Ngô Đào Duy
(dao duy)
New Member
GIÁ TRỊ HÀNH VÕ THẬT SỰ
CỦA CÁC MÔN PHÁI NỔI DANH
A- Võ đạo Trung Quốc
Võ đạo Trung quốc thường lấy phái Thiếu Lâm làm "võ lâm Bắc Đẩu" và là ngã ba định mạng cho những chuyện thật bất ngờ.
Chuyện bất ngờ thứ nhất là, Đạt Ma sư tổ không phải là người Trung Quốc. Ngài gốc từ Ần Độ, môn đệ của sư tổ Bát Nhã Đa La, vị sư tổ Thiền Tông đời thứ 27, Ngài sang Trung Quốc chỉ với mục đích truyền bá Thiền Tông, bằng cách tìm một địa điểm biệt tịch để thâu nhận và hóa giáo môn đệ.
Chuyện bất ngờ thứ hai, trên đường hành đạo, ngài gặp một tục gia đệ tử có khí lượng khá là Triệu Khuông Dẫn. Biết Triệu quân có khí độ quân vương, ngài truyền cho bài "Hồng quyền" gồm 32 thế chính, khai triển tứ trụ thành 128 thế biến. Nhờ đó, họ Triệu dương danh thiên hạ và sau khi lên ngôi Tống Thái Tổ, bài "Hồng quyền" chuyển danh thành "Thái Tổ quyền". Tống Thái Tổ cũng tri ân tình sư đệ, đích thân tới thăm sư phụ sau khi thành công và xuất tiền ra xây lại ngôi chùa theo họa đồ của tổ sư vẽ sẵn.
Điểm bất ngờ thứ ba là, tục gia đệ tử của Đạt Ma sư tổ đông hơn xuất gia đệ tử, nên môn phái Thiếu Lâm thành hình và hành võ theo đủ các nghiệp vụ của tục gia đương thời : dạy võ, bảo tiêu, bán thuốc dạo, đóng tuồng, binh nghiệp .v.v... yểm trợ cho việc quảng bá Thiền Tông tại khắp Trung Quốc và các nước lân bang, kể cả Việt nam.
Điểm bất ngờ thư tư là "Hồng quyền" và "Mai Hoa quyền" nổi tiếng hơn hẳn phương pháp thiền tọa "kiết già phu tọa" (Karma yoga) của Yoga, được gọi là "Dịch Cân Pháp" hay "Dịch Cân Kinh" giúp ích rất nhiều cho việc thiền định, tĩnh tọa và diện bích tư tưởng.
Rõ rệt là học võ Thiếu Lâm chỉ là một phương tiện hoằng dương Thiền đạo, vì đó mới là chủ điểm của Đạt Ma sư tổ, vị sư tổ Thiền đạo tại Trung Quốc. Các thành tích hành võ khác của tục gia đệ tử - kể cả Triệu Khuông Dẫn - chỉ là thứ yếu.
Kế đó, là môn phái Võ Đang của đạo sĩ Trương Quân Bảo, cũng gọi là Trương Tam Phong (Tam phong : ba ngọn núi), một vị xuất đồ của Thiếu Lâm phái. Cũng nặng về tu hành (theo Lão Giáo), vị sáng tổ Võ Đang cũng tổ chức môn phái tương tự như Đạt Ma sư tổ. "Thái Cực quyền" được phổ biến rộng, nhờ sự phổ biến rộng rãi Đạo giáo. Loạn Hồng Tú Toàn - Thái Bình Thiên Quốc - và giặc Cờ Đen v.v... đều xiển dương thành tích này. Hiện nay, "Thái Cực quyền" của môn phái Võ Đang cũng vẫn được dạy trong chương trình giáo dục của Trung Hoa Dân Quốc.
Võ đạo Trung Quốc do đó, thiếu hẳn giá trị võ đạo thuần túy, mà chỉ còn là một ngành sinh hoạt yểm trợ, lệ thuộc vào sự phát huy tôn giáo, hoặc hội nhập vào chính trị để trở thành công cụ đấu tranh chính trị.
B- Võ đạo Nhật Bản
Võ đạo Nhật Bản, gốc từ Nhật Võ Đạo (Bushido), chịu ảnh hưởng mạnh của Thần Giáo - và sau đó, được bồi dưỡng thêm bằng tư tưởng Phật Giáo.
Khác với võ đạo Trung Quốc nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ đạo Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào sinh hoạt chính trị, để trở thành một giai cấp xã hội : giai cấp võ sĩ đạo (samourai). Đây là một giai cấp đặc biệt, chỉ Nhật Bản mới có. Người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện ngay từ nhõ những kỹ thuật chiến đấu tay không và võ khí rất lành nghề và tinh thần võ sĩ đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng trong bộ luật "Nhật Võ Đạo", trong đó có 5 đức tính chánh và 3 đức tính phụ. 5 đức tính chánh là : sự ngay thẳng tức đức công bằng, đức can đảm, đức nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm. 3 đức tính phụ là : đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc.
Rõ rệt là người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện để trung thành với chủ: một vị lãnh chúa, một vị tướng quân hay một chủ nhân trọng nghĩa. Bushi - tiếng Nhật có nghĩa là nghĩa hiệp - không giống với nghĩa thông thường, mà chỉ có nghĩa là quên mình để nghĩ tới tha nhân - tức chủ nhân. Truyền thống này đã tạo cho người võ sĩ đạo Nhật Bản có nếp sống thật đặc biệt : vâng lời tuyệt đối minh chủ của mình, suốt đời không đổi chí. Đặc biệt hơn nữa là nước Nhật có những "Tự Sát Viện" (Seppuku, Kappuku hay Hara-kiri) dành cho những người cò tội tới đền tội bằng cách mổ bụng ngã sấp xuống.
Ta thấy tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản gần như lệ tuộc hẳn vào chính trị bằng động cơ tôn giáo. Người võ sĩ đạo Nhật do đó, ít có sáng kiến và ý chí tự cường, nhưng ngược lại, giàu can đảm và kỷ luật, rất cần cho sự điều hành tập thể.
