của những người theo chủ nghĩa quân phiệt cánh hữu gia tăng. Sau này họ đã liên kết với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã. Do vậy Nhật Bản đã gây ra chiến tranh Thái Bình Dương.


Nhật Bản sau chiến tranh

Cuối Showa
(Giữa thế kỷ 20)
Thất bại trong chiến tranh và sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt làm cho Nhật Bản bị chiếm đóng. Tiến hành các cải cách dân chủ, xây dựng lại nền công nghiệp bị tàn phá. Hiệp ước San Francisco có hiệu lực. Đạt được các kỳ tích về kinh tế và đời sống của nhân dân được nâng cao. Nhật Bản lại đóng vai trò quốc tế như một quốc gia thương mại và dần dần trở thành nước có tiềm lực kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Xảy ra vụ bê bối Lockheed, chính trường xáo trộn, đồng yên tăng giá và buôn bán thặng dư trở thành một vấn đề quốc tế. Đã diễn ra những sự kiện trọng đại trong đời sống kinh tế, xã hội Nhật Bản : Khai trương mạng lưới tàu Shinkansen (Tokaido, San'yo, Tohoku, Kan'etsu), chia tách và tư hữu hoá đường sắt quốc gia, mở đường hầm Seikan, khai trương cầu Seto Ohahshi, vụ bê bối Recruit.

Thời Heisei 平成時代
(Cuối thế kỷ 20)
Chiến tranh vùng Vịnh, hoạt động chính trị bị hỗn loạn, vụ bê bối Sagawa Kyubin (佐川急便) đã xảy ra. Hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên hiệp quốc được triển khai. Lực lượng phòng vệ được cử đến Campuchia và Mô dămbích. Xảy ra trận động đất Hanshin-Awaji (阪神淡路大震災). Bắt đầu thời kì trì trệ
 
1.Khái quát về tình hình chính trị Nhật Bản sau chiến tranh
Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh vào tháng 8 năm 1945, theo chỉ dụ của Thiên Hoàng, Nhật Bản đã hạ vũ khí. Từ ngày 30/8/1945 bắt đầu thời kỳ chiếm đóng của Mỹ trên đất Nhật kéo dài gần 7 năm (cho đến năm 1952). Trong thời gian bị chiếm đóng đã có rất nhiều cuộc cải cách chính trị nhằm phá bỏ hệ thống chính trị Nhật Bản thời kỳ trước chiến tranh, đẩy mạnh quá trình thực hiện dân chủ hoá, xây dựng một hệ thống chính trị hợp lòng dân.
Ngày 3/ 11/ 1946 bản hiến pháp mới của Nhật Bản được công bố, khẳng định hoà bình là nguyên tắc của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh, quy định Chính phủ Nhật Bản là chính phủ phục vụ nhân dân, vì dân, Nhà nước Nhật Bản là nhà nước được xây dựng trên nền dân chủ tư sản, các đảng phái chính trị được tự do hoạt động.
Năm 1955, sau khi hai đảng thuộc phe Xã hội sát nhập với nhau thành Đảng Xã hội Nhật Bản và hai đảng thuộc phe bảo thủ cũng liên kết lại thành Đảng Dân chủ- Tự do thì một hệ thống chính trị mới đã được hình thành mà người ta thường gọi là hệ thống chính trị năm 1955.
Nền chính trị Nhật Bản đã rất ổn định trong một thời gian dài, trừ quãng thời gian tồn tại ngắn của chính phủ theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa (1947 – 1948). Suốt từ sau chiến tranh đến năm 1993 chính quyền luôn nằm trong tay của một đảng duy nhất là Đảng Dân chủ-Tự do theo tư tưởng bảo thủ. Năm 1993 Đảng Dân chủ-Tự do bị mất quyền lãnh đạo và trở thành đảng đối lập. Từ sau năm 1995 đến nay Đảng Dân chủ-Tự do tiếp tục là đảng cầm quyền, song trên cơ sở Chính phủ liên minh.
Xét về góc độ nhà nước thì Nhà nước Nhật Bản về bản chất là nhà nước dân chủ tư sản được tổ chức theo mô hình tam quyền phân lập, còn về hình thức thì thuộc chính thể đại nghị.
Ưu tiên phát triển kinh tế là một quốc sách của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Dựa trên cơ sở học thuyết Yoshida những người bảo thủ cầm quyền đã lợi dụng sự che chở về an ninh và hỗ trợ về kinh tế của Mỹ, khai thác triệt để những nhân tố quốc tế có lợi và huy động mọi tiềm năng trong nước để tập trung phát triển kinh tế. Song song với việc phục hồi kinh tế, Nhật Bản đã dần dần khôi phục vị trí ngoại giao quốc tế của mình: năm 1956- gia nhập Liên hiệp quốc, năm 1964- tham gia Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), từ năm 1975 – là thành viên châu Á duy nhất của Hội nghị kinh tế cấp cao G7. Do sức mạnh quốc gia của Nhật Bản ngày càng tăng nên từ giữa thập niên 1980 trở đi Nhật Bản đã có thái độ tích cực đối với việc mở rộng sự đóng góp của mình vào cộng đồng quốc tế.
 
