Đã thấy xuân về với tranh xưa...

Đỗ Huyền My
(Sagittarius)

Điều hành viên
Vài cái tranh Hàng Trống, tặng cả nhà nhân Tết đến xuân về:

TubinhHangTrong.jpg


HT1.jpg
HT2.jpg


chimsa.jpg
calan.jpg




-----
 
Mỗi năm cứ vào độ cuối tháng Chạp, bà cụ gần nhà tôi lại nhắc nhở con cháu trong nhà phải đi tìm mua một vài bức tranh Tết Hàng Trống về treo, giống như nhớ mấy ngày Tết trong nhà luôn phải có mâm ngũ quả tươi ngon, mấy cây mía tím. Mùa xuân dường như bắt đầu từ đó...

Chơi tranh ai dễ biết tranh

Tranh Hàng Trống không được nhiều người biết đến như tranh Đông Hồ, cũng bởi vì phương thức sản xuất của nó. Nếu như một người thợ in tranh Đông Hồ có thể ngồi in hàng nghìn bức tranh trong vòng ba, bốn ngày, thì thợ làm tranh Hàng Trống cặm cụi suốt thời gian ấy cũng chỉ hoàn thành xong một bức.

Điểm khác biệt lớn nhất là trong khi tranh Đông Hồ có bản gỗ in màu từng mảng lớn thì tranh Hàng Trống phải do người thợ ngồi tô màu từng chi tiết nhỏ.

Xuất phát từ nghề làm tranh thờ, cả dòng tranh Hàng Trống hây giờ còn có một nghệ nhân, ông Lê Đình Nghiên, ở phố Cửa Đông (Hà Nội).

Ông Nghiên bảo, tranh Hàng Trống bây giờ ít người mua nên khó bán, cả một khu phố làm tranh nhộn nhịp ngày xưa rồi cứ thế mà thưa vắng dần. chỉ còn nhà ông là còn kiên gan gắn bó với nghề.

Không kiên gan sao được, bởi để có một bức tranh hoàn chỉnh, trước tiên là phải biết cách bồi bức tranh lên trên mặt gỗ thế nào cho phẳng, cho ngay ngắn. Bồi không khéo gặp khi trời khô, tranh cong vênh lên như bánh đa, công lênh tô màu xem như đổ xuống sông xuống bể.

Đến cái công đoạn tô màu cũng muộn phần phức tạp. Bức tranh mẫu màu sắc thế nào thì tranh tô cũng phải y nguyên như thế, tuân thủ đúng quy trình, anh thợ nào "hững chí" sáng tạo thêm màu thì xem như bức tranh hỏng kiểu. Một bức tranh được xem như đạt yêu cầu khi đường nét sắc gọn, màu tô không bị trùm lên nét in, không được loang sang nhau, bức tranh phẳng phiu, bố cục cân chỉnh.

Bộ sưu tập ván in

Nếu tranh Đông Hồ ăn nhau ở chỗ quết điệp, thì tranh Hàng Trống khó ở công đoạn bồi giấy và tô màu, kỹ thuật càng tinh xảo bao nhiêu, bức tranh càng được tăng thêm giá.trị.

Những bộ tranh lớn như Tố nữ hay Tứ bình, cặp tranh Công- Cá có khi mất cả tháng trời mới hoàn thành phần tô màu cho hàng mấy trăm chi tiết phức tạp. Bởi thế mà tranh Hàng Trống, tuy cũng là dòng tranh dân gian, nhưng nó có cái nét đẹp sắc sảo kiêu kỳ của những cô gái thành thị. Trong khi đó tranh Đông Hô, từng mảng màu khoẻ khoắn; sắc gọn, đường nét trông có vẻ rất "ra môn ra khoai" hệt như những cô thôn nữ của làng quê chân chất.

Thú treo tranh trong nhà mỗi dịp Tết đến của người dân ở khu vực thành thi đã tạo nên sức sống cho dòng tranh này suốt hàng trăm năm qua, nhưng khi nó có phần yếm thế như bây giờ thì ván gỗ cũng chẳng mấy khi được dùng.