C- Võ đạo Đại Hàn
Võ đạo Đại Hàn quen thuộc với chúng ta từ năm 1964 với sự hiện diện của các sư đoàn đồng minh Đại Hàn "Mãnh Hổ", "Thanh Long", "Bạch Mã", v.v...
Võ đạo Đại Hàn nằm giữa thông lộ Trung Hoa - Nhật Bản, nên ảnh hưởng rất nhiều ở cả hai nền võ đạo đặc biệt này. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người Đại Hàn bỏ quên dân tộc tính. họ quen sống trên sa mạc tuyết ít nguồn lợi, luôn luôn phải đối địch với đối nhân và đối vật để dành nhu cầu sống, nên rất thực tế. Đánh trên tuyết cần ra đòn nhanh và mạnh, khai triển tất cả những ưu điểm của thân mình : "Túc Quyền Đạo" (Tae Kwon Do). Túc Quyền Đạo, đúng như tên của nó, không cần nói nhiều, mà chỉ cần "đá" nhanh "đấm" lẹ để sống còn trên đất tuyết.
Do đó, chúng ta không lạ gì khi người Đại Hàn thiện dụng cặp chân dài tối đa trên tuyết. Chúng ta cũng không lạ gì khi thấy người Đại Hàn thường lầm lì ít nói, cũng như Túc Quyền Đạo rất nhẹ về lý thuyết võ đạo. Và chúng ta cũng không lạ khi thấy người Đại Hàn nhìn bên ngoài có vẻ ngây ngô, cũng như khi xử thế có phần kém tế nhị và hay dùng bạo lực. Đó là truyền thống võ đạo đặc biệt của Đại Hàn.
D- Tinh thần hiệp mã thượng Tây phương
Ngoài các môn phái võ thuật, võ đạo Đông phương, chúng ta còn có thể đề cập đến tinh thần hiệp mã thượng (chevalerie) Tây phương, một tinh thần võ đạo đặc biệt phản ảnh nếp sống phong kiến, trưởng giả của giai cấp quí tộc Tây phương thời Trung cổ.
Tinh thần hiệp mã thượng biểu dương tinh thần "chánh nhân" chú trọng tới các nghi thức xử thế quí tộc hơn là thực trạng xã hội. Người chính nhân ăn mặc sang trọng, kiểu cách, nói năng mực thước, nhưng không cần thiết lắm tới đức tính tháo vát và lòng nhân đạo. Do đó, ta thấy người quân tử Tàu có thể chế vì bênh yếu chống mạnh, nhưng ta không thể thấy chính nhân Tây phương làm những công việc tương tự.
Người hiệp sĩ mã thượng (chevalerie) Tây phương chịu ảnh hưởng sâu đậm ở quan niệm này, nên sự hành võ của họ nặng về trình diễn hơn là phần thực dụng : hai lưỡi gươm to bản sáng ngời, bộ áo giáp bóng loáng nặng nề, con ngựa thật đẹp, đóng yên cương quá chắc, cây dáo thật to và thật dài nhọn, cồng kềnh. Tất cả, chỉ để sử dụng trong những trường hợp song đấu, trình diễn ở đấu trường hơn là ở chiến trường. Ngoài ra, người hiệp sĩ mã thượng còn được ưu đãi quá đặc biệt : nhà cao, cửa rộng, xe ngựa, gia nhân v.v... nên không hề biết tới thực trạng của một xã hội nhiều bất công, khổ cực. Cuối cùng, chánh trị xen vào nội bộ của họ, để họ giết lẫn nhau và cùng bị tiêu diệt.
GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA VIỆT VÕ ĐẠO
Khác với những môn phái võ đạo nhận chịu nhiều ảnh hưởng của tôn giáo và chính trị, hoặc đôi khi, trở thành ngay chính công cụ hoặc phương tiện hành giáo hay hành chánh, Việt Võ Đạo vẫn giữ vững truyền thống độc lập đặc biệt của mình với truyền thống tổng hợp võ học Việt nam và truyền thống này được tiếp diễn trong các thời đại Tiền Việt Võ Đạo liên tục qua các thời đại lịch sử. Đôi khi, tôn giáo cũng đem lại nhiều ảnh hưởng với võ đạo, nhưng không vì thế mà tôn giáo hóa võ học. Đôi khi, chính trị cũng xen lẫn, nhưng thường hòa hợp với võ đạo để trở thành một sức mạnh chung đối phó với cường xâm ngoại nhập. Do đó, các bậc danh tướng, lương thần thường lui về ở ẩn lúc công thành danh toại, với một cuộc sống vừa tiêu diêu, vừa nhiệm thế bằng cách vẫn can dự vào việc làng xã, khi được hỏi ý kiến.
Trở lại với hiện cảnh của Việt Võ Đạo chúnh ta : rõ rệt là nền võ đạo của chúng ta hoàn toàn độc lập với các ảnh hưởng tôn giáo và chánh trị, tuy độc lập không có nghĩa là cô lập và không biết liên kết khi hữu sự. Quá trình này được ghi nhận trong những biến cố lịch sử đặc biệt vào những năm 1945 - 1946, 1954, 1963, 1973 tới nay. Mặc dù hợp tác với những thế lực chánh trị đương thời trong các nhiệm vụ chống xâm lăng, bảo vệ dân tộc và cứu trợ xã hội, nhưng môn phái vẫn giữ vững tư thế độc lập của mình trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.
Do đó, chúng ta có thể khẳng định rõ rệt : trong các môn phái võ đạo hiện nay, riêng chỉ có Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần túy, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh hưởng tôn giáo hoặc ảnh hưởng chánh trị nào. Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của nhân lạoi, vượt thoát mọi giai cấp và tôn giáo, để bao dung, kết hợp, hóa giải mọi chênh lệch của xã hội loài người.