2 Hiến pháp Nhật Bản năm 1946
Hiến pháp Nhật Bản được ban hành ngày 3 tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực vào ngày 3 tháng 5 năm 1947. Bản hiến pháp này gồm 11 chương, 103 điều khoản. Nội dung chủ yếu của hiến pháp gồm những điểm sau đây:
- Quán triệt nguyên tắc hoà bình: “Nhân dân Nhật Bản ước mong thái bình vĩnh viễn...” (Lời nói đầu)
- Hoàng đế là biểu tượng của quốc gia và sự thống nhất của dân tộc. Mọi hoạt động của Hoàng đế phải diễn ra trong khuôn khổ của hiến pháp.
- Chủ quyền tuyệt đối thuộc về nhân dân.
- Nhật Bản phủ nhận vĩnh viễn chiến tranh như là một quyền tối cao của đất nước, từ bỏ đe doạ hoặc sử dụng vũ lực làm phương tiện giải quyết tranh chấp với các quốc gia khác (Nội dung điều 9)
-Các quyền cơ bản của con người được hiến pháp đảm bảo và là những quyền vĩnh viễn và bất khả xâm phạm.
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Quốc hội có 2 viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, trong đó Hạ nghị viện có thẩm quyền hơn Thượng nghị viện. Nghị sỹ của cả hai viện đều do dân bầu ra.
-Nội các thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Đây là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của chính phủ, lập ra chính sách và kế hoạch của chính phủ, chỉ đạo các Bộ, quản lý công tác đối nội và đối ngoại, nộp các đề nghị về lập pháp lên Quốc hội nhân danh tiểu ban thực hiện.
- Quyền tư pháp do Toà án tối cao và các Toà án cấp dưới sử dụng. Toà án tối cao có quyền quyết định cuối cùng tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm.
- Chế độ tự quản địa phương được thiết lập rộng rãi. Các quan chức địa phương đều do dân cử và có nhiều quyền hạn hơn trong thuế và pháp luật.
 
3. Nhật Hoàng và Hoàng gia:
Theo Hiến pháp Nhật Bản, Nhật Hoàng là biểu tượng của quốc gia và sự thống nhất dân tộc. Nhật Hoàng không có quyền lực đối với Chính phủ.
Hoàng gia Nhật Bản tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Đây là triều đại lâu dài và liên tục nhất trên thế giới. Đương kim Nhật Hoàng AKIHITO sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 (ngày sinh của Nhật Hoàng được mặc nhiên coi là ngày Quốc khánh của Nhật Bản) và lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989 sau cái chết của cha Nhật Hoàng HIROHITO tức Hoàng đế Chiêu Hoà. Niên hiệu của đương kim Nhật Hoàng là Bình Thành vì vậy năm 1989 theo lịch Nhật Bản là năm Bình Thành 1.
Nhật Hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko có 3 người con là Thái tử Naruhito, Hoàng tử Fumihito và Công chúa Masako. Thái tử Naruhito và vợ là Công nương Sayako đã có một con gái sinh năm 2001
 