Ông Nghiên hiện đang lưu giữ khoảng gần 40 ván in, mà điều kiện bảo quản "tại gia" thế này không chắc rằng lâu dài chúng vẫn còn nguyên trạng.

Ông Nghiên bảo: "Có được bộ ván in tôi được thừa hưởng lại từ cha mình, chỉ có một số mới thuê thợ Đông Hồ khắc lại. Bây giờ tìm được người biết khắc ván in cũng khó như thể tìm kim đáy bể. Ván lỗi thì tranh sai, mà bức tranh bị in sai nét thì không còn là tranh nữa...".

Người vẽ hồn xuân

Cuối năm là dịp ông Nghiên bận rộn tối mắt tối mũi. Khách miền Nam, khách Việt kiều, khách nước ngoài, ai cũng muốn có được một bức tranh của đích thân nghệ nhân làm cho.

Từng công đoạn thao tác được ông làm một cách tỉ mẩn, cậu con trai cặm cụi cả ngày cũng chỉ được giao cho tô những màu cơ bản: Màu da cam là màu mái ngói, màu đất gạch nung; màu gỗ; màu lam là màu đá; màu đỏ, màu xanh tả những nét vui, mặt người bao giờ cũng có một màu hồng phấn.

Tranh Hàng Trống nhìn vào là thấy rực rỡ chói chang, đặt cạnh nhau hơi "gắt" nhưng nó thực sự sống động và toả ra một không khí rất rộn ràng, náo nức. Chợ quê và Canh nông chi đồ là hai trong số rất nhiều bức tranh được nhiều người biết đến trong thú treo tranh ngày Tết. Nhìn vào tranh đã thấy ngay cái chất tỉ mỉ tài hoa của người Kẻ Chợ.

Ông Nghiên bảo Tết đến nhiều nhà ở thành thị cũng thích treo những bức tranh như Thái đồng vẽ cảnh bảy chú bé đang trèo cây hái đào như mong một năm mới sinh sôi nhiều tài nhiều lộc. Bộ tranh Tố nữ, hay Tứ bình với bốn bức vẽ cảnh sắc bốn mùa trong năm cũng là một thú chơi được nhiều người yêu thích.

Tuy thế, dòng tranh này còn tồn tại được bao lâu nữa chính ông cũng không dám chắc. Liệu những mùa xuân sau, còn ai treo tranh, tờ tranh giấy ngả vàng, ghi dấu những phong tục cổ truyền một thuở?



(nhandan.org.vn)
 
Giờ đến lượt tranh Đông Hồ:

Damcuoichuot.jpg


PhuQuy.jpg



Tồn tại lay lắt nhiều thập kỷ qua, dòng tranh dân gian Đông Hồ có lịch sử 400 năm đang đứng trước nguy cơ mai một.

Thăng trầm

Thời kỳ cực thịnh của dòng tranh này là trước năm 1944. Thời đó, 17 dòng họ trong làng Đông Hồ đều làm tranh. Mỗi năm phiên chợ bán tranh của làng chỉ họp năm phiên, mỗi phiên năm ngày vào dịp tháng Chạp để bán cho khách thập phương. Để chuẩn bị cho phiên chợ, cả làng tất bật từ tháng bảy âm lịch. Sân nhà, sân đình, triền đê sông Đuống bừng lên năm sắc mầu cơ bản: sắc đỏ của sỏi son, sắc xanh từ lá chàm, sắc vàng của hoa hòe, mầu đen của rơm nếp và lá tre, mầu trắng óng ánh từ vỏ sò, vỏ điệp.

Nhưng rồi theo thời gian, tranh Đông Hồ ngày càng mai một. Trong những năm từ 1960 đến 1970, tranh Đông Hồ bắt đầu rơi vào tình trạng khó khăn. Những bản khắc cổ có giá trị đã bị hư hỏng, thất lạc rất nhiều. Năm 1967, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Bắc (cũ) ký hợp đồng với Nhật Bản thành lập Đội sản xuất tranh. Thời gian đầu đội chỉ in cầm chừng mỗi tháng được trên dưới 1.000 tờ. Từ năm 1970 đến 1985, tranh Đông Hồ được xuất sang 12 nước XHCN. Thời kỳ này, việc xuất khẩu tranh đạt được kết quả nhiều nhất. Từ đó đến năm 1990, do sự thay đổi về nhu cầu thẩm mỹ và tác động của kinh tế thị trường, dòng tranh Đông Hồ tồn tại lay lắt. Đến nay, hầu hết những người làm tranh đều bỏ nghề.