SỨ VỤ VIỆT VÕ ĐẠO
TRONG HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Dạy cho người biết võ rồi hướng dẫn họ phảo làm gì lợi ích cho mình và cho người là võ đạo. Còn có Đạo rồi mới học võ để bảo vệ và phát huy Đạo, thì chỉ là dùng võ để làm phương tiện, làm công cụ, chứ không phải "làm võ đạo".
Việt Võ Đạo đi theo con đường võ đạo độc lập và tuần túy, nhất thiết từ chối mọi chi phối, đồng hóa của tôn giáo và chính trị. Do đó, Việt Võ Đạo đang phát triển để trở thành võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần nhất của con người.
Các cán bộ Việt Võ Đạo cần ý hội sứ vụ này trong tương lai quảng phát võ đạo vào cộng đồng nhân loại, bằng cách phát huy song song tinh thần võ đạo và kỹ thuật võ học.
Tinh thần võ đạo cần phải được thể hiện bằng nếp sống, tình cảm, cách ăn ở, đối đãi với tha nhân sao cho mọi người hiểu và yêu kính mình trước khi đến thụ giáo. Chúng ta phải truyền thông ấn tượng tốt vào cảm quan của đối tượng về một tinh thần võ đạo thật sự không biên giới quốc gia, giai cấp, tôn giáo. Trường hợp đão ngộ ưu tiên cho những người bằng cấp lớn vào địa vị cao trong Việt Võ Đạo chỉ là sự đáp ứng những tiêu chuẩn tiếp thụ tinh thần võ đạo chớ không phải vì tiêu chuẩn bằng cấp độc tôn hay tiên quyết.
Kỹ thuật cần tinh tiến, đổi mới, võ đạo càng lâu đời, càng cò truyền thống, càng được tôn quí. Việt Võ Đạo là kết tinh của tinh thần và kỹ thuật chiến đấu để giữ nước, dựng nước và mở nước của dân tộc Việt có từ thời lập quốc. Võ sư sáng tổ Nguyễn Lộc là người đầu tiên có công thâu thập kho tàng võ học phong phú của dân tộc ẩn náu ở nhiều vùng với nhiều phương páhp huấn luyện độc đáo, đặc dị, san định và bổ túc phần phân thế thất truyền, rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa thành Vovinam Việt Võ Đạo. Hiện nay, Việt Võ Đạo đã có một Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan độc lập và thuần túy võ đạo và hội nhập vào cuộc sống bằng chủ thuyết cách mạng tâm thân, luôn luôn gần gũi với con người, trọng tha nhân, hiến ích xã hội, bằng biểu tượng bàn tay thép đặt lên trái tim nhân ái.
Giá trị nhân bản ưu việt của Việt Võ Đạo là ở chỗ đó : từ ái, hóa giải, kết hợp, bao dung và bình đẳng với mọi người, không phân biệt và kỳ thị địa phương, quốc gia, giai cấp, tôn giáo hay chính kiến.
Trích " Bài giảng thuyết dành cho Phái đoàn Việt Võ Đạo Ấu Châu hành hương Việt nam và chiêm bái Tổ đường Việt Võ Đạo, ngày 15/08/1974
________________________________ VS CHƯỞNG MÔN LÊ SÁNG "
TÍNH CHẤT NHÂN ĐẠO
CỦA VÕ THUẬT VÀ VÕ ĐẠO
Thời xưa, tại Đông phương, vì đất rộng người nhiều và vì hệ thống giao thông kém, kinh đô xa, con người chỉ có cách tăng cường khả năng tự tồn, chớ không thể chờ pháp luật can thiệp, giải quyết hộ những bất công.
Vì vậy, nảy sinh một công thức :
Hạng người thứ nhất, học võ để tự vệ (để phòng giặc cướp).
Hạng người thứ hai, học võ để tranh chấp (muốn áp bức người, giành lợi, phải giỏi hơn).
Và theo luật thừa trừ, cũng nảy sinh hạng người thứ ba trọng tài, can gián, dùng võ lực can thiệp, để :
(1)- Cứu người bị áp bức ; hoặc
(2)- Đôi khi, lợi dụng tình thế để tranh đoạt quyền lợi về mình.
Tất nhiên, người có thể nắm vai tuồng thứ ba kia phải là một người xuất sắc và có những khả năng đặc biệt, như : võ công cao hơn, có nhiều uy tín, hoặc nhiều mưu lược, giỏi tâm lý, biết cách can gián.
Do đó, tự bản thân võ thuật, chúng đã có những giá trị đặc biệt, về cả xấu lẫn tốt. Gạt bỏ những giá trị xấu, giữ lại và phát triển những giá trị tốt, là đã nâng võ thuật lên hàng võ đạo.
Tiếng "Đạo" của người Đông phương - nơi có nhu cầu và tài nghệ của con người được nghệ thuật hoá và triết học hoá tới độ cao - quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào có thể dịch thoát, vì "Đạo" ngoài ý nghĩa là "con đường". Là "thông lộ" còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật.
Ví dụ : Uống trà là một nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, là trà đạo. Uống rượu là một thú vui, nhưng biết cách uống rượu với những nghi tắc đặ? biệt, và một quan niệm cao khiết về nhân tâm thế đạo, là tửu đạo. Thưởng hoa là môt thú vui thông thường trong đời sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn là nghệ thuật thưởng hoa, và nâng cao hơn nữa, là hoa đạo.