4. Cơ cấu nhà nước
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan lập pháp duy nhất ở Nhật Bản. Hiện nay Quốc hội gồm Hạ nghị viện với 480 ghế và Thượng nghị viện với 242 ghế. Các nghị sỹ của Hạ viện được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm song có thể kết thúc trước nhiệm kỳ nếu Hạ viện bị giải tán. Hạ nghị sỹ được bầu theo hai cách: 300 người được bầu theo 300 đơn vị bầu cử nhỏ, 180 nghị sỹ được lựa chọn theo tỷ lệ phiếu các đảng giành được ở 11 khu vực bầu cử.
Các thượng nghị sỹ được bầu theo nhiệm kỳ 6 năm và cứ 3 năm thì bầu lại một nửa. Theo luật bầu cử Thượng nghị viện sửa đổi được thông qua năm 2000 thì 146 ghế được bầu theo khu vực bầu cử lớn tương ứng với 47 tỉnh của Nhật Bản, mỗi khu vực bầu từ 2 đến 8 đại biểu tỷ lệ với số dân, còn 96 ghế được bầu theo khu vực bầu cử tỷ lệ toàn quốc, tức là 96 ghế này phân tỷ lệ cho các đảng chính trị dựa trên kết quả của cuộc tuyển cử toàn quốc.
Các kỳ họp của hai viện gồm các kỳ họp thường xuyên, không thường xuyên và các kỳ họp đặc biệt. Các kỳ họp thường xuyên của Quốc hội được triệu tập 1 lần 1 năm vào tháng 12 và kéo dài 150 ngày. Dự thảo quan trọng nhất được trình ở kỳ họp thường xuyên là ngân sách nhà nước của năm tài chính tới. Hạ viện có quyền xem xét dự thảo này trước khi nó được trình ra Quốc hội. Hạ viện cò được quyền ưu tiên hơn so với Thượng viện trong việc chỉ định Thủ tướng mới và xem xét ký kết các hiệp ước. Hạ viện có quyền đưa ra đề nghị tín nhiệm hoặc không tín nhiệm Nội các.
Thượng nghị viện không có quyền đưa ra những đề nghị không tín nhiệm. Thượng viện có thể tạm thời thay Hạ viện đảm nhiệm các chức năng của Quốc hội nếu và khi Nội các triệu tập một kỳ họp khẩn cấp của Thượng viện trong lúc Hạ viện đã bị giải tán.
Nội các - Cơ quan hành pháp
Quyền hành pháp thuộc về Nội các bao gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Thủ tướng do Quốc hội chỉ định và phải là thành viên của Quốc hội. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm và bãi miễn các Bộ trưởng. Các Bộ trưởng này phải là dân sự và đa số là thành viên Quốc hội.
Nếu Hạ viện thông qua nghị quyết không tín nhiệm hoặc bác bỏ nghị quyết tín nhiệm Chính phủ thì Nội các phải từ chức trừ phi Hạ viện bị giải tán trong vòng 10 ngày.
Hiện nay, sau khi tinh giản, cơ cấu của Nội các bao gồm 1 văn phòng Thủ tướng, 10 bộ và 2 cơ quan ngang bộ, cụ thể là: Bộ Môi trường, Bộ đất đai, hạ tầng và giao thông, Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp, Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp, Bộ Y tế, lao động và phúc lợi, Bộ Giáo dục, văn hoá, thể thao, khoa học và công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Quản lý công cộng, Nội vụ, Bưu điện và viễn thông, Cục Phòng vệ, Uỷ ban an toàn quốc gia.
Nhật Bản được chia thành 47 tỉnh, chính quyền địa phương có ở cấp tỉnh, thành phố, thị xã và làng; mỗi cấp đều có hội đồng tương ứng do dân bầu ra.
Bộ máy tư pháp
Bộ máy tư pháp hoàn toàn độc lập với các ngành Lập pháp và Hành pháp, bao gồm toà án Tối cao, 8 toà án cấp cao, trừ Hokkaido có 4 toà án cấp tỉnh còn mỗi tỉnh có một toà án cấp tỉnh, một số toà án sơ thẩm. Ngoài ra, Nhật Bản còn có các Toà án Gia đình để xử lý những rắc rối nội bộ gia đình.
Toà án Tối cao gồm 1 chánh án và 14 thẩm phán. Chánh án do Hoàng đế bổ nhiệm trên cơ sở Nội các chỉ định, 14 thẩm phán do Nội các bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm các Thẩm phán Toà án Tối cao được xem xét lại trong một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, được tổ chức trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu các hạ nghị sỹ. Việc tái bổ nhiệm các chức vụ trên sau nhiệm kỳ 10 năm được xem xét lại. Toà án Tối cao có tiếng nói cuối cùng trong việc quyết định tính hợp hiến của các đạo luật, mệnh lệnh, quy định hoặc quy tắc. Các thẩm phán toà án cấp dưới do Nội các bổ nhiệm trên cơ sở danh sách những người do Toà án Tối cao đưa ra. Tất cả các thẩm phán đều độc lập trong việc xét xử và chỉ tuân thủ hiến pháp và những đạo luật dưới đó.
Chính quyền địa phương:
Tính đến 2/2002 Nhật Bản có 47 tỉnh và 3.223 đơn vị chính quyền cấp dưới với hơn 3 triệu công chức địa phương. Tuỳ theo dân số và diện tích mà các đơn vị này cũng có những quyền hạn khác nhau theo từng cấp, theo quy định của luật, hoặc theo uỷ nhiệm của chính quyền cấp trên.
Nói chung, Chính phủ lo các nhiệm vụ về quốc phòng, ngoại giao và các nhiệm vụ khác gắn với trách nhiệm của Nhà nước, còn cấp địa phương lo các việc liên quan đến giữ gìn và khai thác đất đai, phòng chống thiên tai, chống ô nhiễm, lao động, phúc lợi, y tế v..v.. Cấp tỉnh thường lo các việc có quy mô lớn hoặc có ảnh hưởng rộng và đóng vai trò liên lạc trong các hoạt động phối hợp giữa các đơn vị. Chính quyền địa phương cấp dưới thường chịu trách nhiệm về các việc liên quan chặt chẽ đến cuộc sống hàng ngày của cộng đồng dân cư.
Các khoản thuế ở địa phương chiếm khoảng 35% nguồn thu của chính quyền địa phương. Nguồn thu này không đủ chi phí nên nhà nước phải cấp thêm bằng cách để lại cho địa phương một phần nguồn thu thuế trên toàn quốc.
 