Vẫn còn người tâm huyết...

Hiện nay ở Đông Hồ, chỉ còn hai nghệ nhân ở tuổi "cổ lai hy" nhưng còn tâm huyết, cố giữ nghề. Hơn 37 năm nay, ông Nguyễn Hữu Sam, nghệ nhân của làng tranh cặm cụi sưu tầm, bảo tồn những bản khắc cổ và tận tâm truyền nghề cho con cháu.

Sinh năm 1930 trong một gia đình có truyền thống làm tranh, khi còn nhỏ ông đã đam mê những sắc mầu độc đáo của tranh Đông Hồ. Từ năm 1967 đến năm 1989 ông vừa là Đội trưởng Đội sản xuất tranh, trực tiếp chỉ đạo kỹ thuật, vừa nghiên cứu, sưu tầm, phục chế, sáng tác tranh.

Đến nay, ông đã có trên 600 bản khắc kể cả các bản sưu tầm, phục chế và sáng tác mới, trong đó có gần 200 bản khắc cổ.

Ông cho biết: Muốn giữ nghề phải không nghĩ tới cái lợi trước mắt. Suốt tháng ngày, ông cần mẫn in ra những bức tranh sống động: "Đến hẹn lại lên", "Múa quạt Quan họ", "Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa", "Lý Thái Tổ hạ chiếu dời đô"... Theo gương ông, nhiều con cháu đã tự làm tranh và mở được phòng tranh riêng.

Thuộc thế hệ làm tranh thứ 22 của làng Đông Hồ, trăn trở trước tình trạng mai một của nghề tranh sau khi nghỉ hưu, nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế dành dụm lương hưu làm tranh và ba năm sau tranh của ông đã có người mua. Tìm mua các bản khắc mà nhiều gia đình lưu luyến với nghề cũ còn giữ lại được, ông nhân thêm nhiều bản khắc mới. Số bản khắc ông dày công sưu tầm, phục chế, sáng tác ngày một nhiều và phong phú thêm.

Đến nay, số bản khắc của gia đình ông đã có hơn 1.000 bản, trong đó có 150 bản khắc cổ, 100 loại tranh phục hồi, 20 loại tranh mới vẽ như: "Bác Hồ với thiếu nhi", "Bắt phi công Mỹ", "Đào mương chống hạn"... Con trai ông đã có phòng tranh ở Hà Nội, mở rộng được thị trường tiêu thụ cho sản phẩm này.

... nhưng dòng tranh vẫn có nguy cơ mai một


Cách đây gần năm năm, Câu lạc bộ làng tranh được thành lập với 20 hội viên với mục đích tổ chức dạy nghề, quản lý và bán tranh tại đình làng, được Tổng cục Du lịch hỗ trợ 50 triệu đồng, xã trích ngân sách 15 triệu đồng và vận động nhân dân đóng góp 20 triệu đồng để xây dựng cơ sở vật chất.

Tuy nhiên trong suốt mấy năm qua, câu lạc bộ hầu như không hoạt động, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Cuối tháng 9-2004, được sự hỗ trợ của Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch - Thương mại Bắc Ninh đã khai trương "Phòng tranh Đông Hồ", nhưng cũng chỉ trên cơ sở phòng tranh của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế.

Ảnh hưởng xu hướng thương mại hóa, các hình thức in lưới, dùng bột mầu thay cho chất liệu thiên nhiên... trở nên phổ biến đã làm cho dòng tranh mất dần đi những nét đặc trưng vốn có. Nhiều bản khắc cổ đứng trước nguy cơ bị thất lạc, bị hư hại do cung cách bảo quản thủ công.

Tuy đã có nhiều cố gắng của không ít cá nhân, tổ chức, nhưng việc khôi phục và phát triển dòng tranh vẫn đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn. Tranh Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một.


TTXVN
 
Back
Bên trên