Võ thuật cũng vậy. Học võ, để trau giồi kỹ thuật tư vệ hay chiến đấu hoặc dùng làm nghề mưu sinh, là võ thuật, võ nghệ. Nhưng học võ với ý thức cao, hướng thiện và cải thiện con người toàn diện, có quan niệm võ tốt, là võ đạo. Do đó, học võ cốt để khoe khoang, thi tài, hiếu thắng và tranh thắng, hoặc để sử dụng, thực hiện những ý đồ riêng tư, không phải võ đạo. Võ đạo đi từ những ý tưởng tốt, sang khuynh hướng tốt, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp. Lý tưởng cao đẹp đó chính là do người, vì người và phát triển con người, để con người luôn luôn thăng tiến về mọi mặt, hầu có thể đóng góp khả năng giúp ích và hiến ích cho xã hội nhiều hơn. Ý hướng phục vụ con người, hướng thiện con người để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, là ý hướng nhân bản. Khoa học phục vụ con người, là khoa học mang tính nhân bản. Võ thuật phục vụ con người, là võ thuật mang tính nhân bản, thăng tiến thành võ đạo.
VÕ THUẬT PHẢI ĐƯỢC
HỆ THỐNG HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
Ta trở lại với lối võ xưa của tiền nhân, lối học võ thích dụng cho một trình độ tiến hóa đã qua : hệ thống giao thông giao kém, phương tiện vận chuyển tồi - đi khoảng trăm cây số, nếu đi ngựa phải mất một ngày, hoặc đi bộ mất ba bốn ngày. Đi thuyền cũng chỉ tương tự như đi bộ hay đi ngựa, tùy theo vận tốc.
Điều này có quan hệ với võ học đương thời ? Xin đáp : rất quan hệ. Vì hệ thống giao thông còn yếu kém, việc di chuyển khó khăn, nên sự truyền thông kiến thức - kể cả những kiến thức về kỹ thuật và nghệ thuật - rất giới hạn. Võ thuật cũng vậy, mỗi vùng có những cách thức tập luyện khác nhau, đòn thế khác nhau, kỹ thuật sử dụng khí giới khác nhau. Do vậy, kỹ thuật chiến đấu bằng quyền cước chung của dân tộc thật vô cùng phong phú, nhưng mỗi môn phái chỉ nắm giữ được ít nhiều bí thuật. Bởi đó, tinh thần tự tôn, chia thành môn phái ngày càng lên cao, nghiệt ngã, mông đồ nào sử dụng đòn thế không phải của sư môn sẽ bị khai trừ, liệt vào hạng phản đồ.
Sự trao đổi kiến thức về võ thuật có chăng, là chỉ nhằm vào những ngày hội làng với những môn giải trí đô vật hay giao đấu cá nhân, là những ngày long trọng trong năm qui tụ cả những khán giả trong làng và những khán giả làng bênh. Đời Trần có Giảng Võ Đường và chính sách cưỡng bách học tập võ nghệ, nhưng chú trọng nhiều vào giai cấp quí tộc và thiện dụng vũ khí hơn là căn bản quyền cước, để đáp ứng kịp thời với nhu cầu chống xâm lăng Mông Cổ. Đời Lê có chương trình cưỡng bách học tập võ nghệ cùng với kiến thức văn hóa qua các khoa thi Minh Kinh áp dụng cho các hàng quan võ từ tứ phẩm trở xuống, nhưng chưa phát động sâu rộng được trong quảng đại quần chúng, mặc dầu vẫn khích lệ gián tiếp bằng các khao thi Minh Kinh Khoa cả văn lẫn võ được mở khắp nơi.
Trong khi đó, võ thuật căn bản là quyền cước vẫn được âm thầm trui rèn mỗi ngày thêm sắc bén bởi những vị võ sư ẩn danh. Song kỹ thuật ngày càng tân tiến, tâm hồn càng đóng khung vào cảnh trầm lắng, tịch mịch vô vi, thoát tục, xa lìa cuộc sống.
Vì giao thông hạn chế, nên việc truyền thông, hội nhập và thái dụng các tinh hoa võ thuật cũng bị hạn chế theo, ta thấy rõ : võ Bình Định khác với võ Sơ Tây, võ Quảng Nam khách với võ Tahnh Nghệ, võ Gia Định khác với võ Hà Đông, võ 18 Thôn Vườn Trầu khác với võ Tân Khánh, tuy cùng chung một xuất xứ là võ Việt nam. Đã thế, kiến thức võ học chẳng những không trau giồi thêm, mà còn có thể bị mai một đi vì lối dạy "kén học trò" ; ngày xưa : mỗi lò võ hay võ đường chỉ gồm dăm bảy môn sinh, hoặc nhiều lắm là vài chục môn sinh. Phương pháp huấn luyện lại nghiêng về gia truyền, tâm truyền, bí truyền và môn truyền : võ của họ này không truyền cho họ khác, hoặc chỉ truyền cho môn đệ thật xứng đáng, rồi còn lo xa, giữ lại vài miếng bí hiểm, cốt để phòng xa khi bị học trò phản bội "dùng võ thầy đánh lại thầy". Môn phái này không bao giờ học hay dạy môn đồ phái khác. Làm trái lại là khi sư phản môn.
Bây giờ khác hơn. Nhờ những phương tiện giao thông tân tiến, chúng ta có thể thâu nạp và thái dụng mọi tinh hoa võ học trong nước, đồng thời chế biến để hóa giải và khắc chế các tinh hoa võ học nước ngoài. Xưa chống lại giáo dài, nay chống lại lưỡi lê. Xưa tay không chống với đoản đao, nay chống với dao găm (nhỏ hơn đoản đao) và các súng colt. Xưa, chú trọng tới đấu sức, nay chú trọng cả tới đấu mưu, đấu trí. Xưa, trọng nhiều về nội công, nay nghiêng về kỹ thuật, với cả những phương pháp té không đau, quăng quật và sự đối phó thông thường khi đối phương bất ngờ sử dụng võ khí hay xe cộ đâm phải, có thể nặng tay đánh chế một kẻ gian ác ; nhưng nay, chỉ cần khóa tay hay đánh gục, để phần còn lại cho pháp luật liệu lý v.v...
Rõ rệt là mỗi thời đại, có một nhu cầu riêng về võ học. Nên võ thuật cần phải được hệ thống hóa và hiện đại hóa, mới có giá trị thực dụng trong đời sống.