5. Hệ thống bầu cử:
Công dân Nhật đến tuổi 20 mới có quyền bầu cử và đến tuổi 25 mới có quyền ứng cử vào Hạ Nghị viện, Hội đồng địa phương hay Thị trưởng. 30 tuổi mới có quyền ứng cử vào Thượng Nghị viện hoặc Tỉnh trưởng. Tháng 4/1998 Quốc hội Nhật Bản thông qua Luật bầu cử sửa đổi, cho phép công dân Nhật ở ngoài nước được bỏ phiếu trong các cuộc tuyển cử toàn quốc tại các cơ quan đại diện ngoại giao của Nhật ở nước ngoài, hoặc bỏ phiếu qua thư gửi bưu điện.
Theo Luật bầu cử sửa đổi năm 2000, Hạ viện Nhật Bản có 480 ghế. Trong đó 300 ghế được bầu ở các khu bầu cử nhỏ,chỉ bầu 1 ghế. 180 ghế còn lại được bầu ở 11 khu trên toàn quốc, tại đây kết quả được quyết định theo tỷ lệ phiếu mà các đảng chính trị giành được.
Tháng 10/2000 Quốc hội lại sửa đổi Luật bầu cử, cho phép cử tri có thể bỏ phiếu cho một đảng hoặc cho một cá nhân trong danh sách các ứng cử viên của các đảng. Hệ thống bầu cử mới này cũng rút bớt số thượng nghị sỹ từ 252 xuống 242. Trong đó 96 ghế được bầu theo tỷ lệ trên toàn quốc còn 146 ghế được bầu ở các khu vực bầu cử.
 
