Tô Kim Dung
(Jun_xynh)
New Member
Cánh đồng bất tận-Nguyễn Ngọc Tư
Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được làm được, nhưng nhiều điều buộc phải "bó tay". Ví dụ như mấy lời nầy:" Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động!Ngay tại đó!Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì-dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối ko biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ."(Hạn chế sân hận,trải rộng tình thuơng-Tỳ kheo VISUDDHACARAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao....
Nguồn: http://forum.d3net.net/viewtopic.php?p=46980#46980
Cánh đồng bất tận
1 Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn duờng như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi nầy. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn duới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng luới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng (cái lò bằng đất nung dùng để chụp củi nấu cơm) lên bờ, nhóm củi.
Rồi ngọn lửa hoi hóp thở duới nồi cơm đã lên tim,nguời đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau duới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vều ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và duới cái áo mà tôi đã đắp cho chị là một cái áo khác đã bị xé rách tả tơi phơi những mảng thịt cho nguời ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Nguời ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đuờng xóm, truớc khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vuơng vãi trấu. Vai nữ chính, một nguời đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá với vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài nếu không có một ý tuởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chặt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một đám cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc đứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám nguời ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám nguời đang tràn ra me bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt táo tác kêu duới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật duới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhòe những bóng nguời đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất....
Cha tôi không đóng vai trò j trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào . Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên nguời chị, sao cho che được đôi vú rách buơm và khoảng đùi ruớm máu. Chị cừoi mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đuờng, chị ko hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như nguời chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài , khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào...
Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng nầy. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát,"tui nuốt còn ko vô, nói chi..."
Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị ko ăn. Chị từ chối cả uống nuớc, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, duờng như chỉ đủ uớt môi. Đói và khát nhưng chị còn sợ đau hơn. Nguời ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị...
Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm tối. Tôi nghe hai nguời lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nuớc vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đuờng đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn với theo, ghé tiệm mua giùm ngàn ruỡi đuờng cát.
Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền ko mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay truớc mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó bóng mượt, trong suốt và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo "Keo dán sắt...". Duờng như những nguời sản xuất ra loại keo này cũng ko ngờ nó có nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tuơm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió...
2 Cánh đồng ko có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh,chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỉ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên...Và mai nầy khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.
Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi,"Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè?". Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẫm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu muớt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị ko bị thuơng tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.
Chị hỏi "Tắm ở đâu, mấy cưng?". Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.
Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nuớc, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ nầy, hôm qua, Điền đã câu được con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình duới đó khá lâu, chẳng kì cọ gì, chỉ để nước lạnh chuờm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nuớc nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ây. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng buớc ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quẫn cụt quăn queo của nó.
Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Ko chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía nguời đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng:"Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ..."
Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thuơng đã lành rất mau. Chị cuời, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cuời, "Làm đĩ". Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền "Chắc mấy cưng ko biết đâu...".
Điền nhìn tôi cuời. Chúng tôi đã gặp nhiều , rất nhiều nguời phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, luợn lờ quanh lều của những thợ gặt, những nguời đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tuơi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kĩ phát ứa nuớc mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cuời chút chít, tiếng thở mơn man...lên trời, làm nhiều nguời đàn bà đang cắm cúi nấu cơm,cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rựou cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi ngừoi. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cuời khúc khích và uốn éo thân mình chứ ko trơ ra nguợng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài nguời đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xóa đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn ngừoi đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.
-Ăn trên mồ hôi nuớc mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng ?
Chị nói, và ngả nghiêng cuời, duờng như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa."Mà hên nghen,nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...".
Cha ko vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng ko vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị buớc qua rào. "Bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà". Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cuời (mà con mắt đung đưa phía cha) "Mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi..."
Nhưng tôi và ĐIền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.
-Mấy cưng thuơng chị thiệt hả? Tội chưa...?!!
Chị ngạc nhiên thấy nước mắt chảy ròng ròng trên má thằng Điền (mà chị ko biết nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ năm 9 tuổi). Thật cảm động khi đời đánh tả tơi bầm dập, vậy mà đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lí do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thuờng.
Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, nguời ở đây lại ko có nuớc để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà lại ko có cuc đất để chọi chim). Nguời họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nuớc ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nuớc khỏi sánh ra ngoài vì đuờng xa, nuớc mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nuớc chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nuớc vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vuờn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây trụi lá). Ở đó có nguời con trai bảo, "Uớc làm sao truớc lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời". Câu nói nầy làm tôi thuơng anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh ta tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ "Ko biết em có muốn ở lại với...má tui?!". Tôi lắc đầu, hai gàu nuớc ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?
Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Nguời ta ko thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nuớc. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.
Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nuớc đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa nầy, nguời ta lấy nuớc từ tất cả các con sông nhỏ, các con kinh lớn để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng ko thể ngược sông Bìm Bịp để băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.
Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, ko có nuớc chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần suợng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì càng ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nuớc để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.
Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng luới, nhắp cá và tát những cái muơng cạn. Cá ăn ko hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích,"Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à..."
Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy,xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, duờng như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi,"Nguời ta thuơng mẹ ra làm sao?". Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tuơi hay con cá thát lát mà nó dành cho chị cũng giống hệt như nguời ta vẫn thuờng cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt nguời đó...cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thuờng nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?
KHi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp suơng giá. Chị buớc ra khỏi chòi, khoan khoái vuơn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khóe mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sáng, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đuờng nào đó trải dài truớc chị. Chị cuời, bảo:
-Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiễu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.
Rồi chị giành nấu cơm. CHị xắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vẩy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nuớc mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cuời. Vì cái cuời đó mà tôi ứa nuớc mắt thêm lần nữa.
Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, "Tôi trả cho hồi hôm...". Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười," Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng".
Điền và tôi rủ chị đi câu (chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cuời, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi,ko dính con cá nào, chị nói, "Mắc cuời quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị". Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phuơng. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống muơng, lặn sâu, móc cá vô luỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì thấy chị đã cuời.
Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch duới nuớc rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám duới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng một đứa bé con, và thằng em trai muời bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi nguợng ngùng. Nuớc cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía duới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên:
-Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?
Chị toàn hỏi những câu khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi "Má mấy cưng đâu?", "Nhà mấy cưng ở chỗ nào? ", thằng Điền đổ quạu:
-Biết chết liền!