CỦA CÁC MÔN PHÁI NỔI DANH
A- Võ đạo Trung Quốc
Võ đạo Trung quốc thường lấy phái Thiếu Lâm làm "võ lâm Bắc Đẩu" và là ngã ba định mạng cho những chuyện thật bất ngờ.
Chuyện bất ngờ thứ nhất là, Đạt Ma sư tổ không phải là người Trung Quốc. Ngài gốc từ Ần Độ, môn đệ của sư tổ Bát Nhã Đa La, vị sư tổ Thiền Tông đời thứ 27, Ngài sang Trung Quốc chỉ với mục đích truyền bá Thiền Tông, bằng cách tìm một địa điểm biệt tịch để thâu nhận và hóa giáo môn đệ.
Chuyện bất ngờ thứ hai, trên đường hành đạo, ngài gặp một tục gia đệ tử có khí lượng khá là Triệu Khuông Dẫn. Biết Triệu quân có khí độ quân vương, ngài truyền cho bài "Hồng quyền" gồm 32 thế chính, khai triển tứ trụ thành 128 thế biến. Nhờ đó, họ Triệu dương danh thiên hạ và sau khi lên ngôi Tống Thái Tổ, bài "Hồng quyền" chuyển danh thành "Thái Tổ quyền". Tống Thái Tổ cũng tri ân tình sư đệ, đích thân tới thăm sư phụ sau khi thành công và xuất tiền ra xây lại ngôi chùa theo họa đồ của tổ sư vẽ sẵn.
Điểm bất ngờ thứ ba là, tục gia đệ tử của Đạt Ma sư tổ đông hơn xuất gia đệ tử, nên môn phái Thiếu Lâm thành hình và hành võ theo đủ các nghiệp vụ của tục gia đương thời : dạy võ, bảo tiêu, bán thuốc dạo, đóng tuồng, binh nghiệp .v.v... yểm trợ cho việc quảng bá Thiền Tông tại khắp Trung Quốc và các nước lân bang, kể cả Việt nam.
Điểm bất ngờ thư tư là "Hồng quyền" và "Mai Hoa quyền" nổi tiếng hơn hẳn phương pháp thiền tọa "kiết già phu tọa" (Karma yoga) của Yoga, được gọi là "Dịch Cân Pháp" hay "Dịch Cân Kinh" giúp ích rất nhiều cho việc thiền định, tĩnh tọa và diện bích tư tưởng.
Rõ rệt là học võ Thiếu Lâm chỉ là một phương tiện hoằng dương Thiền đạo, vì đó mới là chủ điểm của Đạt Ma sư tổ, vị sư tổ Thiền đạo tại Trung Quốc. Các thành tích hành võ khác của tục gia đệ tử - kể cả Triệu Khuông Dẫn - chỉ là thứ yếu.
Kế đó, là môn phái Võ Đang của đạo sĩ Trương Quân Bảo, cũng gọi là Trương Tam Phong (Tam phong : ba ngọn núi), một vị xuất đồ của Thiếu Lâm phái. Cũng nặng về tu hành (theo Lão Giáo), vị sáng tổ Võ Đang cũng tổ chức môn phái tương tự như Đạt Ma sư tổ. "Thái Cực quyền" được phổ biến rộng, nhờ sự phổ biến rộng rãi Đạo giáo. Loạn Hồng Tú Toàn - Thái Bình Thiên Quốc - và giặc Cờ Đen v.v... đều xiển dương thành tích này. Hiện nay, "Thái Cực quyền" của môn phái Võ Đang cũng vẫn được dạy trong chương trình giáo dục của Trung Hoa Dân Quốc.
Võ đạo Trung Quốc do đó, thiếu hẳn giá trị võ đạo thuần túy, mà chỉ còn là một ngành sinh hoạt yểm trợ, lệ thuộc vào sự phát huy tôn giáo, hoặc hội nhập vào chính trị để trở thành công cụ đấu tranh chính trị.
B- Võ đạo Nhật Bản
Võ đạo Nhật Bản, gốc từ Nhật Võ Đạo (Bushido), chịu ảnh hưởng mạnh của Thần Giáo - và sau đó, được bồi dưỡng thêm bằng tư tưởng Phật Giáo.
Khác với võ đạo Trung Quốc nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ đạo Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào sinh hoạt chính trị, để trở thành một giai cấp xã hội : giai cấp võ sĩ đạo (samourai). Đây là một giai cấp đặc biệt, chỉ Nhật Bản mới có. Người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện ngay từ nhõ những kỹ thuật chiến đấu tay không và võ khí rất lành nghề và tinh thần võ sĩ đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng trong bộ luật "Nhật Võ Đạo", trong đó có 5 đức tính chánh và 3 đức tính phụ. 5 đức tính chánh là : sự ngay thẳng tức đức công bằng, đức can đảm, đức nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm. 3 đức tính phụ là : đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc.
Rõ rệt là người võ sĩ đạo Nhật Bản được huấn luyện để trung thành với chủ: một vị lãnh chúa, một vị tướng quân hay một chủ nhân trọng nghĩa. Bushi - tiếng Nhật có nghĩa là nghĩa hiệp - không giống với nghĩa thông thường, mà chỉ có nghĩa là quên mình để nghĩ tới tha nhân - tức chủ nhân. Truyền thống này đã tạo cho người võ sĩ đạo Nhật Bản có nếp sống thật đặc biệt : vâng lời tuyệt đối minh chủ của mình, suốt đời không đổi chí. Đặc biệt hơn nữa là nước Nhật có những "Tự Sát Viện" (Seppuku, Kappuku hay Hara-kiri) dành cho những người cò tội tới đền tội bằng cách mổ bụng ngã sấp xuống.
Ta thấy tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản gần như lệ tuộc hẳn vào chính trị bằng động cơ tôn giáo. Người võ sĩ đạo Nhật do đó, ít có sáng kiến và ý chí tự cường, nhưng ngược lại, giàu can đảm và kỷ luật, rất cần cho sự điều hành tập thể.