6. Các đảng chính trị
Từ những năm 1870 Nhật Bản đã có một nền văn hoá phong phú của các đảng chính trị và trên thực tế đã có hơn 200 đảng đã từng tồn tại và hoạt động. Hiến pháp Minh Trị 1889 hạn chế nghiêm ngặt mức độ đại diện của các đảng trong công chúng, do đó các đảng phải đấu tranh để xác lập ảnh hưởng chính trị của mình. Còn Hiến pháp năm 1946 cho phép các đảng có một vai trò bảo đảm trong trung tâm hệ thống chính trị Nhật Bản.
Hiệp hội quần chúng yêu nước (Aikoku Koto) là đảng chính trị đầu tiên của Nhật Bản được thành lập năm 1874. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Nhật Bản được tổ chức vào năm 1890. Một trong những con đường phát triển đảng phái là do Itagakai- người sáng lập Đảng Tự do (Jiyuto) năm 1881 và Okuma Shigenobu- người sáng lập Đảng Cải cách hiến pháp (Rikken Kaishinto) năm 1882 đưa ra. Đây là hai đảng tiền thân của Đảng Dân chủ- Tự do sau này.
Hệ thống chính trị năm 1955 được hình thành trên cơ sở hợp nhất của hai đảng xã hội với nhau và hai đảng bảo thủ với nhau vào năm 1955. Hệ thống này đã hoạt động ổn định cho đến năm 1993. Các đảng hạt nhân của hệ thống 1955 bao gồm :
Đảng Dân chủ - Tự do là nhóm chính trị bảo thủ lớn nhất của Nhật Bản, được thành lập vào năm 1955 trên cơ sở sáp nhập hai đảng Dân chủ và Tự do. Đây là đảng một mình cầm quyền liên tục từ năm 1955 đến năm 1993. Chủ tịch đảng là nghị sỹ Quốc hội, do các đảng viên Dân chủ- Tự do bầu ra cho nhiệm kỳ 2 năm.
Đảng tuyên bố là đảng nhân dân (phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của nhân dân), là đảng hoà bình (cống hiến toàn bộ sức lực cho sự nghiệp bảo vệ hoà bình, công lý và tiến bộ của nhân loại), là đảng dân chủ (tôn trọng và bảo vệ tự do, quyền cá nhân và quyền cơ bản của con người) và đảng mang tính chất nghị viện. Nguyên tắc kinh tế của đảng là hoạch định và thực hiện một chương trình kinh tế toàn diện dựa vào sáng kiến cá nhân và tự do kinh doanh, chú ý đến lợi ích của quần chúng, ổn định cuộc sống của nhân dân và thực hiện một nhà nước phúc lợi.
Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Đảng Dân chủ – Tự do là ủng hộ các quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Mỹ trên cơ sở Hiệp ước hợp tác và an ninh chung giữa hai nước. Đảng cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc Nhật Bản đóng góp tích cực vào cộng đồng quốc tế thông qua viện trợ kinh tế cho các nước đang phát triển.
Đảng Xã hội Nhật Bản được thành lập vào năm 1945, song lại tách thành các đảng cánh hữu và cánh tả vào năm 1951. Tháng 10 năm 1955 hai đảng này lại tái sáp nhập thành đảng Xã hội Nhật Bản và từ năm đó đến năm 1993 nó luôn là đảng đối lập lớn nhất trong hệ thống chính trị năm 1955.
Đảng Komei được thành lập vào năm 1964 trên cơ sở của phong trào tôn giáo mới Soka Gakkai (Hiệp hội sáng tạo giá trị) vốn là một nhánh của Phật phái Nichiren Shoshu. Năm 1967 Đảng Komei đã giành được 25 ghế trong Hạ nghị viện với 5,4% phiếu bầu. Mục đích chính của đảng này là xây dựng một xã hội phúc lợi theo quan niệm chủ nghĩa nhân đạo.
Đảng Cộng sản Nhật Bản được thành lập năm 1922 như một tổ chức hoạt động bí mật. Sau chiến tranh thế giới thứ hai đảng được hoạt động công khai. Hiện nay đảng hoạt động theo tinh thần của Cương lĩnh mới được thông qua năm 1961 tại Đại hội VIII của đảng. Đảng Cộng sản Nhật Bản theo đuổi đường lối dân chủ, độc lập, xã hội chủ nghĩa và liên hệ khăng khít với quần chúng. Mục tiêu của đảng là xây dựng một xã hội cộng sản ở Nhật Bản thông qua một cuộc cách mạng dân chủ của nhân dân và tiếp đó là một cuộc cách mạng XHCN.
Đảng Dân chủ Xã hội được thành lập vào tháng 1 năm 1960 trên cơ sở của một nhóm 40 nghị sỹ tách ra từ Đảng Xã hội Nhật Bản. Đây là một đảng trung dung, thừa nhận sự khác nhau về lợi ích giữa các nhóm xã hội và sự tồn tại của những lợi ích quốc gia chung.
Đảng Liên minh Dân chủ Xã hội được thành lập vào tháng 3 năm 1978 thông qua việc sáp nhập của hai nhóm chính trị nhỏ được tách ra từ Đảng Xã hội Nhật Bản và Liên minh Công dân xã hội chủ nghĩa.
Sau sự kiện năm 1993 khi Đảng Dân chủ-Tự do bị mất quyền và trở thành đảng đối lập còn Đảng Xã hội Nhật Bản bị lu mờ thì sự ổn định tương đối cao của hệ thống chính trị năm 1955 đã lui vào dĩ vãng. Ở thời điểm này các đảng luôn thay đổi, lúc sáp nhập, lúc ly khai, lúc lấy tên này, lúc đổi tên khác. Sau năm 1995 cho đến nay Đảng Dân chủ-Tự do là đảng nắm quyền lực song phải phụ thuộc vào sự hợp tác liên minh với các đảng khác để có được đa số tuyệt đối trong Quốc hội. Những gương mặt chính trên sân khấu chính trị Nhật Bản vào thời điểm này (năm 2003) là các đảng: Dân chủ-Tự do, Dân chủ, Tân Komeito, Tự do, Bảo thủ, Cộng sản, Dân chủ xã hội.
 
ah, nói đến chính trị, hôm qua vừa là ngày bầu cử lại hạ viện của Nhật Bản đấy. Đảng LDP thắng lớn. Mấy ông nghị sĩ hôm trước còn phản đối dự luật tư nhân hóa bưu điện hôm nay đã vỗ tay rầm rầm :D
 
Lâu lâu mới vào lại BOX tiếng Nhật mà thấy đìu hiu quá, không biết mọi người đi chơi đâu hết cả rồi. 8-|
 
Bạn có thể tìm giúp tôi một số tài liệu về kiến trúc nhà ở của nước Nhật được ko ?
Và nếu có thể sâu hơn về Văn Hóa , phong tục của Nhật

Cảm ơn !
 
Back
Bên trên