C- Võ đạo Đại Hàn
Võ đạo Đại Hàn quen thuộc với chúng ta từ năm 1964 với sự hiện diện của các sư đoàn đồng minh Đại Hàn "Mãnh Hổ", "Thanh Long", "Bạch Mã", v.v...
Võ đạo Đại Hàn nằm giữa thông lộ Trung Hoa - Nhật Bản, nên ảnh hưởng rất nhiều ở cả hai nền võ đạo đặc biệt này. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người Đại Hàn bỏ quên dân tộc tính. họ quen sống trên sa mạc tuyết ít nguồn lợi, luôn luôn phải đối địch với đối nhân và đối vật để dành nhu cầu sống, nên rất thực tế. Đánh trên tuyết cần ra đòn nhanh và mạnh, khai triển tất cả những ưu điểm của thân mình : "Túc Quyền Đạo" (Tae Kwon Do). Túc Quyền Đạo, đúng như tên của nó, không cần nói nhiều, mà chỉ cần "đá" nhanh "đấm" lẹ để sống còn trên đất tuyết.
Do đó, chúng ta không lạ gì khi người Đại Hàn thiện dụng cặp chân dài tối đa trên tuyết. Chúng ta cũng không lạ gì khi thấy người Đại Hàn thường lầm lì ít nói, cũng như Túc Quyền Đạo rất nhẹ về lý thuyết võ đạo. Và chúng ta cũng không lạ khi thấy người Đại Hàn nhìn bên ngoài có vẻ ngây ngô, cũng như khi xử thế có phần kém tế nhị và hay dùng bạo lực. Đó là truyền thống võ đạo đặc biệt của Đại Hàn.
D- Tinh thần hiệp mã thượng Tây phương
Ngoài các môn phái võ thuật, võ đạo Đông phương, chúng ta còn có thể đề cập đến tinh thần hiệp mã thượng (chevalerie) Tây phương, một tinh thần võ đạo đặc biệt phản ảnh nếp sống phong kiến, trưởng giả của giai cấp quí tộc Tây phương thời Trung cổ.
Tinh thần hiệp mã thượng biểu dương tinh thần "chánh nhân" chú trọng tới các nghi thức xử thế quí tộc hơn là thực trạng xã hội. Người chính nhân ăn mặc sang trọng, kiểu cách, nói năng mực thước, nhưng không cần thiết lắm tới đức tính tháo vát và lòng nhân đạo. Do đó, ta thấy người quân tử Tàu có thể chế vì bênh yếu chống mạnh, nhưng ta không thể thấy chính nhân Tây phương làm những công việc tương tự.
Người hiệp sĩ mã thượng (chevalerie) Tây phương chịu ảnh hưởng sâu đậm ở quan niệm này, nên sự hành võ của họ nặng về trình diễn hơn là phần thực dụng : hai lưỡi gươm to bản sáng ngời, bộ áo giáp bóng loáng nặng nề, con ngựa thật đẹp, đóng yên cương quá chắc, cây dáo thật to và thật dài nhọn, cồng kềnh. Tất cả, chỉ để sử dụng trong những trường hợp song đấu, trình diễn ở đấu trường hơn là ở chiến trường. Ngoài ra, người hiệp sĩ mã thượng còn được ưu đãi quá đặc biệt : nhà cao, cửa rộng, xe ngựa, gia nhân v.v... nên không hề biết tới thực trạng của một xã hội nhiều bất công, khổ cực. Cuối cùng, chánh trị xen vào nội bộ của họ, để họ giết lẫn nhau và cùng bị tiêu diệt.
GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA VIỆT VÕ ĐẠO
Khác với những môn phái võ đạo nhận chịu nhiều ảnh hưởng của tôn giáo và chính trị, hoặc đôi khi, trở thành ngay chính công cụ hoặc phương tiện hành giáo hay hành chánh, Việt Võ Đạo vẫn giữ vững truyền thống độc lập đặc biệt của mình với truyền thống tổng hợp võ học Việt nam và truyền thống này được tiếp diễn trong các thời đại Tiền Việt Võ Đạo liên tục qua các thời đại lịch sử. Đôi khi, tôn giáo cũng đem lại nhiều ảnh hưởng với võ đạo, nhưng không vì thế mà tôn giáo hóa võ học. Đôi khi, chính trị cũng xen lẫn, nhưng thường hòa hợp với võ đạo để trở thành một sức mạnh chung đối phó với cường xâm ngoại nhập. Do đó, các bậc danh tướng, lương thần thường lui về ở ẩn lúc công thành danh toại, với một cuộc sống vừa tiêu diêu, vừa nhiệm thế bằng cách vẫn can dự vào việc làng xã, khi được hỏi ý kiến.
Trở lại với hiện cảnh của Việt Võ Đạo chúnh ta : rõ rệt là nền võ đạo của chúng ta hoàn toàn độc lập với các ảnh hưởng tôn giáo và chánh trị, tuy độc lập không có nghĩa là cô lập và không biết liên kết khi hữu sự. Quá trình này được ghi nhận trong những biến cố lịch sử đặc biệt vào những năm 1945 - 1946, 1954, 1963, 1973 tới nay. Mặc dù hợp tác với những thế lực chánh trị đương thời trong các nhiệm vụ chống xâm lăng, bảo vệ dân tộc và cứu trợ xã hội, nhưng môn phái vẫn giữ vững tư thế độc lập của mình trong mọi cảnh huống và tình huống lịch sử.
Do đó, chúng ta có thể khẳng định rõ rệt : trong các môn phái võ đạo hiện nay, riêng chỉ có Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần túy, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh hưởng tôn giáo hoặc ảnh hưởng chánh trị nào. Việt Võ Đạo mới đích thực là võ đạo của nhân lạoi, vượt thoát mọi giai cấp và tôn giáo, để bao dung, kết hợp, hóa giải mọi chênh lệch của xã hội loài người.
SỨ VỤ VIỆT VÕ ĐẠO
TRONG HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Dạy cho người biết võ rồi hướng dẫn họ phảo làm gì lợi ích cho mình và cho người là võ đạo. Còn có Đạo rồi mới học võ để bảo vệ và phát huy Đạo, thì chỉ là dùng võ để làm phương tiện, làm công cụ, chứ không phải "làm võ đạo".
Việt Võ Đạo đi theo con đường võ đạo độc lập và tuần túy, nhất thiết từ chối mọi chi phối, đồng hóa của tôn giáo và chính trị. Do đó, Việt Võ Đạo đang phát triển để trở thành võ đạo của võ đạo, tức võ đạo thuần nhất của con người.
Các cán bộ Việt Võ Đạo cần ý hội sứ vụ này trong tương lai quảng phát võ đạo vào cộng đồng nhân loại, bằng cách phát huy song song tinh thần võ đạo và kỹ thuật võ học.
Tinh thần võ đạo cần phải được thể hiện bằng nếp sống, tình cảm, cách ăn ở, đối đãi với tha nhân sao cho mọi người hiểu và yêu kính mình trước khi đến thụ giáo. Chúng ta phải truyền thông ấn tượng tốt vào cảm quan của đối tượng về một tinh thần võ đạo thật sự không biên giới quốc gia, giai cấp, tôn giáo. Trường hợp đão ngộ ưu tiên cho những người bằng cấp lớn vào địa vị cao trong Việt Võ Đạo chỉ là sự đáp ứng những tiêu chuẩn tiếp thụ tinh thần võ đạo chớ không phải vì tiêu chuẩn bằng cấp độc tôn hay tiên quyết.
Kỹ thuật cần tinh tiến, đổi mới, võ đạo càng lâu đời, càng cò truyền thống, càng được tôn quí. Việt Võ Đạo là kết tinh của tinh thần và kỹ thuật chiến đấu để giữ nước, dựng nước và mở nước của dân tộc Việt có từ thời lập quốc. Võ sư sáng tổ Nguyễn Lộc là người đầu tiên có công thâu thập kho tàng võ học phong phú của dân tộc ẩn náu ở nhiều vùng với nhiều phương páhp huấn luyện độc đáo, đặc dị, san định và bổ túc phần phân thế thất truyền, rồi hệ thống hóa và hiện đại hóa thành Vovinam Việt Võ Đạo. Hiện nay, Việt Võ Đạo đã có một Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan độc lập và thuần túy võ đạo và hội nhập vào cuộc sống bằng chủ thuyết cách mạng tâm thân, luôn luôn gần gũi với con người, trọng tha nhân, hiến ích xã hội, bằng biểu tượng bàn tay thép đặt lên trái tim nhân ái.
Giá trị nhân bản ưu việt của Việt Võ Đạo là ở chỗ đó : từ ái, hóa giải, kết hợp, bao dung và bình đẳng với mọi người, không phân biệt và kỳ thị địa phương, quốc gia, giai cấp, tôn giáo hay chính kiến.
Trích " Bài giảng thuyết dành cho Phái đoàn Việt Võ Đạo Ấu Châu hành hương Việt nam và chiêm bái Tổ đường Việt Võ Đạo, ngày 15/08/1974
________________________________ VS CHƯỞNG MÔN LÊ SÁNG "
TÍNH CHẤT NHÂN ĐẠO
CỦA VÕ THUẬT VÀ VÕ ĐẠO
Thời xưa, tại Đông phương, vì đất rộng người nhiều và vì hệ thống giao thông kém, kinh đô xa, con người chỉ có cách tăng cường khả năng tự tồn, chớ không thể chờ pháp luật can thiệp, giải quyết hộ những bất công.
Vì vậy, nảy sinh một công thức :
Hạng người thứ nhất, học võ để tự vệ (để phòng giặc cướp).
Hạng người thứ hai, học võ để tranh chấp (muốn áp bức người, giành lợi, phải giỏi hơn).
Và theo luật thừa trừ, cũng nảy sinh hạng người thứ ba trọng tài, can gián, dùng võ lực can thiệp, để :
(1)- Cứu người bị áp bức ; hoặc
(2)- Đôi khi, lợi dụng tình thế để tranh đoạt quyền lợi về mình.
Tất nhiên, người có thể nắm vai tuồng thứ ba kia phải là một người xuất sắc và có những khả năng đặc biệt, như : võ công cao hơn, có nhiều uy tín, hoặc nhiều mưu lược, giỏi tâm lý, biết cách can gián.
Do đó, tự bản thân võ thuật, chúng đã có những giá trị đặc biệt, về cả xấu lẫn tốt. Gạt bỏ những giá trị xấu, giữ lại và phát triển những giá trị tốt, là đã nâng võ thuật lên hàng võ đạo.
Tiếng "Đạo" của người Đông phương - nơi có nhu cầu và tài nghệ của con người được nghệ thuật hoá và triết học hoá tới độ cao - quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào có thể dịch thoát, vì "Đạo" ngoài ý nghĩa là "con đường". Là "thông lộ" còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật.
Ví dụ : Uống trà là một nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, là trà đạo. Uống rượu là một thú vui, nhưng biết cách uống rượu với những nghi tắc đặ? biệt, và một quan niệm cao khiết về nhân tâm thế đạo, là tửu đạo. Thưởng hoa là môt thú vui thông thường trong đời sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn là nghệ thuật thưởng hoa, và nâng cao hơn nữa, là hoa đạo.
Võ thuật cũng vậy. Học võ, để trau giồi kỹ thuật tư vệ hay chiến đấu hoặc dùng làm nghề mưu sinh, là võ thuật, võ nghệ. Nhưng học võ với ý thức cao, hướng thiện và cải thiện con người toàn diện, có quan niệm võ tốt, là võ đạo. Do đó, học võ cốt để khoe khoang, thi tài, hiếu thắng và tranh thắng, hoặc để sử dụng, thực hiện những ý đồ riêng tư, không phải võ đạo. Võ đạo đi từ những ý tưởng tốt, sang khuynh hướng tốt, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp. Lý tưởng cao đẹp đó chính là do người, vì người và phát triển con người, để con người luôn luôn thăng tiến về mọi mặt, hầu có thể đóng góp khả năng giúp ích và hiến ích cho xã hội nhiều hơn. Ý hướng phục vụ con người, hướng thiện con người để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, là ý hướng nhân bản. Khoa học phục vụ con người, là khoa học mang tính nhân bản. Võ thuật phục vụ con người, là võ thuật mang tính nhân bản, thăng tiến thành võ đạo.
VÕ THUẬT PHẢI ĐƯỢC
HỆ THỐNG HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
Ta trở lại với lối võ xưa của tiền nhân, lối học võ thích dụng cho một trình độ tiến hóa đã qua : hệ thống giao thông giao kém, phương tiện vận chuyển tồi - đi khoảng trăm cây số, nếu đi ngựa phải mất một ngày, hoặc đi bộ mất ba bốn ngày. Đi thuyền cũng chỉ tương tự như đi bộ hay đi ngựa, tùy theo vận tốc.
Điều này có quan hệ với võ học đương thời ? Xin đáp : rất quan hệ. Vì hệ thống giao thông còn yếu kém, việc di chuyển khó khăn, nên sự truyền thông kiến thức - kể cả những kiến thức về kỹ thuật và nghệ thuật - rất giới hạn. Võ thuật cũng vậy, mỗi vùng có những cách thức tập luyện khác nhau, đòn thế khác nhau, kỹ thuật sử dụng khí giới khác nhau. Do vậy, kỹ thuật chiến đấu bằng quyền cước chung của dân tộc thật vô cùng phong phú, nhưng mỗi môn phái chỉ nắm giữ được ít nhiều bí thuật. Bởi đó, tinh thần tự tôn, chia thành môn phái ngày càng lên cao, nghiệt ngã, mông đồ nào sử dụng đòn thế không phải của sư môn sẽ bị khai trừ, liệt vào hạng phản đồ.
Sự trao đổi kiến thức về võ thuật có chăng, là chỉ nhằm vào những ngày hội làng với những môn giải trí đô vật hay giao đấu cá nhân, là những ngày long trọng trong năm qui tụ cả những khán giả trong làng và những khán giả làng bênh. Đời Trần có Giảng Võ Đường và chính sách cưỡng bách học tập võ nghệ, nhưng chú trọng nhiều vào giai cấp quí tộc và thiện dụng vũ khí hơn là căn bản quyền cước, để đáp ứng kịp thời với nhu cầu chống xâm lăng Mông Cổ. Đời Lê có chương trình cưỡng bách học tập võ nghệ cùng với kiến thức văn hóa qua các khoa thi Minh Kinh áp dụng cho các hàng quan võ từ tứ phẩm trở xuống, nhưng chưa phát động sâu rộng được trong quảng đại quần chúng, mặc dầu vẫn khích lệ gián tiếp bằng các khao thi Minh Kinh Khoa cả văn lẫn võ được mở khắp nơi.
Trong khi đó, võ thuật căn bản là quyền cước vẫn được âm thầm trui rèn mỗi ngày thêm sắc bén bởi những vị võ sư ẩn danh. Song kỹ thuật ngày càng tân tiến, tâm hồn càng đóng khung vào cảnh trầm lắng, tịch mịch vô vi, thoát tục, xa lìa cuộc sống.
Vì giao thông hạn chế, nên việc truyền thông, hội nhập và thái dụng các tinh hoa võ thuật cũng bị hạn chế theo, ta thấy rõ : võ Bình Định khác với võ Sơ Tây, võ Quảng Nam khách với võ Tahnh Nghệ, võ Gia Định khác với võ Hà Đông, võ 18 Thôn Vườn Trầu khác với võ Tân Khánh, tuy cùng chung một xuất xứ là võ Việt nam. Đã thế, kiến thức võ học chẳng những không trau giồi thêm, mà còn có thể bị mai một đi vì lối dạy "kén học trò" ; ngày xưa : mỗi lò võ hay võ đường chỉ gồm dăm bảy môn sinh, hoặc nhiều lắm là vài chục môn sinh. Phương pháp huấn luyện lại nghiêng về gia truyền, tâm truyền, bí truyền và môn truyền : võ của họ này không truyền cho họ khác, hoặc chỉ truyền cho môn đệ thật xứng đáng, rồi còn lo xa, giữ lại vài miếng bí hiểm, cốt để phòng xa khi bị học trò phản bội "dùng võ thầy đánh lại thầy". Môn phái này không bao giờ học hay dạy môn đồ phái khác. Làm trái lại là khi sư phản môn.
Bây giờ khác hơn. Nhờ những phương tiện giao thông tân tiến, chúng ta có thể thâu nạp và thái dụng mọi tinh hoa võ học trong nước, đồng thời chế biến để hóa giải và khắc chế các tinh hoa võ học nước ngoài. Xưa chống lại giáo dài, nay chống lại lưỡi lê. Xưa tay không chống với đoản đao, nay chống với dao găm (nhỏ hơn đoản đao) và các súng colt. Xưa, chú trọng tới đấu sức, nay chú trọng cả tới đấu mưu, đấu trí. Xưa, trọng nhiều về nội công, nay nghiêng về kỹ thuật, với cả những phương pháp té không đau, quăng quật và sự đối phó thông thường khi đối phương bất ngờ sử dụng võ khí hay xe cộ đâm phải, có thể nặng tay đánh chế một kẻ gian ác ; nhưng nay, chỉ cần khóa tay hay đánh gục, để phần còn lại cho pháp luật liệu lý v.v...
Rõ rệt là mỗi thời đại, có một nhu cầu riêng về võ học. Nên võ thuật cần phải được hệ thống hóa và hiện đại hóa, mới có giá trị thực dụng trong đời sống.